NGUYỄN THANH – Phòng Công chứng số 1 Quảng Ninh
Trong thời gian
qua, có nhiều trường hợp cá nhân gửi tiền, vàng, kim khí quý, đá quý tại
ngân hàng hoặc sở hữu giấy tờ có giá do ngân hàng, tổ chức tín dụng
phát hành nhằm huy động tiền gửi, vốn (gọi chung là tiền gửi tại ngân
hàng) qua đời. Từ đó phát sinh vấn đề về thừa kế những tài sản này, xác
định ai là người được hưởng di sản, phần di sản được hưởng của mỗi
người, pháp luật quy định áp dụng trong trường hợp này ra sao? Đặc biệt,
rất phức tạp đối với những trường hợp có yếu tố nước ngoài (Ví dụ:
Người để lại di sản là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài.v.v..) Trong phạm vi bài viết này, tác giả xin trao đổi về một số
tình huống xảy ra trong thực tế và hướng giải quyết.
1. Tổ chức tín dụng (TCTD) thanh toán trao trả tiền gửi cho những người được hưởng di sản dựa trên văn bản nào?
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, việc thanh toán
và phân chia di sản của người chết có thể được thực hiện tại Phòng Công
chứng, Phòng Tư pháp, cơ quan ngoại giao được thực hiện việc công
chứng, chứng thực trên cơ sở có yêu cầu của những người thừa kế. Ngoài
ra, cơ quan toà án các cấp cũng là người tiến hành thanh toán và phân
chia di sản trên cơ sở có đơn khởi kiện về thừa kế của người có quyền
thừa kế, của người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Ngân hàng có thể dựa
vào những văn bản về việc thanh toán, phân chia di sản đã được công
chứng, chứng thực đúng thẩm quyền hoặc dựa vào bản án, quyết định có
hiệu lực của toà án để tiến hành giao lại tài sản của người chết cho
những người được hưởng di sản thừa kế.
Ngoài ra, những người thừa kế cũng có thể tự tiến
hành thanh toán và phân chia di sản mà mình được hưởng và phải hoàn toàn
chịu trách nhiệm về việc này. Trong trường hợp di chúc chỉ định người
có trách nhiệm công bố di chúc và phân chia di sản thì văn bản thanh
toán và phân chia di sản trong trường hợp này đòi hỏi phải có chữ ký của
người được chỉ định trong di chúc. Tuy nhiên, giá trị pháp lý của văn
bản này về mặt thi hành và chứng cứ không cao, tiềm ẩn nhiều rủi ro đối
với TCTD khi TCTD tiến hành giao lại tài sản của người chết cho những
người được thừa kế.
Theo quy định của Điều 20, Luật các Tổ chức tín dụng
thì tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của
pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội
dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các
dịch vụ thanh toán. Ngân hàng không có chức năng thanh toán và phân chia
di sản, kể cả trong trường hợp những người thừa kế nhất trí cao và cùng
tiến hành thực hiện mọi thủ tục nhận di sản là tiền gửi ngay tại ngân
hàng. Trong trường hợp người để lại di sản qua đời thì ngân hàng cũng
không thể căn cứ các quy định của pháp luật về nguyên tắc chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân, nguyên tắc sở hữu tài sản chung của vợ
chồng để giao lại một phần tài sản gửi tại ngân hàng cho vợ hoặc chồng
của người chết. Việc chia tài sản chung của vợ chồng, thanh toán và phân
chia di sản phải được thực hiện theo quy định của pháp luật mà cụ thể
là cơ quan toà án tiến hành trên cơ sở đơn yêu cầu chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân, đơn khởi kiện về thừa kế của người thừa kế hoặc
theo yêu cầu của những người thừa kế khi tiến hành thủ tục tại cơ quan
có thẩm quyền công chứng. Như vậy, để đảm bảo an toàn pháp lý, TCTD chỉ
có thể tiến hành thanh toán và giao lại tài sản của người chết trên cơ
sở một văn bản pháp lý có hiệu lực thi hành của những cơ quan có thẩm
quyền tiến hành.
2. Xác định di sản mà người chết để lại
Hầu hết pháp luật các nước đều quy định di sản mà
người chết để lại là những tài sản, quyền tài sản… thuộc quyền sở hữu
của họ, bao gồm:
- Tài sản thuộc sở hữu riêng của họ.
- Phần tài sản của họ trong khối tài sản chung với người khác, có thể là sở hữu chung hợp nhất hoặc sở hữu chung theo phần.
- Các quyền tài sản .v.v.
Trong trường hợp họ có tài sản chung với người khác
thì cũng cần phải phân định phần tài sản của họ trong khối tài sản chung
đó (Điều 634, Bộ Luật Dân sự (BLDS) năm 2005). Việc xác định phần tài
sản của họ trong khối tài sản chung có thể dựa trên những thoả thuận đã
có từ trước hoặc căn cứ theo văn bản do cơ quan có thẩm quyền ban hành.
Ví dụ: Theo pháp luật của Việt Nam, ngoại trừ việc vợ
chồng tự thoả thuận tài sản riêng và tài sản chung thì toà án là cơ
quan có quyền tiến hành phân định phần tài sản của vợ và chồng trong
khối tài sản chung hợp nhất trên cơ sở có yêu cầu của họ (Điều 29, Luật
Hôn nhân và gia đình).
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 27, Luật Hôn nhân và
gia đình thì tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo
ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu
nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân…. Một điểm cần lưu ý là đối
với những tài sản mà họ có trước thời kỳ hôn nhân chỉ là tài sản chung
khi vợ chồng có thoả thuận. Điều 95, Luật Hôn nhân gia đình công nhận về
mặt nguyên tắc, tài sản chung của vợ chồng có trong thời kỳ hôn nhân
được chia đôi nhưng có những lý do mà toà án có thể quyết định không
nhất thiết phải chia đôi, ví dụ: Hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài
sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập tài sản, duy trì,
phát triển tài sản.
Như vậy, về mặt nguyên tắc thì tài sản sẽ được chia
đôi khi vợ và chồng ly hôn, nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Mặt khác
cũng cần lưu ý, kể cả trong trường hợp có thể chia đôi thì phía ngân
hàng cũng không thể đơn phương quyết định và giao lại một phần tài sản
của người đã chết đang gửi tại ngân hàng cho người vợ hoặc chồng của họ
mà phải dựa trên cơ sở văn bản pháp lý mà vợ chồng họ đã thoả thuận hoặc
bản di chúc của người để lại di sản. Nếu không có những văn bản này,
ngân hàng chỉ còn có thể chờ đợi quyết định của toà án hoặc bản thoả
thuận của toàn bộ những người được hưởng di sản.
Như vậy, trong trường hợp người để lại di sản chết mà
họ có tồn tại quan hệ hôn nhân với người khác thì cần phải xác định rất
rõ di sản mà họ để lại là gì? Nếu tiền gửi của họ tại ngân hàng có
trước khi họ kết hôn và vợ chồng không thoả thuận đây là tài sản chung
thì phần di sản này hoàn toàn thuộc về người để lại di sản. Ngược lại,
nếu số tiền đó có sau khi kết hôn thì cần phải coi đây là tài sản chung
và lúc đó cần phải có cơ quan đứng ra tiến hành việc phân định khối tài
sản chung này. Từ đó, xác định được di sản mà người chết để lại.
Thứ nhất, trong trường hợp người để lại di sản có di chúc để lại
- Người để lại di sản mang quốc tịch của Việt Nam:
Theo quy định của BLDS năm 2005, nếu người để lại di sản là người Việt
Nam thì toàn bộ vấn đề về thừa kế di sản của họ được áp dụng luật pháp
của Việt Nam để giải quyết (Trừ trường hợp di sản để lại là bất động sản
ở nước ngoài tại thời điểm mở thừa kế). Do vậy, việc xác định hình
thức, nội dung và tính hợp pháp của di chúc cũng như các thủ tục công bố
di chúc, thanh toán và phân chia di sản được thực hiện hoàn toàn theo
quy định của pháp luật Việt Nam. Có thể xảy ra một số tình huống sau:
+ Di chúc được lập và đã được công chứng, chứng thực
theo đúng các quy định pháp luật. Nếu trong di chúc có chỉ định người có
trách nhiệm tiến hành công bố di chúc và thực hiện việc phân chia di
sản thì họ có trách nhiệm thực hiện việc công bố di chúc và thanh toán,
phân chia di sản. Nếu di chúc không chỉ ra người thực hiện việc này thì
chính những người thừa kế theo nội dung của di chúc thoả thuận cử người
làm việc này hoặc họ tự thoả thuận và lập văn bản thoả thuận phân chia
di sản theo nội dung của di chúc tại Phòng Công chứng, Phòng tư pháp
hoặc cơ quan ngoại giao có thẩm quyền công chứng, chứng thực. Như vậy,
căn cứ vào nội dung của di chúc và để đảm bảo an toàn pháp lý cho ngân
hàng khi tiến hành giao lại di sản của người chết (khách hàng gửi tiền
tại ngân hàng), ngân hàng có thể yêu cầu những người thừa kế tiến hành
những công việc thanh toán và phân chia di sản theo nội dung của bản di
chúc tại cơ quan có thẩm quyền công chứng, chứng thực. Văn bản được công
chứng có giá trị thi hành (Điều 14, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP). Ngoài
ra, theo quy định của Điều 80, Bộ luật Tố tụng dân sự thì những tình
tiết, sự kiện được ghi trong văn bản và được công chứng, chứng thực hợp
pháp thì không phải chứng minh nên ngân hàng có thể tin cậy và tiến hành
việc giao lại tài sản cho những người thừa kế theo nội dung văn bản
thoả thuận phân chia di sản do những người được thừa kế đã lập và bản
sao di chúc được cấp cho những người thừa kế.
+ Trong trường hợp có di chúc nhưng di chúc không hợp
pháp hoặc rơi vào những trường hợp phải tiến hành thanh toán và phân
chia di sản theo quy định của pháp luật thì lúc này, ngân hàng có thể
yêu cầu những người thừa kế tiến hành thoả thuận phân chia di sản tại
Phòng Công chứng hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực văn bản thoả
thuận phân chia di sản. Dựa trên văn bản do những người thừa kế lập và
được các cơ quan này chứng nhận, chứng thực thì ngân hàng cũng có thể
tiến hành giao lại tài sản cho những người thừa kế.
+ Trong trường hợp có người thừa kế khởi kiện về
quyền thừa kế và thanh toán phân chia di sản tại toà án thì ngân hàng
yêu cầu những người thừa kế phải thực hiện theo đúng các thủ tục tố tụng
dân sự tại toà và chờ bản án, quyết định có hiệu pháp luật của toà án.
Trong thực tế không hiếm những trường hợp như vậy, kể cả trong trường
hợp có di chúc hoặc những người thừa kế thống nhất rất cao về việc thanh
toán và phân chia di sản. Nhiều trường hợp Phòng Công chứng thực hiện
việc chứng nhận thoả thuận phân chia di sản theo yêu cầu của những người
thừa kế, nhưng qua kiểm tra, xác minh nhân thân cũng như thực hiện việc
niêm yết công khai đã phát hiện thêm người thừa kế mới, người có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan đến di sản thừa kế. Lúc này, những người thừa
kế mới, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến di sản thường
sẽ chọn cách giải quyết là khởi kiện tại toà án để giải quyết theo quy
định của pháp luật. Khi đó, quyết định hoặc bản án có hiệu lực thi hành
của toà án sẽ là căn cứ để NHTM tiến hành giao lại tài sản của người
chết cho người được thừa kế.
- Trong trường hợp người để lại di sản là người nước
ngoài (Không mang quốc tịch Việt Nam tại thời điểm mở thừa kế) thì pháp
luật được áp dụng trong trường hợp này không hoàn toàn là pháp luật của
Việt Nam (Điều 767, BLDS năm 2005). Toàn bộ các vấn đề về thừa kế, hàng
thừa kế, điều kiện có hiệu lực của di chúc, thanh toán và phân chia di
sản v.v. đều được thực hiện theo pháp luật của nước mà người đó mang
quốc tịch, chỉ trừ trường hợp nếu người để lại di sản lập di chúc tại
Việt Nam thì bản di chúc đó phải tuân thủ điều kiện về hình thức của di
chúc theo quy định của pháp luật Việt Nam (Điều 768 của BLDS 2005) hoặc
trong trường hợp pháp luật của nước đó dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp
luật của Việt Nam thì khi đó, pháp luật của Việt Nam sẽ được áp dụng.
Trong trường hợp này, những người được hưởng di sản phải xuất trình cho
ngân hàng các văn bản, giấy tờ về việc thanh toán, phân chia di sản được
lập theo quy định của pháp luật của nước mà người để lại di sản mang
quốc tịch theo nội dung của di chúc. Để đảm bảo an toàn pháp lý trong
trường hợp này, tốt nhất ngân hàng nên yêu cầu những văn bản đó phải
được hợp pháp hoá lãnh sự và được dịch sang tiếng Việt, có công chứng.
Ngân hàng có thể tiến hành công tác xác minh con dấu, chữ ký của cơ quan
nước ngoài tại Cục Lãnh sự ngoại giao – Bộ Ngoại giao của Việt Nam. Căn
cứ vào những văn bản nói trên, ngân hàng có thể tiến hành giao lại tài
sản của người chết cho những người thừa kế.
Thứ hai, trong trường hợp người để lại di sản không có di chúc
- Người để lại di sản là người Việt Nam:
Trong trường hợp này, áp dụng theo pháp luật của Việt
Nam, những người thừa kế buộc phải tiến hành việc thoả thuận phân chia
di sản tại cơ quan có thẩm quyền hoặc khởi kiện tại toà án để xác định
phần di sản và nghĩa vụ phải thực hiện của mỗi người. Ngân hàng có thể
căn cứ vào những văn bản này để tiến hành giao lại tài sản của người
chết cho những người thừa kế.
- Trong trường hợp người để lại di sản là người nước ngoài (không mang quốc tịch Việt Nam):
+ Nếu người để lại di sản không tồn tại quan hệ hôn nhân tại thời điểm mở thừa kế.
Theo quy định của Điều 767, BLDS thì việc xác định
hàng thừa kế, người được hưởng di sản, phần được hưởng của mỗi người,
luật áp dụng hoàn toàn tuân thủ theo các quy định của pháp luật của nước
mà người để lại di sản mang quốc tịch. Ngân hàng chỉ có thể yêu cầu
những người thừa kế tiến hành việc thanh toán và phân chia di sản theo
pháp luật của nước đó mà thôi. Trên cơ sở các văn bản mà họ cung cấp và
ngân hàng kiểm tra xác minh tính hợp pháp của các văn bản này thì có thể
tiến hành giao tài sản của người chết cho những người thừa kế.
+ Trong trường hợp tại thời điểm phân chia di sản mà
họ tồn tại quan hệ hôn nhân với người mang quốc tịch Việt Nam thì trong
trường hợp này, cần xem xét các yếu tố khác như nguồn gốc tài sản, thời
điểm kết hôn, luật được các bên lựa chọn khi tiến hành đăng ký kết hôn,
giữa họ có tồn tại thoả thuận chia tài sản chung hay không hay có thoả
thuận nào khác về tài sản hay không? Vì rất nhiều quốc gia không có chế
định tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Trong khi đó, người để lại di
sản lại không mang quốc tịch Việt Nam.
Lúc này, cần xác định được di sản thừa kế là gì? Nếu
di sản để lại được xác định là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân thì người vợ hoặc chồng của người đã chết có thể yêu cầu toà án
tiến hành phân định phần tài sản mà họ được hưởng trong khối tài sản
chung (nếu có) trước khi tiến hành các thủ tục về thừa kế di sản. Bởi
như đã nói, trong vấn đề thừa kế, có hai vấn đề cần xác định: Di sản để
lại là gì? Luật được áp dụng trong trường hợp họ không mang quốc tịch
Việt Nam từ đó mới có thể xác định được hàng thừa kế, các thủ tục cần
thiết khi tiến hành thanh toán và phân chia di sản.
Như vậy, để đảm bảo an toàn pháp lý, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của những người được thừa kế, người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan và cũng để tránh những rủi ro cho ngân hàng về mặt
pháp lý. Khi xử lý vấn đề và tài sản của người chết hiện đang gửi tại
các ngân hàng cần phải xem xét rất kỹ yếu tố quốc tịch của người để lại
di sản. Mặt khác, ngân hàng cũng không thể theo yêu cầu của một phía vợ
hoặc chồng để giao lại một phần tài sản của người đã chết với lý do họ
đang tồn tại quan hệ hôn nhân tại thời điểm mở thừa kế, ngân hàng cũng
không thể dựa vào sự thoả thuận của những người thừa kế (kể cả trong
trường hợp có di chúc và di chúc chỉ định rất rõ người được hưởng di
sản, phần di sản họ được hưởng) để giao lại tài sản cho những người thừa
kế. Mặt khác, còn có thể phát sinh những nghĩa vụ mà người chết để lại
và theo quy định pháp luật của hầu hết các nước cũng như luật của Việt
Nam thì trước khi di sản được đem chia cho những người thừa kế, khối di
sản này phải thanh toán cho những nghĩa vụ mà người chết để lại trước
(Điều 683, BLDS 2005). Những người thừa kế chỉ được hưởng di sản trong
phần tài sản còn lại mà thôi.
SOURCE: TẠP CHÍ NGÂN HÀNG SỐ 17 NĂM 2006
0 comments:
Post a Comment