XUÂN HOA
Theo đánh giá
của ông Trần Thất – Vụ trưởng Vụ Hành chính tư pháp trong Báo cáo chuyên
đề công tác hành chính tư pháp tại Hội nghị giao ban công tác tư pháp 6
tháng đầu năm 2008, 2 Nghị định điều chỉnh lĩnh vực hộ tịch có yếu tố
nước ngoài là Nghị định 68/2002/NĐ-CP và Nghị định 69/2007/NĐ-CP
đã đưa công tác hộ tịch có yếu tố nước ngoài nói chung và việc đăng ký
kết hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng đi vào quỹ đạo ổn định, cơ bản
đáp ứng được yêu cầu quản lý Nhà nước, cũng như giải quyết thấu đáo được
các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng
không tránh khỏi những tồn tại có nguyên nhân từ vấn đề cơ bản nhất –
vấn đề nhân sự.
Đương sự hiểu luật hơn cán bộ
Theo tổng kết của Vụ Hành chính tư pháp, khi giải
quyết việc kết hôn có yếu tố nước ngoài, cán bộ hộ tịch của các Sở Tư
pháp có rất nhiều cách hiểu khác nhau, dẫn đến việc áp dụng các quy định
về thủ tục không thống nhất. Cùng một việc, nhưng địa phương này giải
quyết dễ dàng, địa phương khác lại gây khó khăn, thậm chí không giải
quyết, dẫn đến bức xúc trong dư luận. Chính vì vậy, đã có trường hợp,
đương sự phải làm động tác chuyển hộ khẩu từ địa phương này sang địa
phương khác mới được công nhận việc kết hôn.
Một số cán bộ hộ tịch lại không cập nhật kịp thời
những quy định mới, thậm chí không nghiên cứu kỹ những quy định hiện
hành nên đã dẫn đến việc gây phiền hà cho các bên kết hôn. Nhiều khi,
chính người đi làm thủ tục đăng ký kết hôn lại hiểu luật hơn cán bộ giải
quyết việc kết hôn (!). Nhưng vì tâm lý “tránh voi chẳng xâu mặt nào”,
nên họ vẫn phải đáp ứng đủ các giấy tờ mà cán bộ yêu cầu, dù biết rõ
mười mươi rằng pháp luật không có quy định nào yêu cầu như vậy. Không
chỉ làm khổ dân, những cán bộ lười nghiên cứu, thụ động này còn làm
phiền cả đến Bộ Tư pháp. Nhiều vụ việc, dù đã được quy định rõ ràng
trong văn bản pháp luật, nhưng do không nghiên cứu kỹ, nên từ đề xuất
của cán bộ, các Sở Tư pháp lại chuyển công văn đề nghị Bộ hướng dẫn.
Với những công văn kiểu này, Vụ Hành chính tư pháp đã
chọn lọc và chỉ những vấn đề phức tạp Vụ mới có công văn trả lời. Còn
những vấn đề đơn giản, hoặc đã có quy định trong văn bản, nhưng do địa
phương không nghiên cứu, không tìm hiểu, thì Vụ không trả lời. Và, cũng
chính vì việc hơi tý lại làm công văn xin ý kiến của Bộ, rồi lại chờ
công văn trả lời, đã làm chậm thời gian giải quyết yêu cầu của đương sự,
đồng thời gây quá tải cho Bộ trong công việc.
Muốn phỏng vấn, phải “gặp gỡ” cán bộ
Bên cạnh sự thụ động, máy móc, thì số cán bộ làm công
tác thụ lý việc kết hôn có yếu tố nước ngoài có hành vi tiêu cực cũng
không phải ít. Mặc dù, Nghị định 69 đã bỏ bớt một số loại giấy tờ như lý
lịch cá nhân, bản án, quyết định toà án về việc ly hôn…, nhưng hiện
tại, nhiều địa phương, cán bộ thụ lý vẫn cố tình yêu cầu hai bên kết hôn
phải có giấy tờ theo quy định cũ của Nghị định 68, để qua đó sách nhiễu
người dân.
Dựa vào bối cảnh hiện nay, Sở Tư pháp nhiều địa
phương không mấy quan tâm tới việc phỏng vấn hai bên kết hôn nhằm ngăn
chặn kết hôn qua môi giới, mà thực hiện một cách hình thức, chiếu lệ,
các cán bộ hộ tịch đã lợi dụng để gây khó khăn. Muốn được xếp lịch phỏng
vấn, hai bên kết hôn cần phải “gặp gỡ” cán bộ hộ tịch. Nếu không biết
“quy định” này, cán bộ sẽ cố tình không xếp lịch phỏng vấn, để hai bên
kết hôn phải chờ đợi, đặc biệt là người nước ngoài phải kéo dài thời
gian ở Việt Nam để chờ đợi. Thậm chí, có nơi, cán bộ phỏng vấn còn móc
nối với “cò” môi giới để đưa ra một kịch bản phỏng vấn cho suôn sẻ.
Trái với sự thờ ơ ở khâu phỏng vấn, tại nhiều Sở Tư
pháp, việc yêu cầu xác minh của cơ quan công an lại sự quá ư cẩn thận.
Mặc dù, theo quy định tại Nghị định 68, việc xác minh của cơ quan công
an chỉ đặt ra khi xét thấy vấn đề xác minh thuộc cơ quan công an. Nhưng,
nhiều địa phương, Sở Tư pháp đã đưa ra quy định yêu cầu tất cả các
trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài đều phải gửi hồ sơ yêu cầu công
an xác minh. Sự cẩn thận thái quá này cũng đã góp phần kéo dài thời gian
giải quyết yêu cầu đăng ký kết hôn của hai bên nam nữ.
Định kỳ chuyển đổi vị trí công tác
Nói tới giải pháp khắc phục, theo ông Trần Thất, bên
cạnh việc ưu tiên lựa chọn cán bộ chuẩn mực đạo đức, chuyên sâu nghiệp
vụ, kiên quyết thuyên chuyển những cán bộ kém phẩm chất, thì các Sở Tư
pháp phải thực hiện triệt để việc định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối
với cán bộ giải quyết hồ sơ đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài theo
quy định tại Nghị định 158/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007
quy định danh mục các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi
đối với cán bộ công chức viên chức. Mặt khác, thực tế giải quyết việc
kết hôn có yếu tố nước ngoài cũng cho thấy nhiều cán bộ lãnh đạo có biểu
hiện tiêu cực. Vì vậy, Nghị định 158 cũng cần phải sửa đổi, bổ sung
theo hướng cán bộ lãnh đạo (trưởng, phó phòng hộ tịch) cũng phải được
định kỳ chuyển đổi vị trí công tác.
Bên cạnh đó, lãnh đạo các cơ quan tư pháp cũng không
được xem nhẹ việc nghiêm khắc yêu cầu cán bộ tự trau dồi, nâng cao trình
độ và phải có biện pháp đối với những cán bộ thụ động, máy móc trong xử
lý công việc
Việc nghiêm cấm hoạt động kinh doanh dịch vụ môi giới
kết hôn hoặc lợi dụng việc môi giới kết hôn có yếu tố nước ngoài đã
được các Nghị định 68 và Nghị định 125/2004/NĐ-CP
hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp đề cập tới. Tuy nhiên, trên thực
tế, các doanh nghiệp dịch vụ môi giới hôn nhân vẫn tiếp tục hoạt động
dưới nhiều hình thức trá hình, tinh vi để lẩn tránh pháp luật và có sự
móc nối với các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động môi giới hôn nhân
(vì luật pháp Hàn Quốc, Đài Loan cho phép cá nhân, tổ chức được hoạt
động môi giới hôn nhân hợp pháp). Xử lý vấn đề này, hiện nay mới chỉ có
thể áp dụng quy định của Nghị định 150/2005/NĐ-CP
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn
xã hội với mức phạt tiền từ 1-2 triệu đồng Theo ông Trần Thất, biện pháp
xử phạt như vậy là quá nhẹ, không đủ sức răn đe, ngăn chặn.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng chưa có được quy định hạn
chế, ngăn cấm, hay biện pháp chế tài để xử lý những biến tướng của việc
kết hôn có yếu tố nước ngoài như tình trạng phụ nữ tại các tỉnh phía Nam
kết hôn với người nước ngoài vì lý do kinh tế một cách vội vã, thiếu
suy nghĩ; ở các tỉnh biên giới phía bắc, phụ nữ vượt biên trái phép sang
biên giới làm ăn, rồi chung sống như vợ chồng với công dân nước đó mà
không đăng ký kết hôn; lợi dụng việc kết hôn để hợp lý hoá việc xuất
cảnh ra nước ngoài.
SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ TƯ PHÁP
Trích dẫn từ:
0 comments:
Post a Comment