THS. NGUYỄN VĂN MẠNH – Ban xây dựng pháp luật – Văn phòng Chính phủ
Bộ luật Dân sự năm 2005
được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 14/6/2005 và có hiệu lực từ ngày
01/01/2006. Để đảm bảo việc thi hành Bộ luật, hiện nay Quốc hội, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội và Chính phủ đang soạn thảo, chuẩn bị ban hành các
luật chuyên ngành, các pháp lệnh và nghị định hướng dẫn thi hành. Riêng
về chế định thừa kế trong Bộ luật Dân sự năm 2005 (có một số sửa đổi, bổ
sung so với Bộ luật Dân sự năm 1995), thì có lẽ do đây là một chế định
tương đối cụ thể, rõ ràng nên hiện nay vẫn chưa có kế hoạch xây dựng các
văn bản dưới luật quy định chi tiết hay hướng dẫn thi hành1. Trong khi
đó, việc áp dụng chế định này trong thực tiễn vẫn còn nhiều vấn đề gây
tranh cãi. Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng chế định thừa kế,
tôi có một số ý kiến sau2:
1. Về quyền từ chối nhận di sản
Người thừa kế có quyền và nghĩa vụ kể từ thời điểm mở
thừa kế3. Cùng với các quyền yêu cầu phân chia di sản, quyền nhận di
sản… thì người thừa kế cũng có quyền từ chối nhận di sản. Theo quy định
tại Điều 642 của Bộ luật Dân sự năm 2005 thì “người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác”. Tuy nhiên, việc từ chối nhận di sản của người thừa kế không dễ dàng vì phải trải qua một loại các thủ tục sau:
- Phải được lập thành văn bản
Thông thường, việc từ chối nhận di sản xảy ra trong
trường hợp người thừa kế và người để lại di sản có sự mâu thuẫn sâu sắc
về quan hệ nhân thân. Khi người để lại di sản chết, quan hệ thừa kế phát
sinh, người thừa kế tuyên bố không nhận di sản và việc tuyên bố này
thường chỉ được tiến hành bằng lời nói, họ không lập biên bản cho lời
tuyên bố này và do vậy, theo quy định của Bộ luật Dân sự, việc từ chối
nhận di sản của họ là không hợp pháp.
- Phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.
Luật không quy định cụ thể hình thức “báo”
bằng lời nói hay bằng văn bản. Trường hợp báo cho cơ quan công chứng có
lẽ chỉ áp dụng trong trường hợp thừa kế theo di chúc và di chúc được
chứng nhận bởi cơ quan công chứng. Nếu hiểu theo đúng tinh 2 thần của
điều luật, thì việc báo đó phải tới ít nhất 02 chủ thể
(nếu có một người thừa kế khác) là người thừa kế khác đó và cơ quan
công chứng hoặc ủy ban nhân dân nơi mở thừa kế hoặc 01 chủ thể (nếu
không có người thừa kế khác) là cơ quan công chứng hoặc ủy ban nhân dân
nơi mở thừa kế và nhiều nhất thì không xác định được về mặt số
lượng (người phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc ủy ban nhân dân
nơi mở thừa kế và những người thừa kế khác). Tôi cho rằng, trong cả hai
hình thức báo (bằng miệng hay bằng văn bản), nếu yêu cầu người từ chối
nhận di sản thực hiện đầy đủ việc đó tới các đối tượng trên là không khả
thi.
- Phải thực hiện việc từ chối trong thời hạn sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế4.
Khi vi phạm một trong các thủ tục trên, việc từ chối
nhận di sản không được pháp luật công nhận. Như vậy, nếu trong trường
hợp Tòa án giải quyết yêu cầu phân chia di sản, một hoặc một số người
thừa kế vẫn từ chối không nhận di sản, thì toà án sẽ rất khó khăn khi
phân xử5. Những điểm này cũng gây khó khăn cho các cơ quan có thẩm quyền
khác khi muốn giải quyết triệt để một vụ tranh chấp về thừa kế, hay nói
cách khác, hiệu lực áp dụng của điều luật không phát huy được (theo
hướng tích cực).
2. Về thời hiệu khởi kiện về thừa kế
Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di
sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người
khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế6. Đối với trường hợp mở
thừa kế trước ngày 01/7/1996, thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế
được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh thừa kế năm 1990
và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao. Khi xác định thời hiệu khởi kiện về quyền
thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 01/7/1991 và di sản là nhà ở
thì thời gian từ ngày 01/7/1996 đến ngày 01/01/1999 không tính vào thời
hiệu khởi kiện7. Hết thời hiệu khởi kiện, Tòa án trả lại đơn khởi kiện,
không thụ lý vụ án8. Tuy nhiên, Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày
10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lại có hướng
dẫn như sau “trong thời hạn mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết…”.
Điều đó dẫn đến trường hợp, khi có tranh chấp về quyền thừa kế, các bên
gửi đơn khởi kiện ra Tòa án, nếu quá thời hạn mười năm kể từ thời điểm
mở thừa kế, tòa án trả lại đơn khởi kiện, từ chối thụ lý vụ án, lập tức
các bên gửi đơn yêu cầu chia tài sản chung và Tòa án lại thụ lý vụ án9.
Điều đó vô hình trung đã làm cho việc quy định về thời hiệu khởi kiện về
thừa kế trở thành không có ý nghĩa.
Tôi cho rằng, pháp luật Việt Nam đang thiếu những quy
định xác định tính chất pháp lý của tài sản khi hết thời hiệu khởi
kiện. Trong trường hợp hết thời hiệu khởi kiện, Tòa án từ chối thụ lý
giải quyết, di sản để lại thuộc quyền sở hữu của ai, họ phải làm thủ tục
như thế nào để đăng ký quyền sở hữu của mình, chúng ta chưa có quy phạm
điều chỉnh vấn đề này, và do vậy, người đang chiếm hữu tài sản tiếp tục
chiếm hữu mà không thể trở thành chủ sở hữu, người đang tranh chấp tiếp
tục khiếu nại nhiều nơi, khiếu nại vượt cấp. Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP
nêu trên giúp đưa ra cách thức giải quyết vấn đề này, nhưng việc giải
quyết này là không triệt để và chỉ có thể áp dụng khi thỏa mãn những
điều kiện :
- Không có tranh chấp về hàng thừa kế.
- Đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia.
Với thời hạn mười năm sau khi người để lại di sản
chết, thật hiếm có vụ án nào các đương sự không có tranh chấp về hàng
thừa kế và di sản10. Ngược lại, khi không thỏa mãn các điều kiện trên,
tòa án vẫn từ chối không thụ lý vụ án. Thực tế cho thấy, khi thụ lý vụ
án, tòa án thật khó xác minh việc có hay không có tranh chấp về hàng
thừa kế và di sản, dẫn đến tình trạng sau khi thụ lý vụ án, mới phát
hiện các yếu tố tranh chấp, tòa án lại phải ra quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án. Điều này không những làm cho ngành Tòa án thêm gánh nặng mà
khiến vụ việc lại trở về tình trạng “treo”. Về vấn đề này,
luật dân sự các nước có những quy định thống nhất hơn, xin đơn cử, Bộ
luật Dân sự và thương mại của Thái Lan quy định thời hiệu khởi kiện về
quyền thừa kế là 10 năm tính từ ngày người để lại tài sản chết11. Đồng
thời, Bộ luật Dân sự và thương mại Thái Lan quy định “khi một người, trong suốt thời gian 10 năm trong trường hợp một bất động sản hoặc 5 năm trong trường hợp một động sản, đã chiếm dụng công khai và không có tranh chấp một tài sản thuộc về người khác, với ý định trở thành người sở hữu của tài sản đó thì người này giành được quyền sở hữu tài sản đó“12.
Bộ luật Dân sự của Pháp không có quy định riêng về
thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà quy định “tất cả các vụ kiện,
dù quyền tài sản hay quyền nhân thân, đều có thời hiệu là ba mươi
năm….”13. Bản chất của vấn đề là ở chỗ, Bộ luật Dân sự Việt Nam có sự
quy định khác nhau (lệch tương đối lớn) giữa thời hiệu hưởng quyền dân
sự tại Khoản 1 Điều 255 của Bộ luật Dân sự năm 1995 (tương ứng với Khoản
1Điều 247 của Bộ luật Dân sự năm 2005) với thời hiệu khởi kiện về quyền
thừa kế. Theo đó, “người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếmhữu...”14.
Như vậy, hết thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế (10 năm), người thừa
kế di sản là bất động sản (hoặc quyền bất động sản) như quyền sử dụng
đất, nhà ở…. vẫn chỉ có thể là người chiếm hữu, không phải là chủ sở
hữu. Nhưng nếu người thừa kế chiếm hữu liên tục trong thời gian 30 năm
kể từ thời điểm hết thời hiệu khởi kiện, họ đương nhiên sẽ là chủ sở hữu
theo Điều 255 của Bộ luật Dân sự năm 1995 (Điều 247 của Bộ luật Dân sự
năm 2005). Vậy, Nghị quyết 02/HĐTP nêu trên có lẽ chỉ có thể áp dụng
trong thời hạn 30 năm, kể từ ngày hết thời hiệu khởi kiện.
Như vậy, Bộ luật Dân sự cần có thêm quy định về thời
hiệu hưởng quyền dân sự đặc biệt trong quan hệ thừa kế. Theo đó, hết
thời hiệu khởi kiện, người đang quản lý hợp pháp di sản sẽ trở thành chủ
sở hữu tài sản đó.
3. Về di chúc hợp pháp
Khoản 5 Điều 652 của Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định “Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực”.
So với Bộ luật Dân sự năm 1995, điều kiện có hiệu lực
của di chúc miệng đã được bổ sung thêm một điều kiện về hình thức: phải
chứng nhận hoặc chứng thực trong thời hạn năm ngày kể từ ngày người di
chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình.
Điều đó có thể hiểu: nếu không được chứng nhận, chứng
thực trong thời hạn này, di chúc miệng sẽ mất hiệu lực. Điều luật không
quy định cụ thể nghĩa vụ thực hiện việc chứng nhận, chứng thực. Tuy
nhiên, có thể thấy việc tiến hành công chứng hoặc chứng thực này chỉ có
thể do người làm chứng thực hiện (người thừa kế có thể đi cùng người làm
chứng hoặc không).
Vấn đề đặt ra là: khi di chúc vô hiệu, quyền và lợi
ích của những người thừa kế sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng15. Vậy những
người làm chứng nhưng không thực hiện việc đi chứng nhận, chứng thực di
chúc có phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại – người
đáng lẽ được hưởng phần di sản lớn hơn những người thừa kế khác theo di
chúc hay không?
Chúng tôi cho rằng, với điều kiện được bổ sung trên,
di chúc miệng sẽ dễ dàng lâm vào tình trạng vô hiệu do lỗi của người làm
chứng mà pháp luật chưa có quy định về trách nhiệm của họ.
4. Về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế
Điều 679 của Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha mẹ, con thì được thừa kế di sản của nhau….”.
Hiện nay có nhiều ý kiến cho rằng, cần phải có quy định cụ thể hơn về
phạm vi chăm sóc, nuôi dưỡng; về độ tuổi của người được nuôi dưỡng,
tránh vận dụng tràn lan, thiếu thống nhất trong quá trình giải quyết các
vụ kiện chia di sản thừa kế16.
Trong xã hội, quan hệ giữa cha mẹ, con bao gồm cả
quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản, trong đó quan hệ nhân thân giữ vai
trò chủ đạo. Việc xây dựng các tiêu chí: thời gian chăm sóc, độ
tuổi….để xác định mối quan hệ như cha mẹ, con là không thể thực hiện
được. Do vậy, trong trường hợp này,tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể,
căn cứ vào pháp luật, tập quán phong tục mỗi nơi, điều kiện kinh tế các
bên, sự lệ thuộc của con riêng, bố dượng, mẹ kế với nhau…..
Tòa án sẽ đánh giá mối quan hệ giữa họ có được hiểu là “như cha mẹ, con” để từ đó xác định người thừa kế.
Chú thích:
1 – 4 Việc xác định khoảng thời gian sáu tháng này chúng tôi đã đề cập đến trong bài viết “ Hoàn thiện chế định thừa kế trong luật dân sự Việt Nam” Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 04 và 05 năm 2002.
5 Thực tế, Tòa án sẽ yêu cầu người từ chối nhận di sản có nhường quyền thừa kế của mình cho ai trong số những người thừa kế khác hoặc tổ chức từ thiện hay không. Nhưng nếu họ không nhường quyền thừa kế cho ai, Tòa án có quyền yêu cầu họ viết giấy từ bỏ quyền sở hữu không? Luật thực định Việt Nam không dự liệu cho Tòa án quyền này. Đồng thời, việc từ bỏ quyền sở hữu cũng phải trải qua các thủ tục nhất định.
6 Xem thêm Điều 645 của Bộ luật Dân sự năm 2005.
7 Xem thêm Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
8 Xem thêm Điều 168 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004.
9 Tất nhiên, chỉ trong những trường hợp nhất định, phù hợp với điều kiện đã nêu trong Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP.
10 Bên cạnh đó, một cách gián tiếp, Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP khiến cho quy định về thời hiệu khởi kiện về thừa kế trong Bộ luật Dân sự trở thành vô hiệu.
11 Xem Điều 1754 của Bộ luật Dân sự và thương mại Thái Lan, Nxb. Chính trị Quốc gia,H. 1995, tr 505.
12 Xem Điều 1382 của Bộ luật Dân sự và thương mại Thái Lan, Nxb. Chính trị Quốc gia, H.1995, tr 366.
13 Xem Điều 2262 Thiên XX của Bộ luật Dân sự Pháp, Nxb. Chính trị Quốc gia, 1998.
14 Xem Khoản 1 Điều 255của Bộ luật Dân sự năm 1995, Khoản 1 Điều 247của Bộ luật Dân sự năm 2005.
15 Khi đó, tài sản để lại sẽ được chia theo quy định của pháp luật.
16 Xem thêm Nguyễn Thị Hương: “Quan hệ nuôi dưỡng chăm sóc giữa con riêng với mẹ kế cần được quy định cụ thể hơn”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 7/2005, tr 48.
0 comments:
Post a Comment