THS. NGUYỄN BÁ BÌNH – Đại học Luật Hà Nội
Xen lẫn trong những câu
chuyện kinh doanh của thời hội nhập, nuôi con nuôi quốc tế
(International Adoption) – một nội dung trọng yếu của quan hệ hôn nhân
và gia đình có yếu tố nước ngoài – đang ngày càng trở nên gần gũi với
người Việt Nam. Tuy thế, một khuôn khổ pháp lý để bảo đảm các quyền và
lợi ích tốt nhất cho trẻ được nhận nuôi dường như vẫn còn chưa đủ. Với
tính chất quốc tế của loại hình cho và nhận con nuôi này, pháp luật quốc
gia Việt Nam – dù đã có một loạt quy định điều chỉnh – cũng khó lòng
vươn tới nơi xứ người để chở che cho con trẻ nước mình.
Sự lựa chọn tích cực và đầy hiệu lực cho những vấn đề
toàn cầu, trong đó có con nuôi quốc tế chính là ký kết, tham gia những
thỏa thuận song và đa phương. Gia nhập Công ước Lahaye 1993 về bảo vệ
trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế (Công ước Lahaye
1993), đang là một yêu cầu cấp bách đối với Việt Nam hiện nay.
1. Tính cấp bách của việc gia nhập Công ước Lahaye 1993
Thực trạng việc cho và nhận con nuôi quốc tế ở Việt Nam
Về mặt lý thuyết, việc nuôi con nuôi quốc tế có thể
diễn ra theo hai chiều: thứ nhất, cho người nước ngoài (hoặc người Việt
Nam định cư ở nước ngoài) nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi; thứ hai,
công dân Việt Nam xin nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi. Thực tiễn cho
thấy, việc cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi phổ
biến hơn. Theo thống kê chưa đầy đủ của Bộ Tư pháp, chỉ trong 5 năm (từ
1994 -1999) có tới 9.322 trẻ em Việt Nam được người nước ngoài nhận làm
con nuôi; trong đó số trẻ em làm con nuôi tại Pháp là 3.407, chiếm trên
1/3 trẻ được nhận làm con nuôi tại Pháp (1). Tính trung bình cho đến
nay, mỗi năm có khoảng 2.000 trẻ em Việt Nam được người nước ngoài nhận
làm con nuôi (2) và số trẻ em được nhận mỗi năm một tăng cao. Như vậy,
rõ ràng nhu cầu về việc nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi của người nước
ngoài là rất lớn và đang tiếp tục phát triển. Xét về nguồn trẻ em, Việt
Nam là một đất nước đông dân – với trên 85 triệu người – hiện có tới
trên dưới 27% dân số là trẻ em (chỉ mới tính từ 14 tuổi trở xuống)(3),
trong đó, số lượng trẻ em ở vào hoàn cảnh khó khăn như tàn tật, mất năng
lực hành vi dân sự, không nơi nương tựa… chiếm một tỉ lệ khá lớn. Nhu
cầu về một mái ấm gia đình, về những điều kiện tốt đẹp về vật chất lẫn
tinh thần cho những đứa trẻ là rất đáng quan tâm. Vì vậy, việc xem xét
để giải quyết cho và nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài
không chỉ là đòi hỏi nhằm đáp ứng nhu cầu của người nước ngoài, mà hơn
hết, chính là nhằm góp phần tạo dựng cuộc sống tốt đẹp cho trẻ em Việt
Nam.
Khung pháp luật hiện hành điều chỉnh việc nuôi con nuôi quốc tế của Việt Nam
Để hiệu chỉnh quan hệ nuôi con nuôi quốc tế, pháp
luật là công cụ mang tính hiệu quả và hiệu lực nhất. Pháp luật về nuôi
con nuôi quốc tế hiện hành ở Việt Nam gồm có hai nguồn: nguồn quốc tế và
nguồn quốc gia. ở nguồn quốc tế, trong 15 hiệp định tương trợ tư pháp
mà Việt Nam đã ký với các nước thì có khá nhiều hiệp định đã đề cập ở
mức độ nhất định về vấn đề nuôi con nuôi quốc tế. Bên cạnh đó, không thể
không nhắc đến 13 hiệp định về hợp tác nuôi con nuôi (Agreement on
mutual cooperation concerning adoption) mà Việt Nam đã ký liên quan tới
10 nước (4). Về phía pháp luật quốc gia, vấn đề nuôi con nuôi quốc tế
hiện được quy định tại các văn bản như: Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000; Nghị định 68/2002/NĐ-CP ngày 10/07/2002 quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia
đình có yếu tố nước ngoài; Nghị định 69/2006/NĐ-CP ngày 21/07/2006 sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 68/2002/NĐ-CP; Thông tư của Bộ Tư
pháp số 07/2002/TT-BTP ngày 16/12/2002 về việc hướng dẫn thi hành một
số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP; và Thông tư của Bộ Tư pháp số
08/2006/TT-BTP ngày 08/12/2006 hướng dẫn thực hiện một số quy định về
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Bỏ qua những đánh giá mang tính chi
tiết về từng quy định đối với quan hệ nuôi con nuôi quốc tế trong các
văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam (phần này sẽ được làm rõ hơn khi bàn
về những vấn đề đặt ra cho Việt Nam khi gia nhập Công ước Lahaye 1993)
thì điểm nổi bật nhất có thể thấy là khả năng hạn chế trong việc điều
chỉnh hoạt động cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi.
Pháp luật Việt Nam chỉ tỏ rõ hiệu lực của mình chủ yếu ở phần đầu của
quá trình cho nhận con nuôi ấy – về điều kiện của người nhận nuôi, của
con nuôi, rồi thủ tục cho nhận… Còn đối với phần sau của quá trình nuôi
con nuôi quốc tế (vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích của đứa trẻ trong mối
quan hệ với bố mẹ nuôi ở nước mà nó cư trú) – sau khi trẻ em Việt Nam đã
được bàn giao cho bố mẹ nuôi – thì gần như pháp luật Việt Nam không thể
phát huy được hiệu lực, bởi lẽ hiệu lực của hệ thống pháp luật mỗi quốc
gia luôn chỉ có giá trị trên lãnh thổ của mình. Trong khi đó, các hiệp
định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với nước ngoài cũng chỉ dừng lại ở
mức độ quy định về vấn đề luật áp dụng và thẩm quyền giải quyết quan hệ
nuôi con nuôi quốc tế. Các hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi quốc tế –
dù đã đi xa hơn và hiệu quả hơn khi thiết lập các cơ chế hỗ trợ song
phương trong việc đảm bảo một cuộc sống tốt đẹp cho đứa trẻ ngay cả khi
nó đã được chuyển ra nước ngoài sinh sống – nhưng lại hạn chế ở hai điểm
căn bản: thứ nhất, các hiệp định hợp tác nuôi con nuôi vẫn chưa thực sự
là một khung pháp lý đầy đủ để chi phối được rộng khắp các vấn đề có
thể phát sinh trong nuôi con nuôi quốc tế; thứ hai, các hiệp định hợp
tác về nuôi con nuôi quốc tế hiện nay rõ ràng vẫn là những thỏa thuận
riêng lẻ giữa Việt Nam với từng nước cụ thể, trong khi số lượng các nước
có hiệp định với Việt Nam lại chỉ có thể đếm trong lòng bàn tay.
Lợi ích của việc gia nhập Công ước Lahaye 1993
Để nói về sự cần thiết của việc gia nhập Công ước,
ngoài việc làm rõ thực trạng quan hệ nuôi con nuôi quốc tế, khả năng
hiệu chỉnh của pháp luật hiện hành, rõ ràng cần phải đánh giá tính hiệu
quả của việc trở thành thành viên. Xem xét lợi ích kinh tế của việc gia
nhập Công ước về một lĩnh vực chủ yếu mang tính chất xã hội như nuôi con
nuôi quốc tế dường như là điều không tưởng. Nhưng dù Công ước không
mang lại lợi ích kinh tế trực tiếp cho các bên trong quan hệ nuôi con
nuôi quốc tế, nhưng có thể tìm thấy những lợi ích nhất định cho quốc gia
thành viên: đó là với một chi phí nhỏ cho việc đáp ứng các yêu cầu cần
thiết của việc gia nhập, quốc gia thành viên có thể tiết kiệm một khoản
kinh phí lớn cho việc tạo dựng khuôn khổ pháp lý quốc tế khá hoàn thiện
và có phạm vi ảnh hưởng rộng (5) hiệu chỉnh lĩnh vực này – ví như tiết
kiệm kinh phí trong đàm phán, ký kết từng điều ước song phương đơn lẻ.
Còn lợi ích về khía cạnh xã hội là thực sự nổi trội khi xem xét việc gia
nhập Công ước Lahaye 1993. Cụ thể là việc gia nhập Công ước Lahaye 1993
sẽ giúp tạo dựng một cách tốt nhất cuộc sống riêng (về vật chất lẫn
tinh thần) của những đứa trẻ gặp phải hoàn cảnh khó khăn (như tàn tật,
mất năng lực hành vi dân sự, mắc bệnh hiểm nghèo…). Cũng không thể không
nhắc đến khía cạnh bảo vệ quyền con người từ việc gia nhập Công ước.
Quyền con người là một vấn đề mang tính trọng yếu, được đề cao trên phạm
vi toàn cầu. Dù còn nhiều tranh luận khác nhau về nội hàm của khái niệm
quyền con người, nhưng đã có sự thống nhất cao trong việc coi các quyền
trẻ em như một phần quan trọng của quyền con người (6). Như thế, việc
đảm bảo cho những đứa trẻ có được điều kiện sống tốt, có được nơi che
chở, giáo dưỡng cũng là một đòi hỏi thiết yếu của quyền con người. Gia
nhập Công ước – với một khuôn khổ pháp lý điều chỉnh hợp lý – sẽ góp
phần tích cực vào công cuộc bảo vệ quyền con người.
2. Những yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam khi gia nhập Công ước Lahaye 1993
Ngày 29/05/1993, tại khoá họp lần thứ 17 Hội nghị
Lahaye về tư pháp quốc tế, các thành viên dự họp đã nhất trí thông qua
Công ước Lahaye 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con
nuôi quốc tế. Đây là Công ước đầu tiên mang tính phổ cập và quan trọng
nhất từ trước đến nay trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế. Ngoài lời
nói đầu, Công ước gồm 48 điều, đề cập trên 7 vấn đề chính là: phạm vi áp
dụng; các yêu cầu đối với việc nuôi con nuôi quốc tế; cơ quan trung
ương của mỗi quốc gia phụ trách về nuôi con nuôi quốc tế; thủ tục cho,
nhận con nuôi quốc tế; công nhận và hậu quả của việc nuôi con nuôi; quy
định chung; và những điều khoản cuối cùng. Có thể nói, Công ước đã tạo
dựng một khuôn khổ pháp lý bao quát và hiệu lực, mở ra khả năng hiệu
chỉnh vấn đề nuôi con nuôi quốc tế không chỉ ở giai đoạn đầu của việc
cho – nhận, mà còn cả việc đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ
em trong quá trình được nhận nuôi.
Đối chiếu với những quy định của Công ước, thì việc
gia nhập cũng đòi hỏi Việt Nam phải có những điều chỉnh pháp luật trong
nước cho tương thích (bởi vì Công ước Lahaye 1993 không chấp nhận bất cứ
một bảo lưu nào khi gia nhập – Điều 40), cụ thể là:
Thứ nhất, về quan hệ pháp lý giữa ba bên: bố mẹ nuôi –
con nuôi – bố mẹ đẻ. Theo Công ước Lahaye 1993, có mở ra khả năng về
việc chấm dứt quan hệ pháp lý trước đó giữa cha mẹ đẻ với trẻ em đã được
nhận làm con nuôi. Theo quy định tại Điều 26 Công ước Lahaye 1993, nếu
pháp luật quốc gia ký kết – nơi thực hiện việc nuôi con nuôi – quy định
rằng, quan hệ pháp lý giữa cha mẹ đẻ với trẻ em được nhận làm con nuôi
sẽ chấm dứt, thì điều đó sẽ được tuân thủ. Tuy nhiên, các quy định pháp
luật Việt Nam hiện hành lại không mở ra khả năng như vậy, mà cho thấy
vẫn tồn tại song song hai mối quan hệ pháp lý: cha mẹ nuôi – con nuôi và
con nuôi – cha mẹ đẻ. Quan hệ cha mẹ đẻ – con nuôi vẫn được pháp luật
Việt Nam khẳng định cả ở khía cạnh quan hệ tài sản và nhân thân. Chẳng
hạn, trẻ vẫn tiếp tục được thừa kế tài sản của cha mẹ đẻ, hay con liệt
sĩ dù đã làm con nuôi người khác, nhưng vẫn tiếp tục được công nhận là
con của gia đình có công. Dĩ nhiên, cần nhấn mạnh rằng, nếu chúng ta vẫn
giữ các quy định như vậy thì cũng không phải là một sự vi phạm Công ước
Lahaye 1993 nếu chiếu theo quy định tại Điều 27 (7) – theo đó, kể cả
khi quốc gia gốc không quy định về việc chấm dứt quan hệ pháp lý giữa
cha mẹ đẻ – con nuôi thì sự chấm dứt quan hệ này vẫn được công nhận nếu
pháp luật của quốc gia nhận con nuôi quy định phải chấm dứt quan hệ và
có được sự đồng ý của những người liên quan (đã chỉ rõ tại mục c và d
Điều 4). Tuy nhiên, việc duy trì các quy định này sẽ gây khó khăn cho
việc chấm dứt quan hệ pháp lý giữa cha mẹ đẻ – con nuôi, bởi vì nó đòi
hỏi thêm điều kiện về sự đồng ý của những người liên quan; hơn nữa sẽ
tạo ra những rắc rối pháp lý cho trường hợp chúng ta là quốc gia nhận
con nuôi – bởi vì rõ ràng pháp luật Việt Nam không quy định về việc chấm
dứt quan hệ này, do đó, nó đương nhiên tồn tại.
Thứ hai, độ tuổi của trẻ em được nhận làm con nuôi
quốc tế. Theo quy định của Công ước Lahaye 1993 thì trẻ em có thể được
nhận làm con nuôi là những người dưới 18 tuổi. Trong khi đó, pháp luật
Việt Nam chủ yếu chỉ giải quyết việc cho làm con nuôi quốc tế đối với
trẻ em dưới 15 tuổi. Trẻ em từ 15 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ được làm con
nuôi quốc tế nếu thuộc diện trẻ em tàn tật hoặc mất năng lực hành vi
dân sự (8).
Thứ ba, cơ quan có thẩm quyền quyết định việc cho –
nhận con nuôi quốc tế. Công ước Lahaye 1993 quy định các quốc gia phải
chỉ định một Cơ quan trung ương có thẩm quyền để thực hiện việc cho –
nhận con nuôi quốc tế, cơ quan này không chỉ là đầu mối về thông tin mà
còn quyết định việc cho – nhận con nuôi quốc tế. Tuy nhiên, theo pháp
luật Việt Nam hiện hành (thể hiện rõ nhất ở Luật Hôn nhân và gia đình
cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành) thì thẩm quyền cho – nhận con
nuôi quốc tế lại thuộc về các ủy ban nhân dân cấp tỉnh, đối với trường
hợp cho – nhận trẻ em ở khu vực biên giới với các nước láng giềng thì
thuộc về các ủy ban nhân dân cấp xã. Có lẽ để phù hợp với Công ước, Cơ
quan trung ương được chỉ định của Việt Nam nên là Bộ Tư pháp (9).
Ngoài ba vấn đề then chốt nói trên, cũng cần có những
hiệu chỉnh cần thiết pháp luật trong nước về các vấn đề như: sự đồng ý
của người mẹ đẻ trong việc cho con nuôi (Mục c Điều 4 Công ước); hay
thời kỳ thử thách đối với bố mẹ nuôi (Điều 21 Công ước)(10).
Không chỉ là lợi ích có được về một khuôn khổ pháp lý
quốc tế khá hoàn thiện về nuôi con nuôi quốc tế, gia nhập Công ước
Lahaye 1993 thực sự còn là đòi hỏi thực tế của việc thiết lập mối quan
hệ hợp tác nuôi con nuôi với một số nước quan trọng, có nhu cầu lớn
(11). Gia nhập Công ước này mang lại nhiều cái được, một số việc phải
làm như hiệu chỉnh các quy định pháp luật hiện hành đã nói ở trên cũng
không phải là quá khó khăn, thậm chí nó còn góp phần hài hòa hóa pháp
luật Việt Nam với các nước. Việc gia nhập Công ước Lahaye 1993 đã được
chúng ta đặt ra từ những năm 90 của thế kỷ 20. Trong thời gian gần đây,
Chính phủ và ủy ban thường vụ Quốc hội đã có những động thái mạnh mẽ để
chuẩn bị gia nhập Công ước Lahaye 1993 và việc gia nhập đang trở nên
hiện thực hơn bao giờ hết (12).
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ
0 comments:
Post a Comment