HOÀNG LAM
Chồng tự ý bỏ vợ đi
“tòm tem” với bà khác, tòa công nhận đã ly hôn trên thực tế? Chuyện tức
mình này đã xảy ra với bà N. Vừa chớm qua tuổi 18, bà và ông H. được gia
đình hai bên tổ chức lễ cưới nhưng cả hai không đăng ký kết hôn. Theo
luật định, đây là hôn nhân thực tế vì hai bên đã chung sống với nhau như
vợ chồng từ năm 1974, tức trước ngày 3-1-1987.
Không sống chung, mất chồng như chơi!
Cuộc sống vợ chồng ban đầu cũng hòa thuận, hạnh phúc.
Năm 1982, khi bà N. mang thai con thứ năm thì quan hệ của họ trở nên
căng thẳng. Biết chồng mình đang để ý đến người khác nên bà N. ra sức
ngăn cản. Khổ nỗi ông H. đã không lắng nghe mà lại còn đánh vợ. Tủi
thân, bà bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống và tần tảo nuôi con, lòng vẫn
mong có lúc chồng sẽ quay về với mình.
Nhưng ông H. vẫn quyết đâm đơn ra tòa đòi ly hôn vợ.
Tại tòa, ông công khai thừa nhận mình và vợ bé đã có với nhau bốn mặt
con. Hội đồng xét xử sơ thẩm hôm ấy bày tỏ thái độ bất mãn thay cho bà
N. Họ cho rằng ông H. thiếu trách nhiệm làm chồng, làm cha và quyết định
bác yêu cầu ly hôn của ông. Cấp sơ thẩm còn tuyên hủy việc kết hôn trái
pháp luật giữa ông H. với người vợ hai. Sau đó, tuy chống án không
thành nhưng ông H. vẫn tiếp tục chung sống với vợ hai.
Năm 1994, ông H. xích mích với bạn nhậu nên bị đánh
chết. Chín năm sau, cha ruột của ông kiện đòi con dâu thứ hai trả đất do
con trai chết để lại. Ông bảo ngày xưa mình giao đất cho con trai theo
kiểu cho sử dụng tạm chứ không cho luôn. Phúc thẩm vụ án hồi tháng
3-2004, TAND tỉnh Bình Dương xác định đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng
của ông H., giờ ông H. chết thì phát sinh thừa kế. Nếu muốn thì cha ông
H. cần khởi kiện yêu cầu chia thừa kế.
Lạ lùng ở chỗ TAND tỉnh lại kết luận ông H. và bà N.
đã ly hôn trên thực tế. Tòa này cho rằng tuy cả hai cấp tòa không cho
ông H. ly hôn với bà N. nhưng quan hệ vợ chồng giữa họ đã không còn tồn
tại. Họ không sống chung suốt từ năm 1982 đến khi ông H. bị đánh chết.
Hơn nữa, khi ông H. bị đánh chết, bà chẳng thể hiện sự quan tâm, cũng
không tố giác kẻ gây án. Trong khi đó, người vợ sau đã chung sống với
ông H. từ trước năm 1987 nên đủ tư cách là vợ thực tế của ông H. (!?).
Nhận định oái oăm của TAND tỉnh khiến bà N. ngẩn
người vì bị tước mất quyền làm vợ, mất luôn quyền thừa hưởng di sản của
chồng. Đến khi bà được người khác chỉ vẽ cách nộp đơn xin giám đốc thẩm
thì thời hạn kháng nghị đã không còn.
Chưa ly hôn thì vẫn là vợ chồng
Năm 1977, ông B. chung sống không đăng ký kết hôn với
bà T. và có hai con chung. Năm 1987, ông bỏ quê lên thị xã chung sống
với bà K. nhưng chừng 10 năm sau mới đăng ký kết hôn với bà này. Ít năm
sau, ông B. lại quan hệ với phụ nữ khác. Nói không được, bà K. bèn nộp
đơn yêu cầu TAND thị xã cho ly hôn với ông B.
Sơ thẩm vụ án hồi tháng 5-2008, TAND thị xã xác định
hôn nhân giữa ông B. với người vợ đầu là hôn nhân thực tế. Tòa tuyên hủy
quan hệ hôn nhân giữa ông với bà K. mặc dù họ có đăng ký kết hôn. Theo
dõi vụ việc, dư luận râm ran nhận xét vì sao bà K. có đăng ký kết hôn
với ông B. đàng hoàng, đã sống chung 21 năm, có hai mặt con mà vẫn bị
đẩy ra đường tay trắng.
Tuy nhiên, cách xử lý nêu trên của TAND thị xã được
TAND tỉnh cho là hợp lý và được giữ y tại phiên xử phúc thẩm. Bởi lẽ
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 cấm kết hôn trong trường hợp đang có
vợ hoặc có chồng. Vào thời điểm đăng ký kết hôn với bà K., ông B. đang
bị ràng buộc bởi cuộc hôn nhân hợp pháp với bà T. Tuy bị hủy kết hôn
trái pháp luật, quyền lợi về tài sản của bà K. vẫn được xem xét, giải
quyết tùy thuộc khả năng chứng minh tài sản nào là “của anh, của em, của
chúng ta”.
Pháp luật về hôn nhân và gia đình qua các thời kỳ đều
quy định việc ly hôn phải được tòa án ra quyết định công nhận thuận
tình ly hôn hoặc ra bản án ly hôn. Trước giờ, pháp luật chỉ thừa nhận
hôn nhân thực tế chứ không thừa nhận ly hôn thực tế. Bởi vậy, nếu bên vợ
hoặc bên chồng chưa chết, cũng chưa ra tòa ly hôn thì không ai có quyền
tùy tiện “khai tử” cuộc hôn nhân hợp pháp của họ.
SOURCE: BÁO PHÁP LUẬT TPHCM
0 comments:
Post a Comment