VĨNH SƠN – HỒNG TÚ
Theo luật sư bảo vệ cho chị A., số tiền trúng số trên có được trong thời gian vợ chồng chung sống với nhau nên phải xem là tài sản chung và phải được chia đều. Tòa nói công sức đóng góp kẻ nhiều người ít cũng chưa thuyết phục. Nếu nói chị A. không có hoặc có ít công sức đóng góp lại càng bất hợp lý…
Ngày 9-12-2009, TAND
tỉnh An Giang hoãn phiên xử phúc thẩm vụ án không công nhận là vợ chồng
giữa chị Huỳnh Thị A. và anh Trần Văn T vì lấn cấn chuyện chia tài sản
liên quan đến 20 tờ vé số độc đắc.
Năm 2008, anh T. và chị A. tổ chức đám cưới (chưa
đăng ký kết hôn) và họ sống bằng nghề bán vé số dạo. Có tật hay ngủ quên
nên anh T. thường “ôm” vé số ế. Có lần vợ anh phải cầm cả đôi bông tai
ngày cưới lấy tiền trả nợ cho đại lý. Nghèo nhưng gia đình nhỏ của họ
vẫn ấm cúng.
Ngày 25-3-2009, anh T. nhận của đại lý 200 tờ vé số
(loại 5.000 đồng/tờ) đi bán nhưng đến chiều vẫn còn 40 tờ vé số ế. Thất
thểu về nhà với 40 tờ vé số ế thì anh T. hay tin mình trúng số. Trong đó
có 20 tờ trúng đặc biệt và 20 tờ trúng an ủi. Tổng giá trị giải thưởng
anh T. nhận là hơn 2,5 tỉ đồng. Sau đó mâu thuẫn vợ chồng phát sinh
nhưng hai người vẫn sống chung. Sau khi xây mới căn nhà, còn lại 1,4 tỉ
đồng anh T. mang gửi ngân hàng…
Ngày 27-8, TAND huyện Thoại Sơn không công nhận hai
người là vợ chồng vì không đăng ký kết hôn. Số tiền 1,4 tỉ đồng do trúng
số mà có là tài sản tồn tại trong thời gian chung sống với nhau. Tuy lý
luận như vậy nhưng khi chia tài sản này thì tòa quyết: anh T. nhận 80%
trên tổng giá trị giải thưởng (tương đương 1 tỉ 120 triệu đồng), còn chị
A. chỉ được 280 triệu đồng. Lý do là anh T. trực tiếp đi bán vé số, bị ế
nên trúng thưởng, còn chị A. ít có công sức đóng góp. Cho rằng mình bị
tòa xử ép, chị A. kháng cáo.
Theo luật sư bảo vệ cho chị A., số tiền trúng số trên
có được trong thời gian vợ chồng chung sống với nhau nên phải xem là
tài sản chung và phải được chia đều. Tòa nói công sức đóng góp kẻ nhiều
người ít cũng chưa thuyết phục. Nếu nói chị A. không có hoặc có ít công
sức đóng góp lại càng bất hợp lý…
Trong vụ án này có hai vấn đề pháp lý đáng chú ý:
Thứ nhất, sống chung nhưng không đăng ký kết hôn có phải là quan hệ vợ
chồng hay không? Thứ hai, nếu không phải là quan hệ vợ chồng thì tài sản
phát sinh trong thời gian sống chung sẽ được phân chia như thế nào?
Thạc sĩ Lê Minh Hùng (giảng viên Đại học Luật TP.HCM)
cho biết pháp luật nước ta về hôn nhân và gia đình đã có nhiều sự nhìn
nhận về quan hệ hôn nhân qua từng thời kỳ.
Cụ thể, theo Nghị quyết 35 ngày 9-6-2000 của Quốc
hội, những quan hệ hôn nhân thực tế trước thời điểm ngày 3-1-1987 tuy
không đăng ký kết hôn nhưng không vi phạm điều kiện kết hôn theo Luật
Hôn nhân và Gia đình (về sự tự nguyện, độ tuổi, huyết thống…) thì nhà
nước khuyến khích họ đi đăng ký kết hôn. Trong trường hợp có yêu cầu ly
hôn thì các tranh chấp sẽ được giải quyết như đối với những người có
đăng ký kết hôn.
Với quan hệ sống chung được xác lập từ sau ngày
3-1-1987 đến trước ngày 1-1-2001, các bên phải đi đăng ký kết hôn, thời
hạn dành cho những trường hợp này là hai năm tính từ ngày 1-1-2001 đến
ngày 1-1-2003. Nếu như các bên thực hiện đăng ký kết hôn đúng thời hạn
thì nhà nước công nhận thời gian xác lập quan hệ vợ chồng từ thời điểm
họ sống chung với nhau. Nếu như họ đăng ký kết hôn sau ngày 1-1-2003 thì
quan hệ vợ chồng được nhà nước công nhận tại thời điểm họ đăng ký kết
hôn.
Như vậy, trường hợp sống chung từ sau ngày 1-1-2001
(thời điểm Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 có hiệu lực) mà không đăng ký
kết hôn thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Đối với những
trường hợp này, khi có tranh chấp về tài sản được hình thành trong thời
gian sống chung, tòa sẽ xác định, phân chia theo công sức, mức đóng góp
của từng người.
Ở đây, anh T. và chị A. tổ chức đám cưới năm 2008
nhưng không đăng ký kết hôn nên nhà nước không công nhận quan hệ vợ
chồng đối với họ. Do vậy, một khi tòa xác định tài sản họ đang tranh
chấp là tài sản chung của hai người, được hình thành trong thời gian họ
sống chung thì đó là tài sản chung theo phần và được chia theo công sức
đóng góp của mỗi người. Còn nếu tòa xác định là tài sản riêng thì của ai
người đó hưởng.
Một số vụ tranh chấp vé số độc đắc- Tháng 7-2004, TAND huyện Tuy Phong đã tuyên buộc người bạn học phải trả lại 22,5 triệu đồng cho em V., học sinh một trường tiểu học tại địa phương. Trước đó, nhà trường vận động học sinh mua loại vé số 2.000 đồng/tờ để gây quỹ khuyến học. Em V. chỉ có 1.000 đồng nên rủ một bạn cùng lớp hùn thêm tiền mua, thỏa thuận nếu trúng thì chia đôi và đưa tờ vé số cho bạn giữ. Sau đó, tờ vé số trên trúng giải đặc biệt nhưng bạn em V. lại không chịu chia đôi tiền thưởng.- Tháng 9-2005, chú cháu ông L. ở thị xã Trà Vinh vào một quán quen ngồi nhậu, được chủ quán cho mượn tiền mua sáu tờ vé số. Hôm sau, sáu tờ vé số trúng giải đặc biệt và người chú (giữ vé số) đã đi lãnh thưởng. Người cháu kiện yêu cầu người chú trả lại. Xử sơ thẩm, TAND thị xã Trà Vinh cho rằng các nhân chứng khai không nhất quán nên tuyên vé số thuộc về người chú, sau đó TAND tỉnh cũng y án sơ thẩm.
SOURCE: CIVILLAWINFOR TỔNG HỢP BÀI VIẾT CỦA CÁC TÁC GIẢ VĨNH SƠN – HỒNG TÚ TRÊN BÁO PHÁP LUẬT TPHCM
Trích dẫn từ:
0 comments:
Post a Comment