![](http://www.themortgageunit.com/files/inheritance1.png)
1. Điều kiện để được nhận di tặng
Điều 671 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 quy định về
di tặng: “1. Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để
tặng cho người khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc. 2.
Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần
được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa
vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để
thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này”.
Theo quy định này, căn cứ phát sinh di tặng là do
người lập di chúc chỉ định cho người được di tặng được hưởng di sản
trong một bản di chúc có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, người được di
tặng không phải là người thừa kế theo di chúc. Mặc dù họ cũng được hưởng
một phần di sản của người lập di chúc giống như người thừa kế theo di
chúc, nhưng họ lại không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần
được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa
vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để
thực hiện phần nghĩa vụ của người này. Đây là căn cứ xác định sự khác
biệt giữa người được di tặng với người thừa kế theo di chúc.
Nhưng Điều 671 không quy định cụ thể điều kiện để một
người được nhận di tặng mà chỉ quy định chung: Người lập di chúc được
dành một phần tài sản để di tặng cho người khác. Vậy “người khác” ở đây
được hiểu như thế nào? Chỉ là cá nhân hay có thể bao gồm cả cơ quan, tổ
chức?
Theo chúng tôi, người được di tặng có thể là cá nhân
và cũng có thể là cơ quan, tổ chức. Bởi lẽ, mặc dù không quy định cụ thể
“người khác” bao gồm những ai, nhưng BLDS cũng không quy định: người
được di tặng chỉ có thể là cá nhân.
Vấn đề được đặt ra ở đây là, người được di tặng có cần thỏa mãn các điều kiện như đối với người thừa kế hay không?
Nếu là cá nhân, người được di tặng có cần phải là “đã
thành thai trước khi người để lại di sản chết” hay không? Nếu là tổ
chức thì tổ chức đó có phải “tồn tại vào thời điểm mở thừa kế” hay
không? Sở dĩ phải đặt ra vấn đề này là do trong thực tế, có rất nhiều
trường hợp người để lại di sản đã lập di chúc định đoạt một phần tài sản
của mình với mục đích tặng cho các quỹ (quỹ học bổng, quỹ từ thiện…).
Về vấn đề này, Điều 81 Bộ luật Dân sự và Thương
mại Thái Lan quy định: quỹ là một tổ chức được thành lập vì “mục đích từ
thiện, tôn giáo, khoa học, văn học hoặc những mục đích khác vì lợi ích
công cộng chứ không phải vì mục đích chia lời”. Người để lại di sản có
quyền lập di chúc giao trách nhiệm cho một người gây dựng một quỹ, hoặc
tự mình trực tiếp hiến tài sản gây dựng các quỹ có mục đích nói trên
(Điều 1676). Khi quỹ được gây dựng theo di chúc đã được lập như một pháp
nhân, thì tài sản được người lập di chúc hiến cho mục đích thành lập
quỹ đó được coi như thuộc về pháp nhân đó, kể từ khi di chúc có hiệu
lực, trừ khi di chúc có quy định khác (Điều 1678). Nếu việc hiến này
không thể thực hiện được, hoặc nếu quỹ đó không thể tồn tại vì sự tồn
tại của nó trái với quy định của pháp luật, hoặc vi phạm trật tự công
cộng hay trái đạo đức, thì việc sắp đặt theo di chúc đó sẽ vô hiệu (Điều
1679). Việc lập quỹ không được gây tổn hại đến quyền lợi của các chủ nợ
của người để lại di sản (Điều 1680).
BLDS Việt Nam chưa có quy định cụ thể về vấn đề này.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, người được di tặng dù không phải là người
thừa kế, nhưng về bản chất họ là người được hưởng di sản theo sự định
đoạt của người lập di chúc. Vì vậy, để được nhận di tặng, người được di
tặng cũng phải thỏa mãn những điều kiện của người thừa kế được quy định
tại Điều 635 BLDS năm 2005, cụ thể: người được di tặng là cá nhân phải
là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau
thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản
chết. Trong trường hợp người được di tặng là cơ quan, tổ chức thì phải
là cơ quan, tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Để có cơ sở pháp lý giải quyết những trường hợp di
tặng trong đời sống dân sự, theo chúng tôi, BLDS nên sửa đổi lại tên gọi
cũng như thuật ngữ được sử dụng tại Điều 635 theo hướng thay thuật ngữ
“người thừa kế” bằng thuật ngữ có tính khái quát cao hơn là “người được hưởng di sản”. Cụ thể: “Người được hưởng di sản
là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra
và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi
người để lại di sản chết. Trong trường hợp người được hưởng di sản là cơ
quan, tổ chức thì phải là cơ quan, tổ chức tồn tại vào thời điểm mở
thừa kế”.
Với quy định này thì không chỉ những người thừa kế
(theo di chúc hoặc theo pháp luật) mà cả những người được hưởng di sản
không phụ thuộc vào nội dung di chúc và những người được di tặng cũng
cần phải thỏa mãn các điều kiện tối thiểu nói trên.
Tương tự như vậy, để đảm bảo tính thống nhất giữa các
điều luật cũng như tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc áp dụng pháp
luật trong thực tế, Điều 642 BLDS năm 2005 cũng nên thay cụm từ “người thừa kế” bằng cụm từ “người hưởng di sản”.
Và để tránh dẫn đến cách hiểu: chỉ người thừa kế mới có quyền từ chối
nhận di sản, còn người được di tặng không có quyền từ chối (khoản 1,
Điều 642), chúng tôi đề nghị nên sửa Điều 642 như sau:
1. Người hưởng di sản có quyền từ chối nhận
di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa
vụ tài sản của mình đối với người khác.
2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn
bản; người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được
giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc ủy ban nhân dân
xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di
sản.
3. Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ
ngày mở thừa kế. Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ
chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận di sản.
2. Những người có những hành vi quy định tại khoản 1 Điều 643 có được hưởng di tặng hay không?
Khoản 1 Điều 643 BLDS quy định những người không được
quyền hưởng di sản bao gồm: a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm
tính mạng, sức khoẻ hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ
người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người
đó; b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di
sản; c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế
khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó
có quyền hưởng; d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản
người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di
chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý
chí của người để lại di sản.
Theo chúng tôi, những người này cũng không được hưởng
tài sản di tặng. Bởi vì, thông thường một người chỉ để lại tài sản để
tặng cho người khác khi giữa họ và người được hưởng tài sản có mối quan
hệ thân thiết nhất định. Người có tài sản muốn lưu giữ tình cảm tốt đẹp
đó nên đã tặng một phần tài sản cho người được di tặng. Nếu người được
di tặng lại có hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm của người để lại di sản; hoặc lừa dối, cưỡng ép, ngăn cản người để
lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc,
hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của
người để lại di sản, thì người đó hoàn toàn không xứng đáng được hưởng
di sản.
Hơn nữa, tên gọi của Điều 643 là “Người không được
quyền hưởng di sản” cũng đã thể hiện quan điểm này. Vì “người được hưởng
di sản” bao gồm không chỉ là người thừa kế mà còn cả những người được
di tặng. Do đó đương nhiên những người được di tặng nếu có những hành vi
quy định tại khoản 1 Điều 643 sẽ không được hưởng di tặng.
Khi nghiên cứu vấn đề này, chúng ta thấy sự cần thiết
phải xem xét trong trường hợp người được di tặng không có quyền hưởng
di sản (theo khoản 1 Điều 643), từ chối nhận di tặng, chết trước hoặc
chết cùng thời điểm với người di tặng thì phần di chúc liên quan đến
người này về thực chất là phần di chúc mất hiệu lực pháp luật. Mà phần
di sản liên quan đến phần di chúc không có hiệu lực pháp luật sẽ được áp
dụng chia theo quy định của pháp luật cho những người thừa kế theo pháp
luật của người để lại di sản.
Tuy nhiên, đây mới chỉ là những suy đoán mang tính
chủ quan, còn trên thực tế các văn bản pháp luật hiện hành vẫn chưa có
quy định rõ ràng. Vì vậy, để tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết phần di sản này, theo chúng tôi, điểm c khoản 2 Điều 675 BLDS – quy định những trường hợp thừa kế theo pháp luật – cần được bổ sung theo hướng: “c. Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc, người được di tặng
nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối quyền nhận di sản, chết
trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ
quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn vào thời
điểm mở thừa kế”.
3. Trong trường hợp nào di tặng được dùng để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc?
Khoản 2 Điều 671 quy định: “Người được di tặng không
phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ trường
hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập
di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn
lại của người này”.
Quy định này dường như đã đồng nhất giữa di sản chia thừa kế với di sản. Bởi vì: Di
sản = phần di sản dành cho người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung
di chúc + phần di sản dành cho di tặng + phần di sản dùng vào việc thờ
cúng + phần di sản chia thừa kế. Như vậy, di sản chia thừa kế chỉ
là một thành phần của di sản. Chỉ trong trường hợp không có phần di sản
dành cho người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, di tặng và
di sản dùng vào việc thờ cúng thì di sản chia thừa kế mới bằng di sản
thừa kế. Nhưng quy định rằng: Người được di tặng không phải thực hiện
nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di
sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản, thì phải hiểu thế nào là
“toàn bộ” di sản? Nếu hiểu theo công thức trên, thì “toàn bộ” di sản rõ
ràng phải bao gồm cả di tặng. Nhưng nếu như “toàn bộ di sản” đã
bao gồm cả di tặng, tức là cả di tặng cũng đã được đem ra thanh toán
nghĩa vụ rồi, thì không thể có quy định: nếu “toàn bộ di sản không đủ để
thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này”.
Như vậy, rõ ràng “toàn bộ di sản” được nói tới trong
điều luật này không phải là “toàn bộ di sản thừa kế” mà chính xác phải
là “toàn bộ di sản chia thừa kế”. Điều này đồng nghĩa với việc: nếu có
nghĩa vụ tài sản thì phải dùng phần di sản chia thừa kế để thực hiện
nghĩa vụ trước, nếu di sản chia thừa kế vẫn không đủ để thực hiện nghĩa
vụ thì mới dùng phần di tặng. Trong trường hợp này, di tặng là phần di
sản còn lại sau khi đã thanh toán xong các nghĩa vụ tài sản và các chi
phí khác liên quan đến thừa kế theo Điều 683.
Vì vậy, để tạo cách hiểu thống nhất trong trường hợp trên, ta nên thay cụm từ “di sản” bằng “di sản chia thừa kế”.
Cụ thể, khoản 2 Điều 671 nên được sửa đổi như sau: “Người được di tặng
không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ
trường hợp toàn bộ di sản chia thừa kế không đủ để thanh toán nghĩa vụ
tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực
hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này”.
Với quy định này, sẽ có một cách hiểu thống nhất là:
di tặng chỉ được dùng để thực hiện nghĩa vụ khi toàn bộ di sản chia thừa
kế không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc. Mặc
dù, cùng là người được hưởng di sản của người chết để lại nhưng kể từ
thời điểm mở thừa kế, người thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ của người để
lại thừa kế trong phạm vi di sản được hưởng. Ngược lại, người được di
tặng không phải thực hiện nghĩa vụ đó. Chỉ trong trường hợp toàn bộ di
sản chia thừa kế không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người chết
để lại, thì phần tài sản là di tặng mới được dùng để thực hiện phần
nghĩa vụ tài sản còn lại này.
Vấn đề đặt ra trong trường hợp có cả di tặng và di
sản dùng vào việc thờ cúng, thì phải dùng phần di sản nào để thanh toán
nghĩa vụ tài sản trước? Di tặng hay phần di sản dùng vào việc thờ cúng?
Có ý kiến cho rằng, do tính chất đặc biệt của phần di
sản dùng vào việc thờ cúng – là sự biết ơn của con cháu đối với cha mẹ,
ông bà, tổ tiên, nếu xếp di sản dùng vào việc thờ cúng ngang với di sản
chia thừa kế hay di tặng đồng nghĩa với việc “hy sinh truyền thống cổ
xưa vì lợi ích của quyền tự do cá nhân”1. Chính vì vậy, trong
trường hợp này, ta phải dùng phần di sản dành cho di tặng để thanh toán
nghĩa vụ trước, nếu không đủ thì mới dùng đến di sản dùng vào việc thờ
cúng.
Ý kiến khác lại cho rằng, phải dùng di sản dùng vào
việc thờ cúng để thanh toán nghĩa vụ trước, nếu không đủ mới dùng đến di
tặng, bởi tài sản dành cho di tặng thường có ý nghĩa đặc biệt với người
di tặng cũng như người được di tặng. Việc để lại di tặng thường nhằm
mục đích làm kỷ niệm, lưu dấu một mối quan hệ tốt đẹp thân thiết giữa
người di tặng với người được di tặng.
Dung hòa cả hai ý kiến trên, ý kiến thứ ba cho rằng,
trong trường hợp này chúng ta phải dùng cả di tặng cũng như di sản dùng
vào việc thờ cúng để thanh toán. Việc cắt giảm hai phần di sản này sẽ
được thực hiện theo tỷ lệ. Theo chúng tôi, ý kiến này là hợp lý hơn cả.
Bởi theo quy định tại Điều 670 và 671 thì hai loại di sản này có địa vị
pháp lý tương đối “cân bằng” nhau, bởi cơ sở để dùng hai loại di sản này
để thanh toán nghĩa vụ đều là “toàn bộ di sản của người chết không đủ
để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó”. Hơn nữa, trong thực tế đời
sống, rất khó lý giải nên dùng loại di sản nào để thanh toán trước
trong trường hợp nói trên, vì điều này còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu
tố như: tính đa dạng của quan hệ pháp luật về thừa kế, mức chênh lệch về
giá trị di sản dùng vào việc thờ cúng và di tặng, yếu tố tâm lý, sự
khác nhau về phong tục tập quán giữa các vùng, miền trên cả nước.
Chú thích:
(1) Nguyễn Ngọc Điện (2001), Bình luận khoa học về thừa kế trong luật dân sự Việt Nam, Nxb. Trẻ, tr. 243.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ
0 comments:
Post a Comment