TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** Số: 517/1993/NCPL |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ******** Hà Nội, ngày 9 tháng 10 năm 1993 |
CÔNG VĂN
SỐ 517/NCPL NGÀY 9-10-1993 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO VỀ VIỆC LY HÔN VỚI MỘT BÊN ĐANG Ở NƯỚC NGOÀI
Trong thời gian vừa qua Toà án nhân dân
tối cao nhận được công văn của một số Toà án nhân dân địa phương hỏi một
số vấn đề về thủ tục giải quyết việc ly hôn có một bên đương sự đang ở
nước ngoài. Toà án nhân dân tối cao đã trao đổi với Viện kiểm sát nhân
dân tối cao và tại công văn ngày 5-10-1993 Viện kiểm sát nhân dân tối
cao đã thống nhất với Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thêm như sau,
ngoài các hướng dẫn trước đây tại các công văn số 130/NCPL ngày
16-12-1991 và số 29/NCPL ngày 6-4-1992 của Toà án nhân dân tối cao:
1. Trong trường hợp Toà án đã thực hiện
đầy đủ các thủ tục uỷ thác tư pháp đến lần thứ hai, nhưng không được các
cơ quan tư pháp có trách nhiệm của nước liên quan đáp ứng, thì Toà án
liên hệ với Bộ Tư pháp để thông qua Bộ Ngoại giao yêu cầu cơ quan lãnh
sự của nước ta tại nước có liên quan thực hiện uỷ thác tư pháp theo quy
định tại Điều 30 Pháp lệnh lãnh sự công bố ngày 24-11-1990 với nội dung:
Lãnh sự thực hiện uỷ thác tư pháp của cơ quan Nhà nước Việt Nam có thẩm
quyền đối với công dân Việt Nam ở khu vực lãnh sự, nếu việc đó không
trái với pháp luật nước tiếp nhận hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam và
nước tiếp nhận ký kết hoặc tham gia.
Việc thực hiện uỷ thác tư pháp này phải
tuân theo các quy định của pháp luật tố tụng Việt Nam. Nếu Toà án đã
thực hiện theo đúng các hướng dẫn nói trên nhưng việc uỷ thác tư pháp
vẫn không có kết quả do bị đơn không có địa chỉ rõ ràng, sống lưu vong,
không ai quản lý, thì Toà án yêu cầu thân nhân của bị đơn đó gửi cho họ
lời khai của nguyên đơn và báo cho họ gửi về Toà án những lời khai hoặc
các tài liệu cần thiết cho việc giải quyết vụ án. Sau khi có kết quả,
Toà án có thể căn cứ vào những lời khai và tài liệu đó để xét xử, nếu
nguyên đơn ở trong nước công nhận những lời khai hoặc tài liệu gửi về
đúng là của bị đơn đang ở nước ngoài. Nếu theo cách thức liên hệ nói
trên và đã liên hệ được với bị đơn đang ở nước ngoài, nhưng họ cố tình
từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết đến lần thứ
hai, thì Toà án có thể đưa vụ án ra xét xử. Nếu theo cách thức liên hệ
nói trên, nhưng không liên hệ được thì Toà án ra quyết định tạm đình chỉ
việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 45 Pháp
lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và giải thích cho nguyên đơn
biết họ có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án cấp huyện nơi họ thường trú
xác định bị đơn mất tích hoặc đã chết theo thủ tục quy định về việc xác
định công dân mất tích hoặc đã chết.
2. Đối với những vụ án ly hôn, nguyên đơn
là người ở trong nước bị bỏ lửng nhiều năm, bị đơn là người đang ở nước
ngoài, nhưng có đầy đủ căn cứ chứng minh là họ vẫn gọi điện về cho thân
nhân của họ ở trong nước và thân nhân của họ không chịu cung cấp địa
chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án, cũng như không chịu thực hiện yêu
cầu của Toà án thông báo cho bị đơn biết để bị đơn gửi lời khai về cho
Toà án, thì cần coi đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ
chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Trong trường
hợp này, nếu Toà án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà thân nhân của họ cũng
không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án cũng như
không chịu thực hiện yêu cầu của Toà án thông báo cho bị đơn biết, thì
Toà án có thể đưa vụ án ra xét xử. Ngược lại, nếu không có đầy đủ căn cứ
để chứng minh được là bị đơn vẫn gọi điện về cho thân nhân của họ ở
trong nước và thân nhân của họ không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của
bị đơn cho Toà án thì Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết
vụ án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 45 Pháp lệnh Thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự và giải thích cho nguyên đơn biết họ có quyền
khởi kiện yêu cầu Toà án huyện nơi họ thường trú xác định bị đơn mất
tích hoặc đã chết theo thủ tục quy định về việc xác định công dân mất
tích hoặc đã chết.
3. Đối tượng các trường hợp sau khi xét
xử sơ thẩm vẫn không có hoặc không biết địa chỉ của bị đơn để tống đạt
bản án và thân nhân của họ ở trong nước cũng từ chối việc thông báo cho
họ kết quả xét xử của Toà án, thì Toà án gửi công văn cho cơ quan ngoại
giao của nước ta ở nước ngoài kèm theo bản sao bản án và yêu cầu niêm
yết bản sao bản án tại trụ sở của cơ quan ngoại giao đó; đồng thời Toà
án cấp cho thân nhân của họ ở trong nước một bản sao bản án và yêu cầu
họ gửi cho bị đơn đang ở nước ngoài. Trong thời hạn 3 tháng, kể từ ngày
Toà án gửi công văn và bản sao bản án yêu cầu cơ quan ngoại giao của
nước ta ở nước ngoài niêm yết bản sao bản án và kể từ ngày Toà án cấp
cho thân nhân của họ ở trong nước bản sao bản án, dù Toà án có nhận được
hay không nhận được thông báo của cơ quan ngoại giao nước ta ở nước
ngoài cũng như thông báo của thân nhân của họ ở trong nước về việc đã
niêm yết bản sao bản án, đã gửi bản sao bản án cho họ hay chưa mà không
có đơn, thư của bị đơn đang ở nước ngoài về việc họ có kháng cáo, đồng
thời trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị được quy định tại Điều 59 Pháp
lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, bản án cũng không bị những
người khác kháng cáo hoặc Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị, thì bản án
được thi hành theo thủ tục chung.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
0 comments:
Post a Comment