THS. LÊ MINH HÙNG - Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
So với Bộ luật Dân sự (BLDS) 1995, các qui định về
thừa kế trong BLDS 2005 đã có nhiều điểm mới. Về cơ cấu, bố cục của các
chương mục và số lượng các điều luật không có sự thay đổi lớn, ngoài
việc tăng thêm một điều luật mới (Điều 687). Về nội dung, có một số điểm
mới sau đây:
1. NHỮNG QUI ĐỊNH CHUNG:
Phần này có tất cả 14 điều, nhưng có 7 điểm mới được
sửa đổi, bổ sung. Ngoài sửa đổi mang tính kỹ thuật tại Điều 635 thì việc
sửa đổi, bổ sung trong 6 trường hợp còn lại đã làm thay đổi cơ bản về
nội dung của các điều luật.
1.1. Thứ nhất, sửa đổi qui định về di sản
Khoản 2 Điều 637 BLDS 1995 qui định quyền sử dụng đất
là một loại di sản thừa kế. Điều 634 BLDS 2005 bỏ qui định tại khoản 2
của Điều luật tương ứng và chỉ qui định thành 1 đoạn: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”.
Điều này không có nghĩa là từ nay, pháp luật không thừa nhận quyền sử
dụng đất là một loại di sản. Quyền sử dụng đất vẫn là một loại di sản
thừa kế vì theo BLDS 2005 và Luật Đất đai 2003 thì quyền sử dụng đất là
một loại tài sản và được để lại thừa kê1. Khi soạn thảo BLDS 1995, trong
giới luật học có nhiều tranh cãi về việc thừa nhận “quyền sử dụng đất” là
tài sản, vì nhiều người cho rằng, quyền sử dụng đất chỉ là nội dung của
quyền sở hữu đất đai. Để làm rõ việc công nhận khả năng thừa kế của
quyền sử dụng đất, khoản 2 Điều 637 BLDS 1995 qui định quyền sử dụng là
một loại di sản đặc biệt. Cho đến nay, việc thừa kế quyền sử dụng đất
dần dần đã được xã hội chấp nhận. Vì thế, BLDS 2005 không cần thiết phải
qui định thêm về di sản là quyền sử dụng đất. Sự sửa đổi này là tích
cực và tiến bộ hơn về kỹ thuật lập pháp so với Luật cũ vì nó làm cho
điều luật trở nên tinh gọn hơn nhưng vẫn không làm ảnh hưởng đến việc
nhận thức và áp dụng pháp luật.
1.2. Bổ sung qui định về thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại
BLDS 1995 qui định người thừa kế chỉ phải thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại trong “phạm vi di sản” mà họ được hưởng. BLDS 2005 đã bổ sung cụm từ “trừ trường hợp có thỏa thuận khác”
vào cuối khoản 1 và cuối khoản 3. Đây chỉ là sự thay đổi nhỏ, nhưng lại
có ý nghĩa rất lớn về pháp lý. Về nguyên tắc, nghĩa vụ của người thừa
kế đối với khoản nợ do người chết để lại vẫn nằm trong giới hạn và theo
tỷ lệ di sản mà họ nhận được từ người chết, nhưng phạm vi này có thể
không tương ứng với tỷ lệ di sản, thậm chí có thể lớn hơn phần di sản mà
người thừa kế thực tế được hưởng, nếu các bên có thỏa thuận khác. Đây
là một qui định mềm dẻo, vừa bảo vệ được quyền lợi chính đáng của những
người thừa kế và quyền lợi chính đáng của chủ nợ, vừa đề cao nguyên tắc
tự định đoạt trong quan hệ dân sự, khuyến khích con cháu của người chết
thực hiện thay toàn bộ nghĩa vụ mà người chết để lại, nhưng vẫn giữ được
nguyên tắc “trả nợ không làm xấu đi tình trạng của người thừa kế và món nợ mà người thừa kế phải gánh chịu không được vượt quá di sản”.
Mặt khác, nội dung điều luật trở nên mềm dẻo hơn, mở ra một không gian
tự do nhiều hơn để giữa nội bộ những người thừa kế với nhau và với chủ
nợ có thể tự thỏa thuận để thực hiện nghĩa vụ dân sự do người chết để
lại, mà không bị gò bó, cứng nhắc như qui định tương ứng của Luật cũ.
Qui định này thể hiện tư tưởng tiến bộ, phù hợp với xu thế chung của
pháp luật dân sự trên thế giới, tôn trọng và đề cao nguyên tắc tự do, tự
nguyện trong các quan hệ dân sự.
1.3. Sửa đổi qui định về việc thừa kế của những người chết cùng một thời điểm
Điều 644 BLDS 1995 qui định: những người thừa kế của nhau mà chết cùng một thời điểm thì không được thừa kế của nhau. Theo
Ban soạn thảo BLDS 1995, thì qui định như là để bảo đảm sự công bằng
giữa những người thừa kế của nhau. Hơn nữa, nếu thừa nhận họ có quyền
thừa kế của nhau, thì di sản của mỗi người có thể phải chia mãi cho nhau
mà không bao giờ chấm dứt. Thực tế cho thấy, qui định này không phù hợp
với nguyên tắc xác định hàng thừa kế và tập tục chia thừa kế của các
cộng đồng người Việt Nam. Tập quán “nước mắt chảy xuôi” thể hiện ở chỗ, khi ông bà, cha mẹ qua đời thì di sản của họ được truyền lại cho con cháu. Nếu con cháu của người thừa kế chết trước được thừa kế thế vị, mà con cháu của người thừa kế chết cùng thời điểm với
người để lại di sản lại không được thừa kế thế vị, thì thật là vô lý và
bất công. Do đó, Điều 641 BLDS 2005 đã sửa đổi theo hướng vẫn không
thừa nhận quyền thừa kế của những người thừa kế của nhau mà chết cùng
một thời điểm, nhưng ghi nhận trường hợp ngoại lệ là nếu con, cháu được
thừa kế của cha mẹ hoặc của ông bà mà chết cùng thời điểm với người để
lại di sản, thì cháu hoặc trực hệ sẽ được thừa kế thế vị theo qui định
chung. Qui định này chấm dứt sự tranh cãi bấy lâu nay về việc thừa kế
thế vị của cháu hay chắt khi người thừa kế là con chết cùng thời điểm
với người để lại di sản; đồng thời cũng bảo đảm sự rõ ràng, nhất quán
trong việc áp dụng pháp luật.
1.4. Bổ sung qui định về quyền từ chối nhận di sản thừa kế
Khoản 3 Điều 642 BLDS 2005 bổ sung qui định: “Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế”. Bổ sung này không làm thay đổi tinh thần Điều luật, nhưng làm rõ hơn tính chất “mặc nhiên” và “tự động” của
quyền thừa kế; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để xác định những vấn
đề có liên quan trong việc giải quyết nợ của người chết, xác định kỷ
phần thừa kế bắt buộc, tiến hành các thủ tục phân chia di sản, xác định
tư cách tố tụng trong việc kiện chia di sản… Nhưng theo chúng tôi, qui
định này vẫn không làm “vô hiệu hóa” quyền từ chối nhận di sản.
Trên thực tế, người thừa kế vẫn có quyền không nhận di sản cho đến khi
di sản được phân chia mà không ai có thể buộc họ phải nhận, kể cả tòa
án. Bởi vì khi di sản được chia theo thủ tục thỏa thuận hoặc thủ tục tư pháp, thì người thừa kế vẫn có quyền từ chối nhận di sản. Như vậy, nếu vận dụng các thủ tục này, thì việc ràng buộc người thừa kế “không được quyền từ chối thừa kế sau 6 tháng, kể từ ngày mở thừa kế” như tinh thần của Điều luật chỉ còn có ý nghĩa hạn chế.
1.5. Bổ sung qui định về di sản không có người thừa kế thì thuộc về Nhà nước
Điều 647 BLDS 1995 qui định Nhà nước hưởng di sản
không có người thừa kế nhưng Nhà nước không phải là người thừa kế sau
cùng. Tuy nhiên, Điều luật đã không qui định rõ là Nhà nước phải thực
hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại, nên đã dẫn đến nhiều cách
hiểu và vận dụng không nhất quán. Nhiều trường hợp, cơ quan chức năng
không quan tâm đến nghĩa vụ của người chết đối với người khác, nên đã
làm thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người liên quan.
Khắc phục điểm yếu này, Điều 644 BLDS 2005 bổ sung như sau:
“Trong trường hợp không có người thừa kế theo di
chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ
chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc Nhà nước.”
Qui định này vẫn không làm thay đổi nguyên tắc Nhà
nước được hưởng di sản không người thừa kế, nhưng xác định rõ ràng trách
nhiệm của cơ quan nhà nước khi nhận di sản không người thừa kế: phải
thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại, qua đó thể hiện sự tích cực hơn
trong việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể có quyền
và lợi ích liên quan đến di sản.
1.8. Bổ sung qui định về thời hiệu khởi kiện yêu cầu thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại
Điều 648 BLDS 1995 không qui định về thời hiệu khởi
kiện đòi nợ do người chết để lại. Thông tư liên ngành số 03/1996 của Tòa
án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao dựa vào Nghị quyết
ngày 28/10/1995 của Quốc hội để hướng dẫn thời hiệu khởi kiện đòi nợ do
người chết để lại là “không hạn chế thời gian”. Qui định này đã
gây ra một hậu quả tiêu cực về mặt tố tụng: bất cứ lúc nào, chủ nợ cũng
có thể khởi kiện đòi nợ do người chết để lại. Thực tế đó không chỉ gây
khó khăn cho tòa án trong việc điều tra, xác minh tìm chứng cứ và gây ra
sự bất ổn trong các quan hệ dân sự, mà còn đe dọa xâm phạm tới quyền và
lợi ích chính đáng của người thừa kế, những người đã thực hiện nghĩa vụ
từ rất lâu, nhưng không lưu giữ được chứng từ… Khắc phục nhược điểm
này, BLDS 2005 đã bổ sung qui định về thời hiệu khởi kiện đòi thực hiện
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại là 3 năm, tính từ ngày mở thừa kế.
Có nghĩa, sau 3 năm kể từ ngày mở thừa kế, các chủ nợ không mẫn cán đòi
nợ người thừa kế thì quyền đòi nợ chấm dứt2. Thế nhưng qui định này vẫn
còn những bất cập, như: Trên thực tế, có những món nợ đã đến ngày hết
thời hiệu khởi kiện theo qui định chung, nhưng khi người có nghĩa vụ
chết thì được cộng thêm 3 năm nữa, làm cho thời hiệu khởi kiện thực tế
kéo dài thêm rất lâu so với qui định chung; mặt khác, có những nghĩa vụ
chưa tới hạn mà người có nghĩa vụ chết, thì thời hiệu khởi kiện được
tính từ thời điểm nào: bắt đầu từ ngày đáo hạn hay bắt đầu khi người có
nghĩa vụ chết, là điều còn nhiều tranh cãi. Hơn nữa, qui định thời hiệu
chung cho các loại nghĩa vụ của người sống chỉ có hai năm3,
nhưng đòi nợ của người đã chết thì đến những 3 năm, chưa kể khoảng thời
gian trước khi con nợ chết chưa được luật cho trừ ra, là điều khó lý
giải. Thiết nghĩ qui định này cần có sự giải thích và hướng dẫn của các
cơ quan liên ngành để việc áp dụng pháp luật được thống nhất.
2. THỪA KẾ THEO DI CHÚC
Chương XXIII gồm 28 điều luật, trong đó có 7 điều
luật được sửa đổi, bổ sung. Ngoài những sửa đổi mang tính kỹ thuật tại
khoản 3 Điều 650 và Điều 657, thì 5 điểm mới còn lại đều có những thay
đổi cơ bản về mặt nội dung.
2.1. Sửa đổi qui định về quyền của người lập di chúc
Khoản 4 Điều 648 BLDS 2005 qui định về quyền của
người lập di chúc cơ bản vẫn giữ nội dung gần giống như Luật cũ, nhưng
bỏ đi cụm từ “trong phạm vi di sản”. Qui định này sẽ có tác
động tiêu cực đến việc người lập di chúc định đoạt di sản có kèm theo
món nợ. Nếu người thừa kế tự nguyện thực hiện nghĩa vụ nhiều hơn phần di
sản mà mình được hưởng thì không có gì đáng nói, nhưng để cho người lập
di chúc toàn quyền ấn định nghĩa vụ tài sản cho những người thừa kế để
buộc họ phải thực hiện tất cả các món nợ do người chết để lại, thì thật
là bất công, trong khi Điều 642 BLDS 2005 lại không cho phép người thừa
kế được quyền từ chối nhận di sản sau 6 tháng kể từ ngày mở thừa kế.
Chẳng may người thừa kế không có điều kiện để biết nội dung di chúc hoặc
không thể thực hiện quyền từ chối đúng thủ tục và trong thời hạn qui
định, thì chắc chắn họ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ do người chết để
lại, cho dù nghĩa vụ đó có thể lớn hơn di sản mà người chết để lại rất
nhiều, hoặc ngay cả khi họ không được hưởng di sản. Qui định này tạo ra
sự bất công và xâm phạm quyền lợi chính đáng của người thừa kế, nhất là
với con, cháu chưa thành niên hoặc những người thừa kế không có khả năng
kinh tế. Pháp lệnh Thừa kế và BLDS 1995 đã rất thành công trong việc
xóa bỏ tục lệ lạc hậu phong kiến “phụ trái, tử hoàn”4(4). Thiết
nghĩ luật không nên buộc người thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ do người
chết để lại vượt quá phần di sản mà họ được nhận, trừ trường hợp có
thỏa thuận.
2.2. Sửa đổi và bổ sung qui định về di chúc miệng
Khoản 1 Điều 651 BLDS 2005 bỏ đoạn cuối trong khoản 1
của Điều 654 và nội dung này được chuyển thành khoản 5 của Điều 652
BLDS 2005. Sự sửa đổi này không làm thay đổi nội dung mà chỉ có tác dụng
làm cho Điều luật tinh gọn.
Khoản 2 của Điều 651 bổ sung thêm hai từ “mặc nhiên”,
làm cho Điều luật trở nên rõ nghĩa hơn. Theo Luật cũ, di chúc miệng
cũng được coi là bị hủy bỏ sau 6 tháng kể từ ngày lập mà người di chúc
vẫn còn khỏe mạnh, minh mẫn, sáng suốt, nhưng không qui định thủ tục để
hủy bỏ và ai có quyền tuyên bố hủy bỏ di chúc miệng. Bổ sung thêm hai từ
“mặc nhiên” nhằm xác định rõ phạm vi áp dụng của Điều luật,
tránh làm cho Điều luật được hiểu theo nhiều nghĩa và áp dụng không
thống nhất..
2.3. Bổ sung qui định về điều kiện để công nhận di chúc hợp pháp
Điều 652 BLDS 2005 có một bổ sung rất quan trọng: “Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực”. Theo đó, nhà làm luật đã qui định thêm về thời hạn xác định và thủ tục để lập bản ghi chép nội dung di chúc miệng.
Pháp lệnh Thừa kế 1990 thừa nhận giá trị của di chúc
miệng nhưng không qui định thủ tục ghi chép lại di chúc miệng. Khi tranh
tụng tại tòa án, hầu hết các di chúc miệng đều bị tòa án bác bỏ vì
không có cơ sở để tin cậy nếu chỉ dựa vào lời khai đơn phương của một
bên nhân chứng hoặc khi các nhân chứng có lời khai mâu thuẫn. Khắc phục
bất cập này, BLDS 1995 qui định về thủ tục lập nội dung di chúc miệng
là: những người làm chứng “phải ghi chép lại bằng văn bản ngay sau đó”. Nhưng “ngay sau đó” là
bao lâu thì không thể xác định được, nên thực tế có nhiều người làm
chứng đã để rất lâu sau mới chịu lập văn bản ghi nội dung di chúc miệng.
Điều này đã gây ra khó khăn cho tòa án trong việc thẩm định giá trị của
di chúc miệng và muốn bác bỏ nó thì cũng thiếu cơ sở pháp lý rõ ràng.
Luật mới xác định chính xác khoảng thời gian mà người làm chứng phải viết lại nội dung di chúc miệng là “5 ngày, sau khi người di chúc miệng thể ý chí sau cùng”.
Với thủ tục chặt chẽ này, hy vọng việc lập di chúc miệng sẽ đi vào qui
củ hơn, bảo đảm độ chính xác và tin cậy cao hơn, ngăn ngừa sự thể hiện ý
chí chủ quan của người làm chứng, tăng cường trách nhiệm của người làm
chứng di chúc. Qui định này cũng thể hiện quyết tâm của nhà lập pháp
nhằm loại bỏ khả năng người làm chứng có thể tự ý sửa chữa, viết lại
nhiều lần hay đánh tráo văn bản ghi nội dung di chúc miệng.
2.4. Sửa đổi qui định về hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng
Điều 671 BLDS 1995 qui định: “Trong trường hợp
vợ, chồng lập di chúc chung mà có người chết trước, thì chỉ phần di chúc
liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có
hiệu lực pháp luật; nếu vợ, chồng có thỏa thuận trong di chúc chung về
thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là thời điểm người sau cùng
chết, thì di sản của vợ, chồng theo di chúc chung chỉ được phân chia từ
thời điểm đó”. Qui định này tỏ ra phiền toái vì vấn đề thỏa thuận
như vậy rất ít gặp trên thực tế và nếu các bên không thỏa thuận thì sẽ
dẫn tới một điều bất hợp lý là tuy là di chúc được lập chung, nhưng di
sản của từng người để lại sẽ được chia riêng. Điều đó gây khó khăn cho
việc thi hành di chúc vì chỉ có một giao dịch, nhưng có đến hai thời
điểm có hiệu lực khác nhau. Cũng vì thế mà nguyên tắc “củng cố tình thương yêu và đoàn kết trong gia đình” sẽ không thể thực hiện được. Khắc phục nhược điểm này, Điều 668 BLDS 2005 qui định: “Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc thời điểm vợ, chồng cùng chết”.
Qui định này tỏ ra hợp lý hơn so với qui định tương ứng trong BLDS
1995, vì một di chúc chỉ có thể có một thời điểm có hiệu lực.
Tuy vậy, qui định này, tự thân nó, cũng còn vẫn chứa
đựng nhiều bất cập. Liệu một di chúc chung của vợ, chồng có còn duy trì
hiệu lực hay không, nếu vợ chồng được tòa án cho ly hôn hoặc được tòa án
cho phép chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, sau thời điểm di
chúc chung được lập?. Mặt khác, qui định này đã xâm phạm đến quyền thừa
kế hợp pháp của người thừa kế theo pháp luật và người thừa kế bắt buộc
của người vợ hoặc chồng chết trước và làm ảnh hưởng tới thời hiệu khởi
kiện về thừa kế. Theo đó, nhiều câu hỏi phức tạp đặt ra mà không dễ tìm
lời giải đáp: người thừa kế hợp pháp của người vợ hay chồng chết trước
có được khởi kiện để chia thừa kế của người chết hay không? Nếu thời
hiệu khởi kiện thừa kế (10 năm) đã hết, nhưng di chúc vẫn chưa có hiệu
lực pháp luật (vì người vợ hay người chồng còn lại vẫn còn sống) thì
người thừa kế của người chết trước có được quyền khởi kiện nữa không?
Nếu di sản hư hỏng hay giảm sút giá trị thì ai chịu trách nhiệm?…
Thiết nghĩ nhà làm luật nên giải thích rõ thêm vấn đề này để việc nhận thức và áp dụng pháp luật được thống nhất.
2.5. Sửa đổi qui định về công bố di chúc
Khoản 3 Điều 672 BLDS 2005 bỏ đoạn “bản sao di
chúc phải có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy
ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi mở thừa kế”. Phù hợp với thực
trạng pháp luật công chứng, chứng thực hiện nay (do quá tải trong hoạt
động công chứng và pháp luật không bắt buộc mọi bản sao đều phải có công
chứng), luật không bắt buộc phải công chứng, chứng thực bản sao tờ di
chúc. Qui định này tỏ ra thông thoáng, thể hiện tính thực tiễn cao, làm
cho Điều luật mang tính khả thi hơn, tạo điều thuận lợi hơn cho việc
công bố di chúc mà vẫn bảo đảm sự minh bạch vì tại khoản 4 của Điều luật
đã qui định quyền được đối chiếu bản sao di chúc với bản gốc của nó.
3. THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
Phần này gồm có 7 điều luật qui định về việc thừa kế
theo pháp luật, nhưng có 3 điều khoản được sửa đổi, bổ sung. Tuy số nội
dung bị sửa đổi, bổ sung không nhiều, nhưng đây là những điểm mới làm
thay đổi cơ bản nội dung của điều luật:
3.1. Bổ sung qui định hàng thừa kế thứ hai và hàng thừa kế thứ ba
Điểm b khoản 1 Điều 679 BLDS 1995 qui định hàng thừa
kế thứ hai không có cháu nội, cháu ngoại của người chết. BLDS 2005 bổ
sung người thừa kế là “cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại”. Tương tự, điểm c khoản 1 Điều 676 BLDS 2005 cũng bổ sung thêm người thừa kế là “chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại”. Như vậy, theo qui định mới, thì ông, bà và cháu là “hàng thừa kế thứ hai của nhau”; các cụ và chắt là “thừa kế hàng thứ ba của nhau”. Việc bổ sung này đã gây ra nhiều tranh cãi trên thực tế.
Có ý kiến cho rằng, diện thừa kế theo pháp luật được
đặt trên 3 mối quan hệ cơ bản về gia đình: quan hệ huyết thống (trực hệ
và bàng hệ), quan hệ hôn nhân (vợ – chồng hợp pháp) và quan hệ nuôi
dưỡng (con nuôi và con riêng của vợ hoặc của chồng…). Thật bất hợp lý và
không công bằng, nếu con hoặc cháu trực hệ (cháu nội, cháu ngoại) hoặc
chắt trực hệ (chắt nội, chắt ngoại) không được đưa vào hàng thừa kế, trong khi những người khác có quan hệ huyết thống bàng hệ lại
được thừa kế của người chết. Cũng không công bằng khi để cho ông, bà
được thừa kế hàng thứ hai của cháu, nhưng cháu không được thừa kế ở hàng
thứ hai của ông bà; tương tự, chắt không được thừa kế ở hàng thứ ba của
cụ.
Có ý kiến ngược lại cho rằng, qui định của luật mới
thừa nhận cháu vào hàng thừa kế thứ hai và chắt vào hàng thừa kế thứ ba
của người để lại di sản sẽ tạo ra sự bất cập, mâu thuẫn và chồng chéo
giữa các điều luật. Vì ngoài việc được xếp vào hàng thừa kế thứ hai (đối
với cháu nội, cháu ngoại) hoặc hàng thừa kế thứ ba (đối với chắt nội,
chắt ngoại) thì các đối tượng này còn được xếp vào diện được thừa kế thế
vị. Nếu cho cháu hoặc chắt được thừa kế thế vị thì qui định cháu thừa
kế theo hàng thứ hai và chắt ở hàng thứ ba sẽ trở nên vô nghĩa, vì lúc
đó việc thừa kế của hàng thứ hai và của hàng thứ ba sẽ không xảy ra. Nếu
cho họ vừa được thừa kế theo hàng, vừa thừa kế thế vị thì lại vi phạm
nguyên tắc chia thừa kế ưu tiên cho hàng thừa kế trước.
Tuy vậy, chúng tôi cho rằng qui định như trên là tiến bộ và phần nào khắc phục được những bất cập của BLDS 1995 về thừa kế thế vị; đồng thời, qui định này cũng không mâu thuẫn với qui định khác về hàng thừa kế vì những cơ sở sau đây:
Thứ nhất, qui định của luật hiện hành về
hàng thừa kế và thừa kế thế vị đã không bảo vệ hữu hiện quyền lợi chính
đáng của cháu, chắt trong quan hệ thừa kế. Thực tế cho thấy không phải
lúc nào con chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản
thì cháu cũng được thừa kế thế vị. Tương tự, không phải lúc nào cha, mẹ
của chắt chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản thì
chắt đương nhiên được thừa kế thế vị. Quyền được thừa kế thế vị của
cháu, chắt trong thực tế thường gặp nhiều rủi ro khiến cho họ không được
thế vị, vì cha mẹ của họ không đủ điều kiện để hưởng thừa kế của người
để lại di sản. Không đủ điều kiện để được hưởng di sản là rất đa dạng,
bao gồm những trường người thừa kế bị tước quyền hưởng di sản; hoặc bị truất quyền hưởng di sản; hoặc từ chối di sản.
Nếu cha mẹ của cháu hoặc cha mẹ của chắt thuộc 1 trong 3 trường hợp vừa
nêu thì tất nhiên là cháu, chắt sẽ không thể được hưởng thế vị. Khi
hàng thừa kế thứ nhất không còn bất kỳ ai đủ điều kiện để được thừa kế,
thì di sản sẽ được chia cho hàng thứ hai; hàng thừa kế thứ hai không ai
đủ điều kiện thì di sản sẽ chuyển xuống cho hàng thứ ba. Do đó, nếu chỉ
áp dụng qui định về thừa kế thế vị thì sẽ không bảo đảm quyền được thừa
kế của cháu, chắt trực hệ và cũng không bảo đảm sự công bằng
trong mối quan hệ thừa kế qua – lại giữa cháu với ông bà hoặc giữa chắt
với các cụ. BLDS 2005 qui định bổ sung điểm này là cần thiết, vừa khắc
phục bất cập trong quan hệ thừa kế giữa cháu với ông, bà và giữa chắt
với các cụ, vừa tạo điều kiện tối đa để cháu hoặc chắt có cơ hội được
hưởng thừa kế.
Thứ hai, qui định này và qui định về thừa kế
thế vị chẳng những không chồng chéo, mâu thuẫn mà còn bổ sung cho nhau.
Nếu cháu hoặc chắt được thừa kế thế vị, có nghĩa di sản sẽ không được
chuyển xuống cho các hàng thứ hai và hàng thứ ba, nên sẽ không có chuyện
một người vừa được thừa kế thế vị vừa được hưởng thừa kế theo hàng.
Nhưng nếu chẳng may cháu hoặc chắt không được thừa kế thế vị thì vẫn có
thể được hưởng thừa kế theo hàng.
Tuy vậy, qui định này cũng không bảo đảm triệt để
quyền thừa kế của cháu, chắt trực hệ vì trong nhiều trường hợp các cháu
hoặc chắt vừa không được thừa kế thế vị vừa không được thừa kế theo
hàng. Nếu cha, mẹ của cháu hoặc cha mẹ chắt đều không đủ điều kiện để được hưởng di sản;
đồng thời ở hàng thừa kế thứ nhất vẫn còn người thừa kế khác đủ điều
kiện để hưởng thừa kế; hoặc tương tự, nếu ở hàng thừa kế thứ hai vẫn còn
người thừa kế khác đủ điều kiện hưởng thừa kế, thì cháu hoặc chắt sẽ
không được hưởng thừa kế của người để lại di sản, vì họ không được chia
thừa kế theo hàng và cũng không được thừa kế thế vị.
Qui định này cũng tỏ ra không công bằng giữa người thừa kế đồng vị với
nhau, đó là giữa cháu hoặc chắt có cha, mẹ không đủ điều kiện thừa kế
so với cháu hoặc chắt có cha, mẹ đủ điều kiện hưởng thừa kế. Cháu hoặc
chắt nói đến trong trường hợp thứ nhất không được thừa kế thế vị và cũng
không được thừa kế theo hàng nếu hàng trước còn người khác đủ điều kiện
thừa kế; còn cháu hoặc chắt nói đến trong trường hợp sau sẽ được hưởng
thừa kế thế vị, tức là thay vào vị trí của cha, mẹ hoặc ông bà để hưởng
thừa kế ở hàng thứ nhất. Do đó, qui định mới vẫn chưa khắc phục được bất
cập trong BLDS 1995 mà chúng ta muốn sửa.
Thiết nghĩ, để bảo đảm quyền được thừa kế của cháu,
chắt đối với di sản do ông, bà hoặc các cụ để lại, không nên chỉ bổ sung
họ vào hàng thừa kế, mà nên bổ sung luôn cả vào diện thừa kế thế vị, mới có thể bảo đảm triệt để quyền thừa kế của con cháu trực hệ.
3.2. Bổ sung qui định về thừa kế thế vị
Nhằm bảo đảm sự nhất quán trong việc hưởng thừa kế
thế vị của cháu trực hệ, chắt trực hệ trong trường hợp người thừa kế là
con hoặc cháu nội, cháu ngoại chết cùng thời điểm với người để lại di
sản so với trường hợp chết trước người để lại di sản, Điều 677 BLDS 2005
đã bổ sung như sau: “Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha, mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha, mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”.
Sự bổ sung này có ý nghĩa hết sức quan trọng, tạo cơ
sở pháp lý cho cháu hoặc chắt trực hệ được hưởng thừa kế của người để
lại di sản. Không có lý do nào mà người con của người thừa kế là con “chết trước” được hưởng thế vị, mà người con của người thừa kế là con “chết cùng thời điểm” lại không được thế vị. Suy cho cùng, “người con chết trước” người để lại di sản hay “người con chết cùng thời điểm” với người để lại di sản hoàn toàn giống nhau về bản chất: thứ nhất, cả hai trường hợp người thừa kế đều là con, cháu trực hệ của người để lại di sản; thứ hai,
họ đều đã không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Sự bổ sung này
của Luật mới làm chấm dứt tình trạng tranh cãi trong việc áp dụng qui
định về thừa kế thế vị, chấm dứt việc “phân biệt đối xử” một cách bất hợp lý trong luật thực định bấy lâu nay và đảm bảo sự công bằng trong việc thừa kế thế vị giữa các cháu, chắt.
Sự sửa đổi này cũng cho chúng ta thấy một điểm rất
thú vị của pháp luật là, mặc dù cả hai trường hợp người thừa kế là con
hoặc cháu chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
người để lại di sản đều làm phát sinh quyền được thừa kế thế vị đối với
các cháu hoặc chắt trực hệ của người để lại di sản. Nhưng giữa hai
trường hợp này trên thực tế vẫn có điểm khác nhau. Vì đối với người con
hay người cháu được thừa kế mà chết trước người để lại di sản, thì người
để lại di sản cũng được hưởng thừa kế theo hàng thừa kế thứ nhất (cha
thừa kế của con) hoặc thứ hai (ông, bà thừa kế của cháu), hoặc được
hưởng thừa kế bắt buộc phần di sản do người này để lại. Ngược lại, nếu
con hoặc cháu chết cùng thời điểm với người để lại di sản, thì họ không
được thừa kế của nhau. Người để lại di sản không được hưởng thêm phần di
sản từ người con, cháu chết cùng thời điểm với mình, nhưng vẫn dành
phần di sản để chia thừa kế thế vị cho cháu hoặc chắt theo qui định
chung. Ví dụ: A có con là B và C. B có vợ là H, có con là K. A có tài
sản riêng là 100 triệu. B có tài sản riêng là 90 triệu. Nếu B chết trước
A thì A được thừa kế của B 30 triệu, nên khi A chết, di sản của A là
130 triệu, và khi A chết thì K (thế vị cho B) và C được hưởng thừa kế
của A, mỗi người 65 triệu. Nhưng nếu A và B chết cùng thời điểm, thì A
và B không được thừa kế của nhau. Do đó, B chết, H và K được mỗi người
45 triệu từ B. A chết, C và K (thế vị cho B) mỗi người chỉ được 50 triệu
mà thôi. Phần di sản của A truyền lại cho những người thừa kế của mình
giảm đi rõ rệt. Mặc dù vậy, qui định như trên trong Luật mới là hoàn
toàn hợp lý.
4. THANH TOÁN VÀ PHÂN CHIA DI SẢN
Phần này trong BLDS 1995 có 6 điều luật và được sửa đổi, bổ sung 2 điều khoản trong BLDS
2005. Cụ thể:
4.1. Bổ sung qui định về các trường hợp hạn chế phân chia di sản
Ngoài hai căn cứ hạn chế phân chia di sản được qui
định tại Điều 689 BLDS 1995, Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 cũng đưa
điều khoản hạn chế phân chia di sản khi một bên vợ hoặc chồng chết trước
mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ
chồng còn sống và gia đình5… Qui định này đã được thực tế chấp nhận và
phát huy tính tích cực trong việc điều chỉnh quan hệ xã hội liên quan.
Kế thừa qui định của Luật Hôn nhân và Gia đình 2000, nhà làm luật đã bổ
sung vào Điều luật tương ứng trong BLDS 2005 nội dung:
“Trong trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà
việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của một bên vợ hoặc
chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác
định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di
sản trong một thời hạn nhất định, nhưng không quá 3 năm, kể từ thời
điểm mở thừa kế; nếu hết thời hạn do Tòa án xác định hoặc bên còn sống
đã kết hôn với người khác thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu
Tòa án cho chia di sản thừa kế”. Đây là qui định tiến bộ, thể hiện rõ nguyên tắc củng cố tình thương yêu đoàn kết trong gia đình.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tiến bộ của Điều luật,
chúng ta thấy vẫn còn những vấn đề bất cập chưa được giải quyết rốt ráo
trong Điều 689 BLDS 1995 cũng như Điều 686 BLDS 2005. Cụ thể:
- Đoạn 1 vẫn chưa qui định một khoảng thời gian tối đa cho việc hạn chế phân chia di sản hay căn cứ chấm dứt việc
hạn chế phân chia. Điều này gây ra những bất cập mới là, sẽ có những
trường hợp đáng lẽ phải chấm dứt tình trạng hạn chế phân chia di sản để
bảo vệ quyền lợi chính đáng của những người thừa kế khác, thì lại không
có căn cứ pháp lý để công nhận sự chấm dứt đó. – Qui định mới cũng đã
không dự liệu được khả năng di sản bị sụt giảm nghiêm trọng do lỗi cố ý
hoặc vô ý của người hưởng dụng, của người thứ ba hay do nguyên nhân bất
khả kháng; luật cũng không qui định quyền được giám sát hay quyền yêu
cầu của những người thừa kế để đòi chấm dứt sự hạn chế phân chia di sản
đối với người hưởng dụng, cũng như quyền yêu cầu được thanh toán giá trị
phần di sản bị tổn thất khi xảy ra tình huống trên.
- Cả hai khoản trong Điều luật đều cho phép hạn chế phân chia di sản trong một thời hạn.
Sự hạn chế này trên thực tế sẽ làm cho thời hiệu khởi kiện 10 năm bị
ảnh hưởng (ngắn đi so với qui định của pháp luật). Vậy thì pháp luật có
cho phép thời hiệu khởi kiện được kéo dài tương ứng với thời hạn bị hạn
chế phân chia di sản hay không? Nếu có thì cơ sở pháp lý là ở đâu?
Đây là những điểm bất cập mà nhất thiết phải được bổ
khuyết hoặc phải được giải thích, hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, nhằm tránh sự tranh cãi và sự tùy tiện, thiếu nhất quán khi áp
dụng pháp luật.
4.2. Bổ sung Điều luật mới về phân chia di sản khi có người thừa kế mới hoặc có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế
Điều 687 BLDS 2005 qui định:
“1. Trong trường hợp đã phân chia di sản mà xuất
hiện người thừa kế mới thì không thực hiện việc phân chia lại di sản
bằng hiện vật, nhưng những người thừa kế đã nhận di sản phải thanh toán
cho người thừa kế mới một khoản tiền tương ứng với phần di sản của người
đó tại thời điểm chia thừa kế theo tỷ lệ tương ứng với phần di sản đã
nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trong trường hợp đã phân chia di sản mà có
người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế thì người đó phải trả lại di sản
hoặc thanh toán một khoản tiền tương đương với giá trị di sản được hưởng
tại thời điểm chia thừa kế cho những người thừa kế, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác”.
Điều luật này khắc phục tình trạng bỏ sót người thừa
kế khi chia thừa kế; đồng thời tạo cơ sở pháp lý để yêu cầu người thừa
kế bị bác bỏ quyền thừa kế phải hoàn trả phần di sản mà họ được chia
trước khi quyền thừa kế của họ bị bác bỏ. Điều luật qui định rõ thời
điểm qui đổi giá trị kỷ phần di sản là thời điểm di sản được phân chia
trên thực tế, nhằm xác định rõ ràng về cách tính giá trị phần di sản mà
mỗi người thừa kế được hưởng khi có tranh chấp.
Tóm lại, mặc dù những qui định về thừa kế trong BLDS
2005 không được hoàn mỹ như mong đợi của nhiều người, nhưng trên thực tế
nó đã có một bước tiến rất đáng kể cả về kỹ thuật lập pháp cũng như về
nội dung. Nhiều bất cập trong BLDS 1995 đã được luật mới sửa đổi, hoàn
thiện. Nói như vậy không phải là sau khi Bộ luật mới được thông qua, mọi
sự bàn cãi, nghiên cứu thêm về các bất cập khác và các bất cập mới sẽ
phát sinh, đều được xếp lại. Đòi hỏi thực tế cuộc sống luôn buộc chúng
ta không ngừng phải hoàn thiện những hạn chế trong luật thực định mà
chúng ta chưa kịp hoàn thiện lần này, cũng như những vướng mắc sẽ phát
sinh khi áp dụng những qui định mới của luật trong thời gian tới.
Chú thích:
1 BLDS 2005 dành một phần riêng để qui định về thừa kế quyền sử
dụng đất (từ Điều 688 đến Điều 735) và Luật Đất đai 2003 cũng qui định
về thừa kế quyền sử dụng đất rất cụ thể tại các Điều 106, Điều 113 khoản
5, Điều 114 khoản 1, Điều 121 khoản 2 điểm d, Điều 129.2 Xem thêm khoản 7 Điều 374 và Điều 383 BLDS 2005.
3 Xem thêm các Điều 427 BLDS về thời hiệu khởi kiện về hợp đồng dân sự, Điều 607 về thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là 2 năm.
4 “Phụ trái, tử hoàn” nghĩa là cha, mẹ mắc nợ thì khi cha, mẹ qua đời, con cháu phải hoàn trả. Đây là tục lệ cũ, ràng buộc con cháu trả nợ thay cho người quá cố, dù họ không được hưởng di sản của người đó.
5 Xem thêm qui định tại khoản 1 Điều 31 Luật Hôn nhân và Gia đình 2000; mục 4 Nghị quyết số 02/2000/ NQ – HĐTP của Hội đồng Thẩm phán – Tòa án nhân dân Tối cao ngày 23/12/2000.
SOURCE: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ…/2006
0 comments:
Post a Comment