Gia đình là một tế bào của
xã hội, là một nhóm xã hội cơ sở kiến tạo nên xã hội rộng lớn. Do đó, sự
trường tồn của quốc gia, dân tộc phụ thuộc rất nhiều vào sự tồn tại và
phát triển của mỗi gia đình. Gia đình phải là điểm xuất phát và trở về
của mọi chính sách xã hội.
Gia đình là một môi trường quen thuộc với hầu hết mọi
người. Đó là lĩnh vực mà ai cũng có thể tham gia với tư cách là người
trong cuộc. Mặt khác, đó cũng là lĩnh vực tinh tế, phong phú, phức tạp,
đầy mâu thuẫn và biến động.
Có thể nói gia đình là vấn đề của mọi dân tộc và thời
đại. Đặc biệt trong vài năm trở lại đây, vấn đề gia đình nổi lên như
một tiêu điểm trọng yếu được cả giới hàn lâm và giới chính trị quan tâm.
ở châu á và Đông Nam á nói riêng, người ta nói nhiều đến gia đình, văn
hóa gia đình như một giải pháp để ngăn trở sự xâm lăng của văn hóa
phương Tây. Và không chỉ có thế. Các quốc gia châu á trong đó có Việt
Nam đang trải nghiệm trong một cuộc chuyển mình vĩ đại: thực hiện công
nghiệp hóa – đô thị hóa với quy mô và tốc độ ngày càng gia tăng. Đồng
thời với quá trình này ở Việt Nam là sự chuyển đổi sang cơ chế kinh tế
thị trường. Cố nhiên, những biến chuyển kinh tế – xã hội mạnh mẽ đó
không thể không tác động sâu sắc đến thiết chế gia đình, một thiết chế
lâu đời và bền vững song cũng hết sức nhạy cảm với mọi biến đổi xã hội.
Gia đình là một xã hội thu nhỏ, trong đó hiện diện
đầy đủ các quan hệ xã hội như quan hệ kinh tế, quan hệ giáo dục, quan hệ
văn hóa, quan hệ tổ chức, v.v… Những biến chuyển xã hội đã và đang dội
vào gia đình trên mọi phương diện và đưa đến những hệ quả đa chiều.
Thiết chế có tính bền vững này cũng đang vận động, đổi mới và thích ứng
với nhu cầu của thời đại.
Trước khi tìm hiểu về gia đình Việt Nam truyền thống
hay gia đình Việt Nam hiện đại, chúng ta hãy thống nhất với nhau về khái
niệm gia đình. Nói như thế là bởi vì có rất nhiều quan niệm khác nhau
về gia đình ở các hệ thống chính trị – xã hội và văn hóa khác nhau và có
rất nhiều định nghĩa về gia đình đã được đưa ra. Đó là chưa kể một thực
tế là trên thế giới hiện nay xuất hiện nhiều dạng gia đình biến thái
khiến cho mọi định nghĩa về gia đình đều trở nên bất cập.
Chẳng hạn, một học giả phương Tây – James W. Vander Zanden – cho biết:
"Một cuộc thăm dò mới đây đã cho thấy 45% người Mỹ ngày nay cho rằng một
đôi không cần kết hôn mà cùng chung sống với nhau thì được coi là một
gia đình đích thực, 33% coi các đôi cùng giới tính có nuôi nấng con cái
là gia đình, còn 20% thì coi các cặp đồng giới tính chung sống với nhau
là một gia đình"[1]. Đây có thể là sự mở rộng thái quá trong quan niệm
về gia đình mà người Việt Nam ta khó lòng chấp nhận. Đối với người á
Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng, gia đình là một giá trị xã
hội quan trọng vào bậc nhất. Nếu ở châu Âu gia đình nhiều khi đơn giản
chỉ được coi là một nhóm xã hội thì ở ta, gia đình được coi là một tế
bào xã hội có tính sản sinh với đầy đủ các yếu tố cấu thành của nó như
vợ – chồng – con cái. Bởi thế, để có thể tìm hiểu về gia đình Việt Nam,
chúng tôi tạm đưa ra một định nghĩa mang tính cổ điển như sau: gia đình
là một tập hợp những người cùng chung sống với nhau dựa trên quan hệ hôn
nhân được chính thức thừa nhận bởi pháp luật hay luật tục và huyết
thống. Họ có trách nhiệm đạo đức đối với nhau, có chung tài sản và cùng
có trách nhiệm xã hội hóa thế hệ mai sau. Đó là các quan hệ vợ – chồng,
cha mẹ – con cái, anh chị em ruột.
Gia đình Việt Nam truyền thống được các nhà nghiên
cứu cho là loại gia đình chứa nhiều yếu tố dường như bất biến, ít đổi
thay, ra đời từ nôi văn hóa bản địa, được bảo lưu và truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Như vậy, gia đình Việt Nam truyền thống là sản
phẩm của nền văn minh lúa nước và tồn tại ở địa bàn nông thôn. Cố nhiên,
điều này không có nghĩa là ở các đô thị không tồn tại kiểu gia đình
truyền thống. Về vấn đề này tác giả Đỗ Thái Đồng có viết: "Gia đình
truyền thống chắc hẳn là gia đình ở nông thôn, là gia đình ở những xã
hội nông nghiệp á Đông đã tồn tại lâu đời và gần như bất biến trên nhiều
khía cạnh. Như vậy, đó cũng là kiểu gia đình nông nghiệp, là một định
chế gắn liền với nền nông nghiệp cổ truyền"1.
Nhân đây, cũng cần phải nói thêm rằng gia đình truyền
thống đôi khi được hiểu là "gia đình nho giáo". Về căn bản, điều này
không sai. Song có lẽ mỗi khái niệm đều có một sắc thái riêng nào đó và
cho dù phần lớn nội hàm 2 khái niệm này trùng nhau nhưng chúng không
hoàn toàn là 2 khái niệm đồng nhất. Từ đó có thể thấy tính chất nông
nghiệp, nông thôn và nho giáo là những đặc trưng cơ bản của gia đình
truyền thống Việt Nam. Và gia đình nho giáo, theo chúng tôi, là một khái
niệm rất thích hợp để chỉ kiểu gia đình truyền thống ở các đô thị
ViệtNam.
Trong dân gian, gia đình truyền thống được coi là đại
gia đình mà các thành viên liên kết với nhau bằng chuỗi quan hệ huyết
thống. Trong gia đình này có thể cùng chung sống từ 3 thế hệ trở lên:
ông bà – cha mẹ – con cái mà người ta quen gọi là "tam, tứ, ngũ đại đồng
đường". Kiểu gia đình này khá phổ biến và tập trung nhiều nhất ở nông
thôn Bắc Bộ. Nền kinh tế tiểu nông là cơ sở phát sinh và tồn tại của nó.
Về mặt tâm lý, người Việt Nam luôn có xu hướng quần tụ con cái xung
quanh mình. Bởi thế, các đại gia đình cùng sống dưới một mái nhà hoặc
vài nhà kế nhau cũng là hình thức tổ chức gia đình phổ biến ở đô thị.
Vào những năm 60 trở về trước ở Hà Nội kiểu đại gia này vẫn còn thường
thấy. Gia đình truyền thống có các ưu điểm như có sự gắn bó cao về tình
cảm theo huyết thống, bảo lưu được các truyền thống văn hóa, tập tục,
nghi lễ, phát huy tốt các gia phong, gia lễ, gia đạo. Các thành viên
trong gia đình có điều kiện giúp đỡ nhau về vật chất và tinh thần, chăm
sóc người già và giáo dưỡng thế hệ trẻ. Đó là những giá trị rất căn bản
của văn hóa gia đình mà chúng ta cần kế thừa và phát huy. Tuy nhiên,
nhược điểm của loại gia đình này là ở chỗ trong khi giữ gìn các truyền
thống tốt đẹp thì cũng bảo trì luôn cả những tập tục, tập quán lạc hậu,
lỗi thời. Bên cạnh đó, sự khác biệt về tuổi tác, lối sống, thói quen
cũng đưa đến một hệ quả khó tránh khỏi là mâu thuẫn giữa các thế hệ:
giữa ông bà – các cháu, giữa mẹ chồng – nàng dâu… Bên cạnh việc duy trì
được tinh thần cộng đồng, gia đình truyền thống phần nào cũng hạn chế sự
phát triển tự do của mỗi cá nhân. Trong điều kiện của xã hội hiện đại
"1 ngày bằng 20 năm" loại gia đình này có vẻ thiếu cơ động và chậm thích
ứng. Điều này giải thích tại sao số lượng gia đình truyền thống kiểu
đại gia đình giảm đáng kể và không còn là khuôn mẫu của gia đình ngày
nay.
Ở đây, một câu hỏi được đặt ra: vậy gia đình Việt Nam
ngày nay có phải là một gia đình hiện đại? Chúng tôi cho rằng điều này
không hẳn đúng. Bởi vì gia đình hiện đại phải là sản phẩm của một nền
công nghiệp phát triển, dân cư có lối sống đô thị và đạt đến một trình
độ văn minh đô thị khá cao. Trong khi đó, Việt Nam vẫn đang là một nước
nông nghiệp. Cư dân nông thôn chiếm tỷ trọng áp đảo – khoảng 3/4 dân cư
cả nước với tất cả các đặc trưng về lối sống, tâm lý, sinh hoạt của
người tiểu nông. Theo số liệu dự báo của Liên hợp quốc (năm 1993) đến
năm 2000 tỷ trọng cư dân đô thị nước ta sẽ lên 27,1%, năm 2010 là 34,8%.
Như vậy quá trình đô thị hóa ở Việt Nam đang ở giai đoạn khởi đầu. Văn
minh nông nghiệp vẫn còn in đậm trong đời sống văn hóa của mỗi người dân
– kể cả cư dân đô thị bởi đa phần họ vừa thoát thai từ nông thôn. Vậy
nên gia đình Việt Nam ngày nay có thể được coi là "gia đình quá độ"
trong bước chuyển biến từ xã hội nông nghiệp cổ truyền sang xã hội công
nghiệp hiện đại. Trong quá trình này, sự giải thể của cấu trúc gia đình
truyền thống và sự hình thành hình thái mới là một tất yếu. Gia đình đơn
hay còn gọi là gia đình hạt nhân đang trở nên rất phổ biến ở các đô thị
và cả ở nông thôn – thay cho kiểu gia đình truyền thống từng giữ vai
trò chủ đạo trước đây.
Gia đình Việt Nam ngày nay phần lớn là gia đình hạt
nhân trong đó chỉ có một cặp vợ chồng (bố mẹ) và con cái mà họ sinh ra.
Hầu hết các gia đình trí thức, viên chức nhà nước, công nhân công
nghiệp, gia đình quân đội, công an đều là gia đình hạt nhân. Xu hướng
hạt nhân hóa gia đình ở Việt Nam đang có chiều hướng gia tăng vì nhiều
ưu điểm và lợi thế của nó. Trước hết gia đình hạt nhân tồn tại như một
đơn vị độc lập, gọn nhẹ, linh hoạt và có khả năng thích ứng nhanh với
các biến đổi xã hội. Gia đình hạt nhân có sự độc lập về quan hệ kinh tế.
Kiểu gia đình này tạo cho mỗi thành viên trong gia đình khoảng không
gian tự do tương đối lớn để phát triển tự do cá nhân. Cá nhân tính được
đề cao. Trong xã hội hiện đại, mức độ độc lập cá nhân được coi là một
yếu tố biểu hiện chất lượng cuộc sống gia đình. Tính độc lập cá nhân
được gia đình tạo điều kiện nuôi dưỡng, phát triển sẽ tạo ra phong cách
sống, tính cách, năng lực sáng tạo riêng khiến cho mỗi người đều có bản
sắc. Đó cũng chính là con người mà sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa của Đảng ta đang cần đến.
Cố nhiên, gia đình hạt nhân cũng có những điểm yếu
nhất định. Chẳng hạn, do mức độ liên kết thuyết minh giảm sút và sự ngăn
cách không gian, giữa các gia đình nên khả năng hỗ trợ lẫn nhau về vật
chất và tinh thần bị hạn chế. ảnh hưởng của thế hệ tới nhau ít đi cũng
làm giảm khả năng bảo lưu các giá trị văn hóa truyền thống trong gia
đình. Dù vậy, gia đình hạt nhân vẫn là loại hình khá phổ biến ở nước ta
hiện nay và đó cũng là loại gia đình thịnh hành trong các xã hội công
nghiệp – đô thị phát triển. Có nghĩa – đó cũng là kiểu gia đình của
tương lai.
Gia đình là một tế bào của xã hội, là một nhóm xã hội
cơ sở kiến tạo nên xã hội rộng lớn. Do đó, sự trường tồn của quốc gia,
dân tộc phụ thuộc rất nhiều vào sự tồn tại và phát triển của mỗi gia
đình. Gia đình phải là điểm xuất phát và trở về của mọi chính sách xã
hội. Đảng Cộng sản Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội
đến năm 2000, đã đặt gia đình vào tiêu điểm quan trọng, phấn đấu sao
cho "xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc, làm cho
gia đình thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là tổ ấm của mỗi
người"[2].
[1]. James W. Vander Zanden: Sociology the Core, Mc. Graw Publishing Company, 1990, p. 225.
1. Đỗ Thái Đồng: Tạp chí Xã hội học, số 3-1990, tr. 9.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 112.
SOURCE: TẠP CHÍ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ SỐ 253 – THÁNG 3 NĂM 1999
0 comments:
Post a Comment