Theo nguyên tắc
giáo dục, mỗi đứa trẻ, khi bước vào nhà trường đều có một sự khởi đầu
như nhau. Trong thực tế, sự khởi đầu của mỗi đứa trẻ hoàn toàn khác
nhau. Sự khởi đầu đó phụ thuộc vào vị trí của cha mẹ chúng, vị trí đó
nằm ở thang bậc nào trong hệ thống cơ cấu xã hội. Cơ cấu xã hội là một
khái niệm xã hội học để chỉ rằng vào một thời điểm lịch sử nhất định
trong một xã hội có sự phân chia dân cư vào những vị trí xã hội, vốn
được xem là những yếu tố ảnh hưởng đến những cơ may trong đời sống.
Cơ may trong đời sống được phân bố không đồng đều
theo những vị trí xã hội mà con người ta đảm nhận, góp phần phát triển
cá nhân, thực hiện những khả năng, những mong muốn và những hy vọng. Và
những đứa trẻ mà cha mẹ chúng nằm ở bậc thang dưới về thu nhập, quyền
lực, giáo dục và uy thế sẽ bị cản trở trên con đường tiếp cận những
nguồn tài nguyên của xã hội. Vì vậy mà các chính sách xã hội, chính sách
về giáo dục được đưa ra nhằm để tạo một sự khởi đầu tốt đẹp cho mọi trẻ
em trong xã hội. Ví dụ để “hướng đến một thế hệ công dân tự tin, thông
minh” (tựa bài báo trong Sài Gòn Giải Phóng, 1/8/2005), chính phủ Thái
Lan đã đề ra biện pháp tặng quà cho các bé sơ sinh. Theo đó, các bậc cha
mẹ khi sinh con sẽ được tặng một bộ sách và đĩa CD bao gồm các bài hát
ru, được các chuyên gia soạn thảo riêng với mục đích khuyến khích tư
duy, vận động não bộ cho trẻ. Chính phủ cũng đang xem xét khả năng tặng
sách miễn phí cho trẻ em.
Nhưng một sự khởi đầu tốt đẹp, lại phụ thuộc rất
nhiều vào quá trình xã hội hóa tại gia đình. Nói đến xã hội hóa tại gia
đình tức là nói đến:
- Hành vi kiểm soát của các bậc cha mẹ,
- Mối quan hệ cảm xúc giữa cha mẹ và con,
- Nhấn mạnh đến sự độc lập và thành tích,
- Loại hình truyền thông giữa cha mẹ và con cái.
Gia đình được mô tả là cơ quan trung chuyển chính đối
với sự tái sản xuất xã hội. Nhà xã hội học Rolff đưa ra giả thiết: Ðặc
tính xã hội, đó là sự kết nối giữa những đặc điểm nhân cách của cha mẹ
và sự phát triển của đứa trẻ có một mối quan hệ trực tiếp. Nói đến đặc
tính xã hội tức là nói đến những đặc điểm nhân cách như động cơ về thành
tích, những định hướng giá trị, trí thông minh và khả năng ngôn ngữ.
Tài năng cá nhân của một đứa trẻ trong những gia đình công nhân không
được hình thành do cha mẹ chúng có những thái độ giáo dục khác so với
tầng lớp trung lưu và thượng lưu trong xã hội. Vì vậy mà những đứa trẻ
này gặp những khó khăn tại nhà trường và trong nghề nghiệp của chúng sau
này. Và như vậy, đặc tính xã hội này lại góp phần tái sản xuất cơ cấu
xã hội, tạo nên những thang bậc “cao- giữa- thấp” trong hệ thống phân
tầng xã hội. Và đây cũng chính là vấn đề mà những nghiên cứu xã hội hóa
theo những phân tầng xã hội đặt ra từ 50 năm nay. Vị trí của một gia
đình trong cơ cấu xã hội (đặc biệt là cơ cấu nghề nghiệp) càng thấp, thì
họ càng bị thiệt thòi về vật chất, xã hội và văn hóa. Và quá trình xã
hội hóa tại gia đình không thể thúc đẩy tiềm năng nhận thức, động cơ và
ngôn ngữ của trẻ. Những tiềm năng này vô cùng quan trọng đối với kết quả
học tập tại nhà trường sau này.
Mối quan hệ giữa tầng lớp xã hội và quá trình xã hội hóa tại gia đình:
- Các cuộc nghiên cứu đã chứng minh không có mối quan
hệ mạnh giữa hành vi của cha mẹ buộc con cái phải hướng theo ý muốn,
chủ đích của họ và tầng lớp xã hội.
- Tương tự như vậy, cũng không có một mối quan hệ mạnh giữa hành vi của cha mẹ đe dọa họ sẽ từ bỏ tình yêu đối với đứa trẻ nếu chúng không chịu từ bỏ hành vi của chúng theo ý muốn của cha mẹ và tầng lớp xã hội.
- Ngược lại, các bậc cha mẹ thuộc tầng lớp công nhân chú ý nhiều đến kết quả của hành động, trong khi đó các bậc cha mẹ của tầng lớp trung lưu chú ý nhiều về chủ đích của đứa trẻ- để quyết định trừng phạt con cái hay không.
- Nói về mối quan hệ cảm xúc giữa cha mẹ và con cái tức là nói đến những quan tâm, giúp đỡ đến chủ đích hành động của đứa trẻ. Có một mối quan hệ giữa tầng lớp xã hội và sự giúp đỡ, quan tâm. Giới tính của các bậc cha mẹ có một vai trò đối với quan hệ này.
- Mối quan hệ giữa tầng lớp xã hội và chú trọng của cha mẹ vào tính độc lập và thành tích của đứa trẻ rất mạnh. Trẻ em của tầng lớp trung lưu được kỳ vọng phải có những thành tích cao, đặc biệt tại nhà trường, chúng buộc phải học cách độc lập ngay từ rất sớm. Các bà mẹ thuộc tầng lớp trung lưu luôn tìm cách phát triển khả năng trí tuệ và thành tích của đứatrẻ.
- Ðối với phân tích về mối quan hệ giữa tầng lớp xã hội và truyền thống trong gia đình, trước nhất phải kể đến Bernstein. Ông đưa ra giả thiết: Các thành viên của các tầng lớp có những điều kiện sống và làm việc khác nhau. Những điều kiện về mặt cơ cấu xã hội này đã hình thành nên hai thứ ngôn ngữ với hai mã khác nhau: Mã hữu hạn và mã phức tạp (Mã là hệ th các tín hiệu có thể truyền đạt thông tin). Mã hữu hạn có cấu trúc đơn giản, sử dụng nhiều đại từ nhân xưng và câu hỏi phụ, không thể hiện được cá tính của người nói. Mã phức tạp có cấu trúc tương đối phức tạp, sử dụng nhiều tính từ, động từ., thể hiện được đặc trưng cá tính của người nói. Bernstein đã tiến hành khảo sát ngôn ngữ trẻ em thuộc các tầng lớp xã hội khác nhau và đi đến nhận định rằng, trẻ em thuộc tầng lớp trung lưu có cả mã hữu hạn và mã phức tạp. Trong sử dụng, chúng có thể tùy theo hoàn cảnh giao tiếp cụ thể để chọn dùng một trong hai mã. Trong khi đó thì con em của tầng lớp công nhân lao động chỉ có mã hữu hạn mà thôi. Mã phức tạp rất phù hợp với ngôn ngữ ở nhà trường, và như vậy, thành tích học tập của trẻ em thuộc các gia đình tầng lớp trung lưu cao hơn.
- Tương tự như vậy, cũng không có một mối quan hệ mạnh giữa hành vi của cha mẹ đe dọa họ sẽ từ bỏ tình yêu đối với đứa trẻ nếu chúng không chịu từ bỏ hành vi của chúng theo ý muốn của cha mẹ và tầng lớp xã hội.
- Ngược lại, các bậc cha mẹ thuộc tầng lớp công nhân chú ý nhiều đến kết quả của hành động, trong khi đó các bậc cha mẹ của tầng lớp trung lưu chú ý nhiều về chủ đích của đứa trẻ- để quyết định trừng phạt con cái hay không.
- Nói về mối quan hệ cảm xúc giữa cha mẹ và con cái tức là nói đến những quan tâm, giúp đỡ đến chủ đích hành động của đứa trẻ. Có một mối quan hệ giữa tầng lớp xã hội và sự giúp đỡ, quan tâm. Giới tính của các bậc cha mẹ có một vai trò đối với quan hệ này.
- Mối quan hệ giữa tầng lớp xã hội và chú trọng của cha mẹ vào tính độc lập và thành tích của đứa trẻ rất mạnh. Trẻ em của tầng lớp trung lưu được kỳ vọng phải có những thành tích cao, đặc biệt tại nhà trường, chúng buộc phải học cách độc lập ngay từ rất sớm. Các bà mẹ thuộc tầng lớp trung lưu luôn tìm cách phát triển khả năng trí tuệ và thành tích của đứatrẻ.
- Ðối với phân tích về mối quan hệ giữa tầng lớp xã hội và truyền thống trong gia đình, trước nhất phải kể đến Bernstein. Ông đưa ra giả thiết: Các thành viên của các tầng lớp có những điều kiện sống và làm việc khác nhau. Những điều kiện về mặt cơ cấu xã hội này đã hình thành nên hai thứ ngôn ngữ với hai mã khác nhau: Mã hữu hạn và mã phức tạp (Mã là hệ th các tín hiệu có thể truyền đạt thông tin). Mã hữu hạn có cấu trúc đơn giản, sử dụng nhiều đại từ nhân xưng và câu hỏi phụ, không thể hiện được cá tính của người nói. Mã phức tạp có cấu trúc tương đối phức tạp, sử dụng nhiều tính từ, động từ., thể hiện được đặc trưng cá tính của người nói. Bernstein đã tiến hành khảo sát ngôn ngữ trẻ em thuộc các tầng lớp xã hội khác nhau và đi đến nhận định rằng, trẻ em thuộc tầng lớp trung lưu có cả mã hữu hạn và mã phức tạp. Trong sử dụng, chúng có thể tùy theo hoàn cảnh giao tiếp cụ thể để chọn dùng một trong hai mã. Trong khi đó thì con em của tầng lớp công nhân lao động chỉ có mã hữu hạn mà thôi. Mã phức tạp rất phù hợp với ngôn ngữ ở nhà trường, và như vậy, thành tích học tập của trẻ em thuộc các gia đình tầng lớp trung lưu cao hơn.
Bernstein phân ra làm hai cơ cấu: “Cơ cấu đóng” khi
hành vi của các thành viên trong gia đình được ấn định thông qua vị thế
xã hội của họ (Mẹ, Cha, con trai, con gái) và “Cơ cấu mở” khi các thành
viên trong gia đình được đối xử một cách uyển chuyển theo đặc điểm cá
nhân của họ. Theo ông, một cơ cấu đóng khi các bậc cha mẹ có những kinh
nghiệm làm việc hạn chế; một cơ cấu mở khi cha mẹ có những kinh nghiệm
làm việc nhấn mạnh đến tính tự lập, sáng tạo. Và cơ cấu mở sẽ phù hợp
với hệ thống tương tác và truyền thông hướng đến từng cá nhân trong gia
đình; cơ cấu đóng sẽ hướng đến những vị thế của các thành viên trong gia
đình.
Theo Bernstein, sự tương tác hướng đến cá nhân sẽ tạo
điều kiện thuận lợi để xây dựng những tiềm năng cho hành động xã hội
sau này của đứa trẻ.
Vai trò của kinh nghiệm nghề nghiệp
Ðể có thể mô tả và giải thích rõ hơn về hoàn cảnh
sống, vật chất cũng như xã hội của các gia đình, từ những năm 70, những
cuộc nghiên cứu được tiến hành với những phương pháp chính xác hơn nhằm
phân tích những điều kiện nào của các hoàn cảnh sống đối với sự hình
thành nhân cách. Nhà xã hội học M.L. Kohn (1981) cho rằng những điều
kiện nghề nghiệp sẽ có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển nhân cách,
những điều kiện này đo được bằng độ “tự khẳng định” ở nơi làm việc của
các bậc cha mẹ. Theo Kohn, những điều kiện nghề nghiệp của các tầng lớp
trên là yếu tố thuận lợi để các thành viên có thể đưa ra những ý kiến
của riêng họ, và nhờ vậy đã tạo niềm tin về khả năng có được hành động
duy lý, nhận thức rõ về mục tiêu. Ngược lại, điều kiện làm việc ở những
tầng lớp dưới yêu cầu sự thích nghi. Và như thế, các bậc cha mẹ sẽ
truyền tải lại những định hướng giá trị của họ vào quá trình giáo dục
tại gia đình. Cha mẹ sẽ giáo dục cho con về một thế giới, thế giới đó có
được do họ thu nhận trong quá trình làm việc. Thông qua đó, trẻ em sẽ
được chuẩn bị những định hướng giá trị và lối sống giống như cha mẹ của
chúng: tuân thủ, nhấn mạnh đến những ảnh hưởng từ bên ngoài đối với gia
đình tầng lớp công nhân; độc lập, nhấn mạnh đến sự tự chủ ở những gia
đình có hoàn cảnh sống thuận lợi. Ý kiến của Kohn đúng ở chỗ cha mẹ
thông qua hành vi giáo dục sẽ chuyển tải những thái độ và kỳ vọng hành
vi vào đứa trẻ, những thái độ và kỳ vọng mà họ cho rằng rất quan trọng
nơi làm việc của họ. Nhưng như một số nhà xã hội học khác nhận xét, cơ
chế của sự trung chuyển đó như thế nào thì nghiên cứu của Kohn chưa chỉ
ra được.
Tương tự như vậy, Steinkamp và Stief (1978) cũng đã
chỉ ra mối quan hệ giữa những điều kiện làm việc của cha mẹ, trình độ
giáo dục của cha mẹ và những mục tiêu giáo dục khác nhau và thực tiễn
giáo dục khác nhau. Những điều kiện quan trọng trong thực tiễn giáo dục
để tạo ra một hành vi tự chủ cho đứa trẻ được xây dựng trên một quá
trình làm việc của cha mẹ với những tiềm năng đánh giá, tư duy, sáng
kiến, khả năng sử dụng ngôn ngữ, khả năng lập kế hoạch và tổ chức. Ngược
lại, những nghề nghiệp ít có những đòi hỏi thậm chí không hề yêu cầu về
tiềm năng tư duy và lập kế hoạch, không đòi hỏi những hành vi sáng tạo
sẽ đem đến những thực tiễn giáo dục mang tính tuân thủ, thụ động.
Không thể phủ định rằng có mối quan hệ giữa tầng lớp
xã hội và những chiều cạnh của xã hội hóa gia đình, nhưng mối quan hệ đó
không phải là mạnh. Hoặc nói theo ngôn ngữ thống kê: Phương sai được
giải thích trong tất cả các trường hợp đều dưới 10%. Các cuộc nghiên cứu
về quá trình xã hội hóa theo phân tầng xã hội đều tìm hiểu mối quan hệ
giữa vị trí của một gia đình nằm trong thang bậc nào của sự phân tầng xã
hội và chiến lược xã hội hóa của gia đình đó. Nhưng một điểm yếu của
nghiên cứu xã hội hóa theo phân tầng xã hội là chỉ tập trung vào vị thế
nghề nghiệp của người cha trong gia đình. Tuy người ta nói đến sự sở
thuộc của một gia đình vào một tầng lớp xã hội nào đó, nhưng thật sự là
chỉ nói đến một chỉ báo duy nhất, tức là người cha là thành viên của một
nhóm nghề nghiệp nào trong xã hội.
Còn người mẹ? Chúng ta biết rằng, cuộc sống hàng ngày
trong mỗi gia đình phần lớn đều có sự hiện diện của người mẹ. Thời gian
trung bình mà người cha dành cho sự nghiệp giáo dục con cái, rất ít so
với người mẹ, và hoàn toàn độc lập nếu tính theo tuổi tăng dần của con
cái, theo vị thế xã hội của người cha, theo nghề nghiệp của người mẹ.
Nhà xã hội học chuyên nghiên cứu về quá trình xã hội hóa Bertram(1978)
cho rằng, người mẹ trong định hướng giá trị cho hành động giáo dục con
cái bị ảnh hưởng bởi người chồng. Bởi vì người chồng với những tài
nguyên vật chất (thu nhập) và phi vật chất (uy thế) đảm nhiệm chức năng
nuôi nấng gia đình đã ảnh hưởng đến không gian hành động của người vợ.
Mặc dù khuôn mẫu phân công lao động truyền thống trong gia đình: người
đàn ông đảm nhiệm chức năng nghề nghiệp và người phụ nữ đảm nhiệm chức
năng nội trợ và nuôi dưỡng con cái dần dà không còn phổ biến, nhất là
trong những xã hội có trình độ phát triển cao, nhưng chưa ai dám khẳng
định có những thay đổi vào quá trình xã hội hóa của đứa trẻ. Và chúng ta
vẫn có quyền phỏng đoán rằng, những phụ nữ làm việc ngoài xã hội ngày
nay vẫn chú trọng đến công việc nội trợ và nuôi dạy con cái, và những
kinh nghiệm làm việc mà người phụ nữ có được trong quá trình làm việc có
ảnh hưởng thấp hơn là ảnh hưởng của mẫu hình “người đàn ông là trụ cột
của gia đình”. Cho dù thời gian trung bình mà người cha dành cho con ít
hơn người mẹ, điều đó chưa đủ để nói rằng chất lượng và cường độ của mối
quan hệ cha- con thấp. Nhiều cuộc nghiên cứu đã chứng minh rằng người
cha mang một chức năng rất lớn, họ là mẫu hình quan trọng ảnh hưởng đến
sự phát triển về nhận thức, trí thông minh đối với đưa trẻ, đặc biệt là
trẻ nam, nhưng những ảnh hưởng về đạo đức, tình cảm thì chưa được chứng
minh rõ ràng lắm.
Gia đình đóng một vai trò chủ đạo trong quá trình xã
hội hóa tại gia đình, đặc biệt trong 10 năm đầu của đứa trẻ, gia đình là
nhóm qui chiếu, nó điều khiển, và lựa chọn những loại hình giáo dục bên
ngoài. Khi đứa trẻ tiếp tục học lên cao, ảnh hưởng này giảm dần, thay
vào đó là những phương tiện truyền thông đại chúng và những nhóm bạn
đồng lứa. Tuy vậy gia đình vẫn là nơi để duy trì ảnh hưởng vào việc tổ
chức đời sống của thanh thiếu niên trong các định hướng về những chuẩn
mực đạo đức và lập định kế hoạch về nghệ nghiệp tương lai. Gia đình vẫn
là điểm tựa cho thanh thiếu niên.
Bên cạnh vị trí nghề nghiệp của người cha, cần có
những chỉ báo khác để có thể sử dụng phân tích vị trí xã hội và kinh tế
của một gia đình trong cơ cấu xã hội: thu nhập, sở hữu, giáo dục, quyền
lực, ảnh hưởng cũng như nhà ở, cơ sở hạ tầng tại nơi ở, độ lớn của nhà
ở, thành phần xuất thân, truyền thống văn hóa của gia đình. Ðặc biệt có
thể sử dụng “hoàn cảnh sống” để phân tích. Hoàn cảnh sống là những điều
kiện sống giống nhau về mặt xã hội và vật chất của một nhóm người. Con
người, trong những hoàn cảnh sống giống nhau hoặc khác nhau sẽ cảm nhận
và phân tích những điều kiện sống của họ như thế nào.
Trong xu thế xã hội hiện nay, những điều kiện sống
ngày càng được cải thiện, những hoàn cảnh sống càng ngày càng khác biệt
nhau, điều đó dẫn đến một xu hướng mới: đa dạng các lối sống trong xã
hội hiện đại. Khó thể chỉ dựa vào yếu tố tầng lớp để làm điểm tựa khi
nghiên cứu về quá trình xã hội hóa. Con người, tuy cùng một tầng lớp xã
hội, nhưng có những hành động khác nhau, suy nghĩ khác nhau, giá trị
khác nhau. Vì vậy mà nhà xã hội học Stefan Hradil đề nghị nên sử dụng
khái niệm môi trường (Milieu) để giải thích những hoàn cảnh sống khác
nhau sẽ có những thái độ, hành vi khác nhau hay nói cách khác những lối
sống khác nhau. Những người có tôn giáo, truyền thống vùng, hoàn cảnh
kinh tế, khuôn mẫu định hướng văn hóa giống nhau sẽ tạo nên những môi
trường tương đối giống nhau. Các nhà xã hội học thường phân ra nhiều
loại lối sống theo môi trường: Môi trường khóai lạc, môi trường tiểu tư
sản, môi trường bảo thủ, môi trường công nhân, môi trường hướng đến
thăng tiến. Nhờ vậy mà ta có thể giải thích tại sao xã hội Việt Nam hiện
nay có những “trẻ em con nhà giàu phải vượt khó”, những cậu ấm, cô
chiêu phải ngồi tù vì tội đua xe trái phép, hay những thủ khoa đại học
con nhà nghèo.
Tài liệu tham khảo:
1) Klaus Hurrelmann (Hg.), Handbuch der Sozialisationsforschung, Weinheim: Beltz 1980.
2) Klaus Hurrelmann, Einfhrung in die Sozialisationstheorie, Weinheim: Beltz 1986.
3) Martina Lưw, Einfhrung in die Soziologie der Bildung und Erziehung, Leske + Budrich, Opladen 2003.
4) Tony Bilton, Kenvin Bonnett, Philip Jones, Ken Sheard, Michelle Stanworth và Andrew Webster, Nhập môn xã hội học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1993.
5) G. Endruweit và G. Trommsdorff, Từ điển xã hội học, Nhà xuất bản thế giới, 2002.
2) Klaus Hurrelmann, Einfhrung in die Sozialisationstheorie, Weinheim: Beltz 1986.
3) Martina Lưw, Einfhrung in die Soziologie der Bildung und Erziehung, Leske + Budrich, Opladen 2003.
4) Tony Bilton, Kenvin Bonnett, Philip Jones, Ken Sheard, Michelle Stanworth và Andrew Webster, Nhập môn xã hội học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1993.
5) G. Endruweit và G. Trommsdorff, Từ điển xã hội học, Nhà xuất bản thế giới, 2002.
SOURCE: TẬP SAN KHOA HỌC SỐ 04 (5) 2005 – ĐẠI HỌC MỞ BÁN CÔNG TPHCM
0 comments:
Post a Comment