VĂN ĐOÀN
Tranh chấp quyền nuôi trẻ với bà ngoại nhưng không được các cơ quan pháp luật địa phương giải quyết. Bài “Giành nuôi cháu ngoại” (Pháp Luật TP.HCM
ngày 6-5) có phản ánh vụ tranh chấp quyền nuôi trẻ bốn tuổi giữa bà
Trần Thị Kim Hạnh (ngụ phường Linh Xuân, quận Thủ Đức, TP.HCM) với bà K.
(thị trấn Chư Ty, huyện Đức Cơ, Gia Lai). Đến nay, vụ việc này vẫn chưa
được giải quyết.
Năm 2005, con gái bà K. đến nhà bà Hạnh sinh con. Ít
ngày sau, do con bà K. bỏ lại trẻ nên bà Hạnh đã đứng ra làm giấy khai
sinh cho trẻ với tư cách là mẹ. Cuối tháng 2-2009, bà K. đưa trẻ lên Gia
Lai chơi. Lấy lý do “để công an địa phương không làm khó dễ”, bà K. đề
nghị bà Hạnh đưa khai sinh của trẻ, đồng thời viết giấy chuyển quyền
nuôi con. Sau đó, bà K. không chịu giao trả trẻ, viện lẽ đã đưa cho bà
Hạnh 30 triệu đồng…
Không ai chịu xử lý
Phản đối việc bà K. đưa tiền, bà Hạnh đã nộp nhiều
đơn yêu cầu các cơ quan chức năng xem xét, buộc bà K. phải giao trả trẻ
cho bà. Cho rằng vụ việc chỉ đơn thuần là tranh chấp dân sự, Công an
huyện Đức Cơ đã chuyển hồ sơ đến UBND thị trấn Chư Ty. Ngày 7-4, do hòa
giải không thành nên UBND thị trấn đã chuyển hồ sơ đến TAND huyện.
Ngày 21-4, Sở Tư pháp tỉnh Gia Lai xác định đây là
tranh chấp về xác định cha mẹ cho con hoặc xác định con cho cha mẹ nên
thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND theo khoản 4 Điều 27 Bộ luật Tố
tụng dân sự. Nhưng đến ngày 18-5, TAND huyện Đức Cơ đã ra thông báo trả
lại đơn kiện của bà Hạnh vì “không thuộc thẩm quyền”.
Trao đổi với phóng viên sáng 24-7, bà Nguyễn Thị
Kim Thoa, Chánh án TAND huyện Đức Cơ, giải thích: “Do vụ việc phức tạp
nên chúng tôi đã chậm gửi thông báo trả lại đơn kiện của bà Hạnh. Thực
ra đây là vụ tranh chấp quyền nuôi trẻ giữa bà Hạnh là mẹ hợp pháp của
trẻ với bà K. là bà ngoại của trẻ chứ không phải là tranh chấp trong
lĩnh vực hôn nhân gia đình thuộc điều luật mà Sở Tư pháp đã viện dẫn. Do
tranh chấp này không được Bộ Luật tố tụng dân sự quy định nên tòa án
không có cơ sở để thụ lý”.
Địa phương lúng túng
Ông Nguyễn Hữu Thiện, Trưởng phòng Tư pháp huyện Đức
Cơ, phân trần: “Lúc đầu, chúng tôi chắc mẩm vụ việc thuộc thẩm quyền
giải quyết của tòa nhưng sau nhiều cuộc họp bàn thì chúng tôi mới biết
mình đã nhầm. Cũng có ý kiến nếu không xử lý dân sự thì chuyển sang xử
lý hình sự. Nhưng do bà Hạnh đã tự nguyện viết giấy chuyển giao con cho
bà K. nên đâu thể xử lý hình sự bà K. Chúng tôi đã báo cáo vụ việc đến
Sở Tư pháp tỉnh và Bộ Tư pháp cả tháng nay nhưng vẫn chưa nhận được chỉ
đạo cụ thể. Trước mắt, chúng tôi đã động viên, thuyết phục bà K. trả lại
con cho chị Hạnh nhưng bà ấy không đồng ý…”.
Bà Dương Thị Tú Mỹ, Trưởng phòng Bảo vệ và chăm sóc
trẻ em – Sở Lao động-Thương binh và Xã hội tỉnh Gia Lai, cho biết: “Theo
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đứa trẻ trên có quyền được
chung sống với cha mẹ. Sau khi nhận được nhiều đơn khiếu nại của bà
Hạnh, Sở đã nhiều lần họp với huyện và tỉnh để bàn cách đưa trẻ về với
mẹ nhưng chưa có kết quả. Sở đã gửi văn bản đề nghị các cơ quan sớm giải
quyết và đang chờ phản hồi”.
Có dấu hiệu phạm tội hình sự
Luật sư Phạm Quốc Hưng (Đoàn luật sư TP.HCM) phân
tích: Về pháp lý, bà Hạnh là mẹ hợp pháp của trẻ (giấy khai sinh thể
hiện rõ điều này). Theo Điều 36 Luật Hôn nhân và gia đình, bà Hạnh có
quyền chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. Giấy chuyển quyền nuôi con mà bà Hạnh đã
làm không có giá trị pháp lý vì quyền nuôi dưỡng không phải là một
quyền có thể chuyển giao. Do đó, bà ngoại đứa trẻ không thể căn cứ vào
giấy này để giữ trẻ. Lại nữa, theo Điều 47 Luật Hôn nhân và gia đình thì
bà ngoại chỉ có quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục chứ không có quyền
nuôi dưỡng trẻ khi mà trẻ còn cha mẹ.
Rõ ràng là hành vi giữ trẻ của bà K. đã vi phạm pháp
luật. Công an huyện có thể mời bà K. đến giải thích, yêu cầu chấm dứt
hành vi trái pháp luật này và giao trả con cho người mẹ. Nếu bà K. vẫn
cố tình không chấm dứt hành vi trái pháp luật đó, công an huyện có thể
xem xét, truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán, đánh tráo hoặc
chiếm đoạt trẻ em theo Điều 120 Bộ luật Hình sự. Theo điều luật này,
người chiếm đoạt trẻ em dưới bất kỳ hình thức nào có thể bị phạt tù từ
ba đến mười năm.
SOURCE: BÁO PHÁP LUẬT TPHCM
0 comments:
Post a Comment