Trong bài viết này, tác
giả đã trình bày quan niệm của Nho giáo về gia đình và phân tích lễ
giáo đạo Nho trong việc xây dựng gia đình trong thời kỳ phong kiến, chỉ
ra những mặt tích cực cũng như những hạn chế của lễ giáo Nho gia trong
việc hình thành và phát triển các quan hệ gia đình. Để xây dựng gia đình
Việt Nam hiện nay theo những nguyên tắc, định hướng mới thì việc phát
huy những giá trị hợp lý, tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực
của lễ giáo Nho gia là rất cần thiết.
Có những tôn giáo coi quan hệ gia đình là sợi dây
trói buộc con người vào tội lỗi, lôi kéo con người đến sự phiền luỵ khổ
đau, con người mới sinh ra đã mang tội do tổ tông để lại… Vì thế, con
người phải tách khỏi gia đình, lìa bỏ người thân mới có thể kiếm tìm
được cuộc đời hạnh phúc. Nho giáo thì trái lại, nó khẳng định “con người
không thể sống chung với loài cầm thú” mà sống không tách rời nhau,
quan hệ với nhau trong những cộng đồng từ “nhà” đến “nước” và “thiên
hạ”, trong đó “nhà” là gốc.
Trong lễ giáo đạo Nho, “nhà” có một sức mạnh và khả
năng khống chế rất lớn đối với mỗi con người, nó chế định những sợi dây
ràng buộc con người một cách chặt chẽ. Coi nhà là gốc của nước và thiên
hạ, muốn trị được nước trước hết phải giữ yên được nhà nên Nho giáo luôn
cố gắng tìm cách xây dựng gia đình, gia tộc thành những “cự thất”,
những thế lực mạnh mẽ. Mỗi người từ lúc ra đời đến khi tạ thế không thể
lìa bỏ gia đình, hơn nữa phải luôn tìm cách nâng cao vị thế gia đình.
Gia đình mong đợi ở họ điều đó và người đời cũng ứng xử với họ tuỳ theo
địa vị gia đình anh ta.
Với mục đích củng cố gia đình, gia tộc nên vấn đề
trật tự kỷ cương chặt chẽ, chính danh định phận, gia pháp nghiêm ngặt…
là những yếu tố không thể thiếu trong nền nếp gia phong được lễ giáo đạo
Nho nhấn mạnh và đề cao. Lễ giáo đạo Nho qui định một cách chặt chẽ các
mối quan hệ giữa người với người, trong đó những quan hệ cơ bản nhất là
tam cương và ngũ luân, còn các quan hệ khác chỉ là thứ yếu.(*)Trong
những cương – luân đó thì các quan hệ trong phạm vi gia đình là chủ yếu.
Chịu ảnh hưởng sâu sắc của ý thức hệ Nho giáo nên giai cấp phong kiến
Việt Nam trong lịch sử cũng chủ trương xây dựng gia đình, củng cố các
mối quan hệ gia đình theo những khuôn mẫu của lễ giáo đạo Nho. Vì thế,
dấu ấn và ảnh hưởng của lễ giáo đạo Nho ở nước ta hiện nay được biểu
hiện khá rõ trong phạm vi gia đình. Trong công cuộc đổi mới đất nước
hiện nay, để xây dựng các mối quan hệ gia đình trên những nguyên tắc mới
thì ảnh hưởng của lễ giáo Nho gia phong kiến là điều không thể không
tính đến.
Xung quanh vấn đề gia đình, Nho giáo cũng có một
số kiến giải sâu sắc và hợp lý, góp phần xây dựng và duy trì những quan
hệ bình ổn trong điều kiện lịch sử xã hội nhất định. Bên cạnh đó, giáo
dục gia đình kiểu cũ theo những nguyên tắc của lễ giáo đạo Nho ở nước ta
vẫn còn tồn tại trong những chừng mực nhất định nên ảnh hưởng tiêu cực
của nó còn có những biểu hiện chưa mờ nhạt, thậm chí cản trở việc xây
dựng các quan hệ gia đình theo những yêu cầu mới hiện nay. Con người
sinh ra và trưởng thành, hình thành nhân cách trước hết từ môi trường
gia đình. Họ mang theo những suy nghĩ, tác phong đã được hình thành,
giáo dục từ gia đình vào cuộc sống xã hội, ảnh hưởng, tác động đến các
quan hệ xã hội. Mặc dù Luật Hôn nhân và gia đình đã ra đời từ lâu nhưng
trong cuộc sống gia đình, những tập quán, chuẩn mực, khuôn mẫu trở thành
thâm căn cố đế bao đời nay vẫn cho thấy những tác động của nó. Có nhà
nghiên cứu nhận định rằng, giai cấp phong kiến rất quan tâm đến vấn đề
gia đình và xây dựng gia đình, song nó xuất phát từ “lễ” của đạo đức Nho
giáo nên việc xác định các mối quan hệ trong gia đình của giai cấp
phong kiến dựa trên ba nguyên tắc chỉ đạo: Tôn ti trật tự là nguyên tắc
đầu tiên mà giai cấp phong kiến dùng để phân định các mối quan hệ trong
gia đình; nguyên tắc thứ hai là trọng nam khinh nữ; nguyên tắc thứ ba là
bảo đảm quyền tối cao của người gia trưởng(1). Các quan niệm đó ngày
nay đã mất đi cơ sở xã hội nhưng những tàn dư của nó vẫn để lại nhiều
dấu ấn và ảnh hưởng.
Với quan niệm cho rằng, việc thực hiện những chuẩn
mực đạo đức ngay từ gia đình có một ý nghĩa rất lớn: “Một nhà nhân thì
cả nước dấy lên đức nhân, một nhà lễ nhượng thì cả nước dấy lên lễ
nhượng”(2) và chỉ có những con người hiếu thảo với cha mẹ, có trách
nhiệm đối với người thân mới có thể trở thành những người có lòng yêu
thương người khác, có trách nhiệm đối với cộng đồng xã hội…, Nho giáo
quan tâm trước hết đến việc giáo dục tinh thần nhân ái, tình yêu thương
sâu nặng và bổn phận, trách nhiệm của mỗi con người đối với những người
thân trong gia đình. Đó là điều mà chúng ta không thể phủ nhận trong
việc xây dựng gia đình hiện nay. Nếu chúng ta xem nhẹ và buông lỏng quá
trình giáo dục lòng nhân ái, khoan dung ngay từ trong môi trường gia
đình sẽ góp phần làm gia tăng lối sống ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân cực
đoan, sự vô trách nhiệm của cá nhân với chính gia đình và cả xã hội.
Trong xây dựng gia đình, trong giáo dục một nền đạo đức mới thì việc
giáo dục, hình thành lòng nhân ái, sự gắn bó, yêu thương, tôn trọng,
tinh thần trách nhiệm đối với những người thân trong gia đình là một
việc làm không thể bỏ qua; bởi lẽ, đó chính là tiền đề cho quá trình
hình thành và phát triển những tình cảm đối với tập thể, cộng đồng và xã
hội. Tuy nhiên, cũng sẽ là sai lầm nếu tuyệt đối hoá những tình cảm đó,
bởi không phải bất kỳ người nào có tình yêu sâu nặng, sự gắn bó bền
chặt, có trách nhiệm với người thân cũng sẽ là người có tình thương yêu
và tinh thần trách nhiệm cao với quê hương, đất nước. Ngược lại, khi
những tình cảm đó được đẩy đến mức cực đoan sẽ dẫn đến thói vị kỷ gia
đình, bệnh gia đình chủ nghĩa… để lại nhiều hậu quả nặng nề. Vì thế, cần
bồi dưỡng, giáo dục và nâng tình cảm yêu thương, tinh thần trách nhiệm
đối với gia đình, người thân thành tình thương yêu, trách nhiệm của mỗi
con người với tập thể, cộng đồng, xã hội; đảm bảo sự gắn kết tình thương
và trách nhiệm của con người trong mối quan hệ hài hoà gia đình – tập
thể – xã hội.
Thực tế cuộc sống hiện nay cũng cho thấy sự xuất hiện
chiều hướng gia tăng những biểu hiện vô trách nhiệm trong quan hệ cha
mẹ với con cái. Tình cảm và mối quan hệ gắn bó giữa cha mẹ với con cái
bị xem nhẹ, sự kính trọng của con cái đối với cha mẹ có phần suy giảm.
Tình trạng bố mẹ đánh đập con cái, con cái ngược đãi ông bà và cha mẹ…
có chiều hướng gia tăng ở cả thành thị lẫn nông thôn. Trong khi đấu
tranh xóa bỏ những tàn tích, di hại của lễ giáo cũ, chúng ta cũng cần
chú ý thiết lập mối quan hệ cha con lành mạnh, tiếp thu có chọn lọc
những yếu tố tích cực, hợp lý mà Nho giáo đã đóng góp cho truyền thống:
quan tâm nuôi dạy con cái, chăm lo đến sự nghiệp và tương lai hạnh phúc
cho con cái là tình cảm, trách nhiệm của cha mẹ, cha mẹ phải tự mình là
tấm gương tốt về mọi mặt của cuộc sống để con cái học tập, noi theo.
Trong mỗi gia đình, cha mẹ gương mẫu và giáo dục con cái chấp hành pháp
luật, thực hiện nếp sống có văn hóa sẽ tạo ra nét đẹp trong lối sống,
gia đình và xã hội sẽ ngày một tiến bộ văn minh. Ngược lại, đứa trẻ sống
trong một gia đình cha mẹ không ra cha mẹ, trên không ra trên thì dù
nhà trường hay xã hội có tuyên truyền, giáo dục những bài học về lễ
phép, kính trọng người trên, thương yêu cha mẹ, ông bà… cũng khó lòng
đạt kết quả.
Trong lễ giáo đạo Nho, quan hệ cha con được đặc trưng
bằng chữ “hiếu”. Gia đình Việt Nam trong xã hội phong kiến cũng rất đề
cao mối quan hệ này, coi “hiếu” không chỉ là trách nhiệm mà còn là phẩm
chất lớn nhất của đạo làm con. Lễ giáo đạo Nho (nhất là từ thời Hán,
Tống trở đi) định ra những yêu cầu khắt khe, những qui định có phần khắc
nghiệt, như “trong thiên hạ không có cha mẹ nào không đúng”, “cha không
nhân từ nhưng con không thể không hiếu”… Song, thậm chí “cha bảo con
chết mà không chết là bất hiếu”, nhưng xét về tinh thần, chữ “hiếu” của
lễ giáo đạo Nho cũng thể hiện những điểm hợp lý nhất định, để lại nhiều
bài học có ý nghĩa trong việc giáo dục thế hệ trẻ hiện nay. Rõ ràng, dù
xã hội đổi thay, gia đình có những biến chuyển trên nhiều phương diện
nhưng cũng không gia đình nào muốn con cháu bất hiếu với ông bà và cha
mẹ, vô trách nhiệm với gia đình, người thân. Ngày nay, những quan niệm
về chữ “hiếu” một cách mù quáng, khắt khe như trước đã không còn. Cũng
không còn những qui định quá lỗi thời, trái ngược với yêu cầu xây dựng
mối quan hệ hòa đồng, bình đẳng, tin cậy lẫn nhau giữa những thành viên
trong gia đình hiện nay. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn có nhiều trường
hợp con cái hư đốn, không nghe theo sự chỉ bảo, góp ý đúng đắn, những
lời hay lẽ phải của ông bà, cha mẹ. Họ không những thiếu sự kính trọng,
mà còn có thái độ khinh nhờn, hắt hủi, bạc đãi cha mẹ. Trong thực tế
cũng xuất hiện nhiều hiện tượng vô đạo đức mà dư luận bấy lâu nay vẫn
thường lên án, như cha mẹ có tiền của dành dụm được thì con cái tranh
nhau, giành giật việc “nuôi” cha mẹ; còn những bậc cha mẹ không có của
cải, nghèo khó hay không lao động được, không đem lại lợi nhuận gì cho
kinh tế gia đình thì bất hạnh thay, họ bị con cái đùn đẩy trách nhiệm,
thậm chí chia nhau từng ngày nuôi nấng, hoặc hắt hủi, ngược đãi cha mẹ…
Lễ giáo đạo Nho đưa ra những yêu cầu khắt khe một
chiều đối với con cái, song nó cũng có những điểm hợp lý – giáo dục
người làm con phải biết kính trọng, quan tâm chăm sóc những người đã
sinh thành và nuôi dưỡng mình khôn lớn; giáo dục con người khi làm bất
cứ việc gì cũng phải nghĩ đến danh dự của gia đình, không làm cho cha mẹ
phải mang nhục, không được phóng túng làm càn… Đó là những điều vẫn cần
thiết với xã hội ta ngày nay. Đương nhiên, chúng ta không tiếp thu trọn
vẹn tất cả những gì lễ giáo đạo Nho đề ra. Chúng ta xây dựng tình cảm
gắn bó, thương yêu đùm bọc lẫn nhau giữa cha mẹ và con cái nhưng không
phải quay lại sự ràng buộc khắt khe một chiều của lễ giáo Nho gia thời
phong kiến, mà cần xây dựng, hình thành nên những chuẩn mực, khuôn mẫu,
vị thế của mỗi thành viên gia đình, đặc biệt là xây dựng nên nền nếp gia
phong và giáo dục gia phong theo yêu cầu mới. Những yêu cầu con cái
hiếu thảo, ông bà cha mẹ gương mẫu, có trách nhiệm với con cháu vẫn là
những giá trị cần thiết. Tuy nhiên, mỗi thành viên gia đình cũng là
những cá nhân có cá tính, nhu cầu, năng lực và xu hướng phát triển khác
nhau, do đó cần nhận thức đúng vai trò của cá nhân, tôn trọng quyền tự
do, tự quyết của mỗi thành viên trên tinh thần dân chủ và bình đẳng.
Quan niệm và cách thức tổ chức gia đình mô phỏng theo
lễ giáo đạo Nho từng tồn tại và ảnh hưởng suốt một thời gian dài trong
lịch sử nước ta đã để lại nhiều hậu quả mà đến nay chưa dễ gì xoá bỏ. Tư
tưởng trọng nam khinh nữ ngay trong phạm vi gia đình là một trong những
hậu quả đó và hiện vẫn còn ảnh hưởng không nhỏ với nhiều biểu hiện, như
quan niệm về sinh con trai, con gái; phân chia tài sản cho các con; coi
thường phụ nữ, chưa chú trọng đúng mức tới việc phát huy vai trò của
phụ nữ… Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương,
chính sách cụ thể về bình đẳng nam nữ, có nhiều cải cách luật pháp, xây
dựng cơ chế nhằm thúc đẩy sự bình đẳng nam nữ và trên thực tế đã đạt
được những tiến bộ đáng kể về vấn đề này. Tuy vậy, tư tưởng, tập quán
trọng nam khinh nữ của lễ giáo đạo Nho vẫn tồn tại trong không ít gia
đình, nhất là ở vùng nông thôn. Đấu tranh xoá bỏ tư tưởng lạc hậu, cổ hủ
này vẫn đang là một yêu cầu trong việc xây dựng gia đình ở nước ta hiện
nay. Thực tế cho thấy, dường như sự giải phóng phụ nữ chỉ dừng lại ở
những lĩnh vực, những nội dung mà pháp luật đề cập tới chứ chưa đi sâu
vào đời sống các gia đình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh: “Nếu
không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu
không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa”(3).
Ngày nay, đạo “tam tòng” là lạc hậu, tiêu cực, là sự
trói buộc khắt khe đối với người phụ nữ cần phải vứt bỏ, nhưng tinh thần
của “tứ đức” vẫn có ý nghĩa nhất định trong việc giáo dục người phụ nữ
trở thành những người mẹ hiền, dâu thảo, những người vợ, người mẹ đảm
đang, biết tận tụy chăm lo cho chồng con. Dĩ nhiên, ta không quy toàn bộ
công lao ấy cho lễ giáo đạo Nho. Mặt khác, ngày nay, chế độ đa thê đã
bị xóa bỏ, chế độ một vợ một chồng được pháp luật quy định, nhưng thực
tiễn cho thấy không ít gia đình lại có lối sống buông thả và quan hệ bất
chính. Chữ “tiết” hà khắc trong quan hệ vợ chồng theo kiểu lễ giáo
phong kiến đã không còn, người phụ nữ được giải phóng khỏi gông cùm khắt
khe, oan nghiệt đó. Tuy nhiên, có không ít trường hợp người phụ nữ
không làm tròn trách nhiệm của người vợ, người mẹ khiến quan hệ trong
gia đình trở nên lạnh lùng, rạn nứt – vợ chồng bất hòa, con cái không
được quan tâm giáo dục đến nơi đến chốn.
Trong bối cảnh phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường với sự mở cửa trong quan hệ giao lưu quốc
tế, gia đình Việt Nam trở thành một đơn vị kinh tế tự chủ, tự hạch toán
kinh doanh. Việc phát triển kinh tế gia đình là một hình thức phổ biến ở
nước ta hiện nay, nó giúp cho các gia đình phát huy tính năng động,
sáng tạo và phát triển tiềm lực kinh tế gia đình. Mối quan hệ giữa các
thành viên trong gia đình, nhất là mối quan hệ vợ chồng đã có nhiều thay
đổi. Nhiều gia đình nhờ lối làm ăn mới đã giàu lên nhanh chóng nhưng
cũng xuất hiện những đổi thay trong lối ứng xử, quan hệ vợ chồng. Từ sự
không bình đẳng trong thu nhập kinh tế đã dẫn đến sự bất bình đẳng trong
quan hệ vợ chồng, gây ra những rạn nứt trong gia đình, vợ khinh chồng,
chồng coi thường vợ… Nhiều gia đình đã có cuộc sống đầy đủ hơn, sung túc
hơn về tiện nghi vật chất nhưng mối quan hệ vợ chồng, cha mẹ và con cái
lại thiếu đi tình thương yêu, sự quan tâm chia sẻ trong đời sống tình
cảm; người ta nhiều khi thấy cô đơn, xa lạ ngay trong chính ngôi nhà của
họ. Trong quan hệ vợ chồng, quan hệ ông bà, cha mẹ với con cái… xuất
hiện sự thiếu tôn trọng, trách nhiệm và gương mẫu.(3)Quan hệ giữa các
thành viên trong gia đình có phần trở nên lỏng lẻo. Nền nếp, kỷ cương
“kính trên nhường dưới”, “kính già yêu trẻ”, “con cháu hiếu thảo”… có
phần suy giảm và ít được quan tâm, coi trọng như trước do những lệch lạc
trong quan niệm, trong nhận thức về tự do, dân chủ. Những bất hoà, mâu
thuẫn, xung đột và đổ vỡ các mối quan hệ tình cảm thân thiết trong gia
đình có chiều hướng gia tăng. Khi lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ, sự
tôn thờ lợi ích vật chất được đề cao, len lỏi vào trong đời sống đạo đức
đã làm hoen ố những quan hệ vốn được coi là thiêng liêng nhất. Sự ngược
đãi ông bà, cha mẹ; vô trách nhiệm với vợ (chồng), con cái; anh em ẩu
đả, chém giết lẫn nhau vì tài sản… không còn là cá biệt. Không ít người
chỉ chú trọng lợi ích của riêng mình mà không cần quan tâm đến hạnh phúc
của người khác, đến danh dự của gia đình và cộng đồng.
Vì vậy, việc xây dựng các mối quan hệ trong gia đình
ngày nay, sự hoà thuận, tình nghĩa, thuỷ chung vẫn là những giá trị cần
được coi trọng. Tuy nhiên, những tình cảm đó không thể được xây dựng dựa
trên việc đòi hỏi sự nhẫn nhục, chịu đựng một chiều của Nho giáo trước
đây, mà phải dựa trên cơ sở tình yêu thương, sự tôn trọng lẫn nhau, sự
bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các thành viên, cùng nhau chia
sẻ trách nhiệm với gia đình và tham gia vào công việc xã hội. Dĩ nhiên,
chúng ta không mơ hồ muốn lặp lại cái cũ, luyến tiếc và tìm cách phục
hồi sự ổn định theo trật tự sống cũ của lễ giáo đạo Nho, lẫn lộn những
qui tắc mà giai cấp thống trị bóc lột ràng buộc nhân dân ta với những
qui tắc mới cần xây dựng và củng cố trong cuộc sống hôm nay.
Giai cấp phong kiến Việt Nam trước đây đã tổ chức,
xây dựng gia đình theo những nguyên tắc, chuẩn mực của lễ giáo đạo Nho:
phân định các mối quan hệ trong gia đình theo trật tự tôn ti, đảm bảo
cho cha có quyền lực hơn con, chồng có quyền uy hơn vợ, anh có quyền hơn
em, con trai có quyền hơn con gái và đảm bảo cho người gia trưởng có
quyền tối cao trong gia đình. Gia đình được coi trọng nhưng lại theo
hướng chủ nghĩa gia trưởng, nghiệt ngã với phụ nữ, khắt khe với tuổi
trẻ. Quan niệm và cách thức tổ chức gia đình như vậy đã từng tồn tại và
ảnh hưởng lâu dài trong lịch sử nước ta, để lại nhiều hậu quả tiêu cực. ở
nước ta hiện nay, việc xây dựng, củng cố gia đình với tư cách một “tế
bào của xã hội” là việc làm cần thiết nhưng cũng là một việc lâu dài.
Yêu cầu của công cuộc kiến thiết xã hội mới không cho phép chúng ta duy
trì sự bất bình đẳng trong gia đình và sự bất công ngoài xã hội, nó đòi
hỏi suy nghĩ của mỗi con người phải vượt khỏi ngưỡng cửa gia đình để
vươn đến những tình cảm lớn hơn đối với Tổ quốc, nhân dân.
Xây dựng mối quan hệ trong gia đình Việt Nam hiện nay
dĩ nhiên không phải theo những nguyên tắc của lễ giáo đạo Nho, song rõ
ràng trong quá trình ấy, những ảnh hưởng của nó không thể không tính
đến. Để tạo lập những mối quan hệ gia đình theo các nguyên tắc, định
hướng, yêu cầu mới thì việc khai thác những giá trị, phát huy những ảnh
hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của lễ giáo Nho gia
phong kiến là điều cần thiết. Trong quá trình đó cần chống cả hai xu
hướng cực đoan: Xu hướng thứ nhất là hoài cổ, muốn duy trì, bảo lưu mọi
chuẩn mực của gia đình theo nguyên tắc, lễ giáo đạo Nho, coi đó hoàn
toàn là những giá trị ưu việt, nhân văn mà cự tuyệt các giá trị hiện
đại; xu hướng thứ hai là xem thường, phủ nhận mọi nền nếp gia phong cũ –
chưa hẳn đã hoàn toàn lạc hậu, xem nó là cái trói buộc, nô dịch con
người mà tuyệt đối hoá, tiếp thu vô điều kiện những cái mới – chưa hẳn
là tiến bộ, văn minh.
Xây dựng gia đình ngày nay cần trân trọng các giá trị
văn hoá, đạo đức, nếp sống truyền thống tốt đẹp, đồng thời tạo lập môi
trường dân chủ, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau giữa các thành viên và thế
hệ thành viên; khắc phục những hạn chế của gia đình theo mô hình lễ
giáo đạo Nho. Phải coi việc xây dựng gia đình như một cuộc cách mạng lâu
dài và cũng đầy khó khăn, gian khổ. Cuộc cách mạng đó chỉ có thể thực
hiện thành công khi nó được toàn Đảng, toàn dân cũng như mọi gia đình
tham gia một cách chủ động, tự giác, tích cực.
***************
(1) Xem: Nguyễn Tài Thư. Nho học và Nho học ở
Việt Nam – một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1997, tr.101-103.
(2) Nguyễn Đức Lân (chú dịch). Chu Hi – Tứ thư tập chú. Nxb Văn hoá – Thông tin, Hà Nội, 1998, tr.44.
(3) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.9. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.523
SOURCE: TẠP CHÍ TRIẾT HỌC SỐ 3 (238) NĂM 2011
0 comments:
Post a Comment