THS. BÙI MINH HỒNG – Khoa Luật dân sự, Đại học Luật Hà Nội
1. Pháp luật về chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng
1.1. Tổng quan :
Kết hôn là sự kiện làm phát sinh một gia đình mà ở đó
phản án sự chung sống của hai vợ chồng và con cái (nếu có). Như là một
tất yếu của cuộc sống chung, vợ và chồng thực hiện những quan hệ về tài
sản nhằm đáp ứng những nhu cầu tồn tại và phát triển của gia đình. Đây
là những quan hệ xảy ra phổ biến trong xã hội và chịu sự điều chỉnh trực
tiếp của pháp luật về hôn nhân và gia đình, trong một quy chế được gọi
là «Chế độ tài sản của vợ chồng»[1].
Có một câu hỏi lớn đặt ra là : Chế độ tài sản của vợ
chồng sẽ được xác lập theo luật pháp hay theo sự thỏa thuận của vợ và
chồng?
Một công trình nghiên cứu khoa học của Viện luât so
sánh, trường Đại học tổng hợp Paris II, tiến hành năm 1974, với nhan đề
«Chế độ tài sản của vợ chồng trong những pháp luật đương đại», đã đưa ra
một câu trả lời khá đầy đủ trên phạm vi toàn cầu[2]. Thực tế, có hai
trường phái luật pháp mang hai quan điểm khác nhau về vấn đề này. Phần
lớn pháp luật của các nước trên thế giới thừa nhận quyền tự do thỏa
thuận của vợ và chồng về chế độ tài sản, vì vậy, một mặt luật pháp dự
liệu một chế độ tài sản của vợ chồng, mặt khác quy định những người kết
hôn có quyền lập hôn ước (Contrat de mariage –tiếng pháp) ; Chế độ tài
sản do pháp luật dự liệu chỉ có hiệu lực áp dụng trong trường hợp vợ
chồng không có hôn ước hoặc hôn ước được lập ra nhưng vô hiệu do vi phạm
những quy định của luật chung. Chỉ có một số nước trong hệ thống xã hội
chủ nghĩa, như Liên xô, Bulgari, Hungari, Roumani, Tiệp khắc, Trung
quốc, Việt Nam và ngoài ra còn có Arhentina và một số bang của Méhicô
duy trì duy nhất một chế độ tài sản pháp định đối với vợ chồng.
Trong số những luật pháp xã hội chủ nghĩa thời kỳ
này, luật của Cộng hòa dân chủ Đức có những quy định cho phép vợ chồng
có thể thỏa thuận thay đổi chế độ hôn sản pháp định. Trước khi kết hôn,
các bên không thể lập ra những thỏa thuận riêng về chế độ tài sản, nhưng
trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thực hiện điều đó trong một
giới hạn nhất định. Về nguyên tắc, hôn ước không thể phá vỡ toàn bộ chế
độ hôn sản pháp định để thay vào đó một chế độ hôn sản ước định. Vợ
chồng có thể thỏa thuận tăng hoặc giảm thành phần của cộng đồng tài sản
pháp định, trừ những tài sản cần thiết phục vụ cho đời sống của gia
đình, chẳng hạn như nhà ở của gia đình. Đối với chế độ tách riêng biệt
tài sản, vợ chồng không được phép thỏa thuận xác lập bởi vì điều đó trái
với tính chất cộng đồng của hôn nhân[3]. Như vậy, ở đây chúng ta có thể
hình dung đến sự tồn tại của các chế độ hôn sản ước định theo hình thức
cộng đồng.
Một nghiên cứu gần đây nhất về về luật so sánh trong
lĩnh vực chế độ tài sản của vợ chồng, cũng chỉ ra một sự giống nhau cơ
bản của pháp luật ở nhiều nước về quyền tự do của lựa chọn chế độ tài
sản của vợ chồng[4].
Như vậy, thực tiễn lập pháp ở các nhà nước trên thế
giới đã chỉ ra cho chúng ta thấy có sự tồn tại của hai loại chế độ tài
sản của vợ chồng. Đó là chế độ tài sản theo quy định của pháp luật (chế
độ pháp định) và chế độ tài sản theo sự thỏa thuận của vợ chồng (chế độ
ước định). Trong đó, chúng tôi nhận thấy rằng Bộ luật dân sự của Cộng
hòa Pháp đã tổ chức một cách rất có hệ thống các chế độ tài sản của vợ
chồng. Điều đó thể hiện qua việc thiết lập một hệ thống
các quy định chung nhằm bảo vệ cuộc sống gia đình – được gọi là chế độ
cơ sở, theo đó, các chế độ tài sản của vợ chồng, nhất là những chế độ
tài sản ước định phải triệt để tuân theo. Những thỏa thuận của vợ chồng
trái với những quy định chung này sẽ bị tuyên bố vô hiệu. Vì vậy, chúng
tôi muốn sử dụng luật của Cộng hoà Pháp để phân tích những vấn đề cơ bản
của chế độ tài sản theo sự thỏa thuận của vợ chồng, làm cơ sở cho những
tiếp cận tiếp theo trong bối cảnh của pháp luật Việt Nam.
1.2. Những vấn đề cơ bản
trong pháp luật của Cộng hòa Pháp về chế độ tài sản của vợ chồng theo
thỏa thuận (Les régimes matrimoniaux conventionnels)
1.2.1. Nguyên tắc tự do lựa chọn chế độ tài sản trong hôn nhân
Nguyên tắc này bắt nguồn từ việc thực hiện nguyên tắc
tự do ký kết hợp đồng đã được thừa nhận ở Pháp từ thế kỷ XVI, khi mà
những quan hệ kinh tế, thương mại phát triển mạnh. Từ thời kỳ đó, luật
pháp và tập quán đã thừa nhận những sự thỏa thuận của vợ chồng về chế độ
tài sản phù hợp với hoàn cảnh kinh tế của họ, như là một quyền tự do cá
nhân. Bộ luật dân sự 1804 ra đời đã kế thừa tinh thần này và duy trì
nguyên tắc không thay đổi những thỏa thuận của vợ chồng về chế độ hôn
sản[5].
Đạo luật ngày 13 tháng 7 năm 1965 về cải cách chế độ
tài sản của vợ chồng đã hủy bỏ nguyên tắc này vì cho rằng nó hạn chế
quyền quyết định của vợ chồng về chế độ tài sản. Hiện nay, nguyên tắc vợ
chồng có quyền tự do lựa chọn chế độ tài sản được khẳng định ngay trong
quy định đầu tiên của phần những quy định chung của Bộ luật dân sự về
các chế độ tài sản của vợ chồng. Điều 1387 quy định : « Luật pháp chỉ
điều chỉnh quan hệ vợ chồng về tài sản khi không có thỏa thuận riêng, mà
vợ chồng có thể làm vì cho rằng điều đó là cần thiết, miễn sao những
thỏa thuận đó không trái với thuần phong mỹ tục và những quy định sau
đây ».
Thực tế, nhà lập pháp của Pháp đã đưa ra một hệ thống
các chế độ tài sản của vợ chồng, bao gồm chế độ tài sản pháp định và
các chế độ tài sản ước định. Dưới ảnh hưởng của nguyên tắc tự do lựa
chọn chế độ tài sản của vợ chồng, chế độ tài sản pháp định không có hiệu
lực áp dụng một cách đương nhiên, trái lại, nó chỉ là một chế độ tùy
nghi (facultatif). Những người kết hôn hoàn toàn có quyền tự do thỏa
thuận một chế độ tài sản cho riêng mình. Nếu họ không thiết lập những
thỏa thuận về vấn đề này, chế độ tài sản pháp định sẽ đương nhiên được
áp dụng. Mặt khác, nguyên tắc tự do thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ
chồng còn giữ hiệu lực ngay cả trong những trường hợp chế độ tài sản đã
được xác định, bằng việc vợ chồng có quyền thỏa thuận thay đổi. Sự thay
đổi này có thể được thực hiện trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn
nhân. Theo quy định của điều 1394 BLDS, những thỏa thuận về chế độ tài
sản của vợ chồng phải được tiến hành với sự tham gia của công chứng
viên, theo những thể thức nhất định.
1.2.2. Nội dung của hôn ước
Chứng thư thể hiện sự thỏa thuận của người kết hôn
hay của vợ chồng về chế độ tài sản của họ trong hôn nhân được gọi là «
Contrat de mariage » (tạm dịch là hôn ước)[6]. Về bản chất, hôn ước chỉ
chứa đựng những thỏa thuận của vợ chồng về các cách thức thực hiện các
quan hệ tài sản tài của họ mà không đề cập đến các vấn để nhân thân của
họ. Các quyền và nghĩa vụ nhân thân
của vợ và chồng, vì có liên quan đến đạo đức, trật tự chung nên đã được
pháp luật ấn định, vợ chồng không thể có những thỏa thuận khác. Hôn ước
hợp pháp sẽ là cơ sở cho việc thực hiện, giải quyết những tranh chấp về
tài sản giữa vợ chồng với nhau và giữa vợ, chồng với người thứ ba. Nói
cách khác, hôn ước có hiệu lực như pháp luật.
a. Quyền tự do xác định nội dung của hôn ước
Việc thừa nhận chế độ hôn sản ước định nhằm tạo điều
kiện cho những vợ chồng có thể thực hiện một chế độ hôn sản phù hợp với
hoàn cảnh kinh tế của họ. Vì vậy, người kết hôn có quyền đưa vào trong
hôn ước những điều khoản mà họ cho là cần thiết để điều chỉnh các quan
hệ tài sản trong suốt thời kỳ hôn nhân. Hôn ước được lập thông qua sự
can thiệp của công chứng viên, vì vậy, các bên sẽ nhận được những hỗ trợ
pháp lý để thiết lập nên một văn bản thỏa thuận hoàn chỉnh về một chế
độ tài sản.
Thứ nhất, trong hôn ước, các bên kết hôn tuyên bố một
chế độ hôn sản sẽ áp dụng đối với họ. Đây là mục đích cơ bản nhất của
việc lập hôn ước. Thông thường, người kết hôn lựa chọn một trong những
chế độ tài sản đã được đề xuất trong BLDS, điều đó sẽ dễ dàng hơn cho họ
khi cần thiết kế nội dung của chế độ tài sản, bởi vì luật đã dự liệu
trong đó những điều khoản cơ bản. Ngoài ra, vợ chồng cũng có quyền tuyên
bố về việc áp dụng một chế độ tài sản khác, tuy nhiên điều này rất hiếm
xảy ra.
Thứ hai, trong chế độ tài sản đã lựa chọn, các bên có
quyền tự do đưa ra những điều khoản quy định về các vấn đề cụ thể. Nếu
đó là một trong những chế độ tài sản được dự liệu trong BLDS, họ có
quyền thiết lập những điều khoản bổ sung cho những quy định của luật
hoặc sửa đổi những quy định đó. Chẳng hạn, vợ chồng tương lai có thể
liệt kê những tài sản mà mỗi bên có trước khi kết hôn ; tặng cho nhau
tài sản ; thỏa thuận về việc quản lý tài sản chung, riêng ; về việc đóng
góp tài sản vì nhu cầu chung của gia đình ; thỏa thuận về việc phân
chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản…
b. Những giới hạn về nội dung của hôn ước
Tuy nhiên, quyền tự do thỏa thuận trong hôn ước của
vợ chồng không phải là không có giới hạn. Gia đình trong xã hội Pháp,
cũng giống như ở nhiều nước khác, phản ánh tính chất cộng đồng, vì thế
chế độ tài sản pháp định của vợ chồng ở Pháp, từ khi có Bộ luật Napoléon
đều là các chế độ cộng đồng tài sản [7]. Luật hiện hành của Cộng hòa
Pháp về các chế độ tài sản của vợ chồng không phải chỉ quan tâm đến lợi
ích của các bên vợ, chồng, mà trái lại, luôn đề cao những trật tự của
gia đình. Điều đó thể hiện thông qua việc nhà làm luật thiết lập hệ
thống những quy định, theo đó, tất cả những thỏa thuận của vợ chồng về
tài sản phải tuân theo. Trong các điều 1388 và 1389 của BLDS, nhà lập
pháp đã quy định rằng : vợ chồng không thể thỏa thuận phá bỏ những quy
định về các nghĩa vụ và quyền của họ (phát sinh từ việc kết hôn), về
nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con, về quản lý theo pháp luật, về giám
hộ, cũng như về trật tự thừa kế. Về nguyên tắc, những điều khoản của hôn
ước trái với những quy định này sẽ bị tuyên bố vô hiệu.
Những thỏa thuận của vợ chồng về chế độ tài sản chịu
sự điều chỉnh trực tiếp nhất bởi các quy định về nghĩa vụ và quyền của
họ. Tại các điều từ 212 đến 226, BLDS đã quy định những nghĩa vụ và
quyền riêng biệt của vợ và chồng với một tinh thần chung nhất là : vợ
chồng cùng nhau đảm bảo điều hành gia đình về tinh thần và vật chất,
chăm lo việc dạy dỗ con cái và chuẩn bị tương lai của chúng (điều 213).
Đặc biệt, các điều từ 214 đến 226 tập hợp nên một chế định pháp lý mà
học thuyết của Pháp gọi là chế độ cơ sở của các chế độ tài sản của vợ chồng
(Le régime primaire hoặc Le statut de base). Đây là những quy định về
các quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng nhằm đáp ứng nhu cầu của
cuộc sống gia đình. Đó là những vấn đề : đóng góp vào việc chi tiêu của
gia đình ; bảo vệ chỗ ở của gia đình ; quyền tự chủ của mỗi bên vợ,
chồng thực hiện các giao dịch vì nhu cầu của gia đình và trách nhiệm
liên đới của bên kia, quyền tự chủ về nghề nghiệp, về việc sử dụng tài
khoản (ngân hàng và chứng khoán) ; quyền một mình thực hiện giao dịch
thông qua cơ chế đại diện hoặc cho phép của Tòa án…Theo quy định của
điều 226, các quy định trên có hiệu lực áp dụng đối với tất cả các quan
hệ vợ chồng, bất kể họ lựa chọn chế độ hôn sản nào. Trong bối cảnh thừa
nhận nhiều chế độ tài sản của vợ chồng, chế độ cơ sở giữ vai trò chủ
đạo, nhất là đối với các chế độ hôn sản ước định, nhằm đảm bảo những
điều kiện vật chất cho sự ổn định của cuộc sống gia đình. Do có tầm quan
trọng như vậy, tất cả các nghiên cứu về các chế độ tài sản của vợ chồng
theo luật của Pháp đều bắt đầu từ chế độ cơ sở này.
Như vậy, sự tổ chức các chế độ tài sản của vợ chồng
trong luật của Cộng hòa Pháp dựa trên nguyên tắc tôn trọng quyền tự do
thỏa thuận của vợ chồng nhưng không tách rời nghĩa vụ của họ đối với đời
sống chung của gia đình. Điều đó tạo điều kiện cho vợ, chồng có thể
thực hiện những quan hệ tài sản phù hợp với tình hình kinh tế của bản
thân, mang lại lợi ích cho gia đình và cá nhân mỗi bên vợ chồng. Trong
thực tế, mặc dù số lượng các cặp vợ chồng lập hôn ước chiếm tỉ lệ rất
thấp (khoảng 20%), nhưng các chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng
vẫn luôn tồn tại cùng với quan niệm về quyền tự do cá nhân và vì sự cần
thiết của nó trong những trường hợp nhất định.
1.2.3. Những chế độ tài sản được dự liệu và những ưu, nhược điểm của nó
a. Chế độ cộng đồng đối với động sản và những tạo sản
Chế độ tài sản này xác định cộng đồng tài sản gồm
những động sản mà mỗi bên có trước khi kết hôn và những tài sản mà vợ
chồng có được trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên, những động sản mà cần
xác định là tài sản riêng do bản chất của nó theo quy định của điều 1404
BLDS và những tài sản mà vợ chồng được tặng cho riêng, được thừa kế
riêng (do ý chí rõ ràng của người tặng cho, người để lại tài sản thừa
kế) vẫn thuộc tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng.
Phần nợ của cộng đồng tài sản gồm phần nợ của mỗi bên
vợ chồng có trước khi kết hôn (theo tỉ lệ động sản đã đưa vào trong
phần có của cộng đồng tài sản) và những khoản nợ phát sinh trong thời kỳ
hôn nhân (gồm cả những khoản nợ liên quan đến tài sản mà cộng đồng có
được do vợ chồng được tặng cho hoặc được thừa kế).
Việc thực hiện chế độ tài sản này khá phức tạp. Nếu
vợ chồng không có những thỏa thuận khác, họ phải tuân theo những quy
định về quản lý tài sản và thanh toán tài sản được dự liệu trong chế độ
hôn sản pháp định. Vì thế, đây là một chế độ tài sản không được khuyên
dùng (không phải chỉ riêng ở Pháp), bởi tính phức tạp của nó, trong khi
sự thỏa thuận của vợ chồng về tài sản thường hướng tới một sự đơn giản.
b. Chế độ cộng đồng toàn sản
Chế độ cộng đồng toàn sản xác định tất cả các
tài sản mà vợ chồng có trước và sau khi kết hôn đều thuộc sở hữu chung,
trừ những tài sản riêng do bản chất của nó theo quy định của điều 1404
BLDS. Tuy nhiên, vợ chồng có thể thỏa thuận những tài sản này thuộc về
cộng đồng tài sản. Phần nợ của cộng đồng tài sản bao gồm tất cả những
khoản nợ phát sinh trước và sau khi kết hôn.
Chế độ cộng đồng toàn sản có ưu điểm là tính đơn giản
trong việc xác định tính chất của tài sản cũng như những khoản nợ và
mang đậm tính cộng đồng trong gia đình. Thực tiễn đã phản ánh rằng, khi
thay đổi chế độ tài sản, chế độ cộng đồng toàn sản đứng ở vị trí thứ hai
trong số những chế độ được lựa chọn thường xuyên (sau chế độ tách riêng
tài sản)[8]. Chế độ này cũng thường được lựa chọn bởi những vợ chồng
cao tuổi, không có con và được kết hợp với một điều khoản về trao toàn
bộ cộng đồng tài sản cho người vợ (chồng) còn sống. Tuy nhiên, cũng
giống như chế độ cộng đồng động sản, nếu vợ chồng không dự liệu những
quy định riêng về quản lý tài sản và thanh toán tài sản, họ sẽ phải tuân
theo những quy định của chế độ hôn sản pháp định, và trong trường hợp
đó, thậm chí, vợ chồng có ít hơn những sự chủ động cần thiết về tài sản,
vì hầu như họ không có tài sản riêng. Vì thế, đây không phải là sự lựa
chọn hợp lý cho những vợ chồng trẻ.
c. Chế độ tài sản riêng biệt
Khác với những hình thức của chế độ cộng đồng tài
sản, chế độ tài sản riêng biệt xác định vợ chồng không có tài sản chung.
Chỉ có sự tồn tài của hai khối tài sản riêng của mỗi bên. Tuy nhiên,
đối với phần nợ, ngoài những khoản nợ riêng của mỗi bên vợ chồng, còn có
những khoản nợ chung phát sinh từ cuộc sống chung của gia đình.
Đây là chế độ tài sản mà sự vận hành của nó là đơn
giản nhất. Mỗi bên vợ chồng tự do quản lý và định đoạt các tài sản, thu
nhập sau khi thực hiện nghĩa vụ đóng góp đối với đời sống chung. Chế độ
tài sản riêng biệt trao cho vợ, chồng khả năng tự chủ rất cao về tài
sản, là một sự lựa chọn hợp lý nhất cho những cặp vợ chồng có nhiều tài
sản riêng mà họ đều có khả năng quản lý hoặc những vợ chồng tiến hành
các công việc sản xuất, kinh doanh mà họ cần tránh những rủi ro có thể
xảy ra đối với gia đình do những thất bại của việc kinh doanh.
Tuy nhiên, chế độ tách riêng tài sản cũng bộc lộ
nhiều hạn chế. Nó bị đánh giá là chế độ « ích kỷ » nhất, vì thực chất đó
là cơ chế bảo toàn tài sản của cá nhân. Do vậy, chế độ này không nên
được áp dụng trong những trường hợp mà chỉ có một bên vợ (chồng) tham
gia vào các hoạt động kiếm lợi ích, còn bên kia chỉ làm việc ở nhà. Khi
chấm dứt chế độ tài sản, người không trực tiếp tạo ra lợi tức sẽ chịu
nhiều bất lợi, mặc dù đã được tính toán đền bù công sức đóng góp.
d. Chế độ đóng góp các tạo sản
Chế độ đóng góp các tạo sản còn có tên gọi là chế độ
hỗn hợp. Trong thời kỳ hôn nhân, chế độ này được vận hành như chế độ
tách riêng tài sản, nhưng khi giải thể chế độ tài sản, các tạo sản sẽ
được giải quyết như chế độ cộng đồng, tức là mỗi bên sẽ được nhận một
nửa giá trị của những tạo sản trong gia sản của người kia.
Chế độ này vừa tích lũy được những ưu điểm của chế độ
tách riêng tài sản vừa phần nào khắc phục được những nhược điểm « ích
kỷ » của nó. Thực tế, chế độ đóng góp các tạo sản đang được đánh giá cao ở nhiều nước, mà bằng
chứng là nó đã trở thành chế độ tài sản pháp định (ở Na Uy, Thụy Điển,
Đan Mạch, Phần Lan, Đức, Áo và Thụy Sĩ). Ở Pháp, chế độ tài sản này được
các học thuyết ca ngợi là có nhiều ưu điểm nhưng lại ít được sử dụng
trong thực tế[9].
Tóm lại, không có một chế độ tài sản nào được coi là
hoàn thiện cho tất cả các quan hệ vợ chồng, mà chỉ có chế độ tài sản
thích hợp với hoàn cảnh của cặp vợ chồng nào đó mà thôi. Trong những
trường hợp thấy cần lập hôn ước, với sự trợ giúp của công chứng viên,
các bên kết hôn sẽ phải cân nhắc để quyết định một chế độ tài sản áp
dụng và đưa vào trong đó những điều khoản cần thiết để điều chỉnh các
quan hệ tài sản trong thời kỳ hôn nhân.
2. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật Việt Nam
2.1. Thời kỳ trước 1975
Trong thời kỳ pháp thuộc, luật pháp về dân sự ở Việt
Nam mang đậm dấu ấn của Bộ luật dân sự Napoléon. Trong ba bộ dân luật
được áp dụng ở ba miền bắc, trung, nam, Bộ dân luật bắc và Bộ dân luật
trung đã ghi chép những nguyên tắc cơ bản của BLDS Pháp như : quyền tự
do lập hôn ước và tính chất không thay đổi của chế độ hôn sản. Khác với
BLDS Pháp, hai Bộ dân luật này chỉ dự liệu một chế độ chung để áp dụng
cho những vợ chồng không lập hôn ước, mà không đề xuất những chế độ để
vợ chồng có thể thỏa thuận lựa chọn[10]. Thực tế, những quy định này đã
được thực hiện ở Việt Nam trong khoảng 20 năm.
Trong giai đoạn đất nước bị chia cắt thành hai miền
Nam-Bắc, pháp luật về vấn đề này ở hai miền thể hiện những nội dung trái
chiều. Luật hôn nhân và gia đình (HN-GĐ) ngày 29 tháng 12 năm 1959 ở
Miền bắc chỉ quy định về một hình thức của chế độ tài sản pháp định (chế
độ cộng đồng toàn sản), và vì thế, không có một quy định nào về quyền
lập hôn ước của vợ chồng. Trong khi đó, ở Miền nam, ba đạo luật đã được
lần lượt ban hành để điều chỉnh các quan hệ dân sự, gia đình (Luật gia
đình ngày 02 tháng 1 năm 1959, Luật 15/64 ngày 23 tháng 7 năm 1964 và Bộ
dân luật ngày 20 tháng 12 năm 1972), đều thừa nhận quyền tự do lập hôn
ước của vợ chồng và chế độ tài sản chung theo luật định chỉ được áp dụng
khi vợ chồng không lập hôn ước. Chẳng hạn, Bộ dân luật năm 1972 quy
định : « Vợ chồng có thể tự do lập hôn ước tùy ý muốn, miễn không trái
với trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục » (Điều 145) và « Luật pháp
chỉ quy định chế độ phu phụ tài sản khi vợ chồng không lập hôn ước »
(Điều 144).
2.2. Thời kỳ đất nước thống nhất
Luật HN-GĐ năm 1986 và Luật HN-GĐ năm 2000 đều
chỉ tập trung quy định về một chế độ tài sản pháp định. Nhà lập pháp
không dự liệu bất kỳ một điều khoản nào cho phép vợ chồng lập hôn ước,
nhưng cũng không ấn định những quy định cấm. Trong bối cảnh đó, nhìn
chung, giới luật gia và những người áp dụng pháp luật đều cho rằng chế
độ hôn sản pháp định có hiệu lực áp dụng đối với tất cả các quan hệ hôn
nhân hợp pháp, do vậy, mọi thỏa thuận của vợ chồng trái với các quy định
của chế độ hôn sản pháp định cần bị tuyên bố là vô hiệu khi có tranh
chấp xảy ra.
Tuy nhiên, trong trường hợp xảy ra sự kiện chia tài
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, Nghị định số 70 của Chính
phủ ngày 03 tháng 10 năm 2001 quy định chi tiết thi hành Luật HN-GĐ năm
2000 đã đem đến một yếu tố mới, mà chúng ta thấy có khả năng xuất hiện
một chế độ tài sản của vợ chồng khác với chế độ pháp định.
Khoản 2 điều 8 quy định : « Thu nhập do lao động,
hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi
bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ
trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác ». Mặt khác, các quy định ở điều 9
và điều 10 về « khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng » đòi hỏi
vợ chồng đã chia tài sản chung mà sau đó muốn khôi phục lại chế độ tài
sản chung thì phải lập thành văn bản có người làm chứng hoặc được công
chứng, chứng thực.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân có thể xảy ra theo hai trường hợp : chia một phần hoặc chia
toàn bộ. Có lẽ, các quy định kể trên nhằm vào trường hợp thứ hai. Các
quy định này đã bị chỉ trích mạnh mẽ bởi nhiều chuyên gia về Luật hôn
nhân và gia đình vì cho rằng chúng mâu thuẫn với điều 27 Luật HN-GĐ năm
2000[11]. Ở đây chúng tôi không phân tích sự mâu thuẫn hay không của các
quy định mà chỉ đề cập đến ý tưởng của những người soạn thảo văn bản
quy phạm pháp luật. Thực tế, Bộ Tư pháp là đơn vị chủ trì soạn thảo Luật
HN-GĐ năm 2000, và cũng chính cơ quan này tiếp tục các công việc đối
với Nghị định số 70 để hướng dẫn thi hành Luật. Các quy định ở khoản 2
điều 8 và điều 9, 10 thể hiện sự lôgíc của một ý tưởng mới về những quan
hệ tài sản giữa vợ và chồng theo thỏa thuận. Vậy thì chúng ta có thể
đưa ra một giả thuyết rằng, chính người soạn thảo văn bản Luật đã muốn
có một sự mềm dẻo trong việc thừa nhận chế độ hôn sản theo thỏa thuận
của vợ chồng trong những trường hợp cần thiết. Nếu giả thuyết này đúng,
thì đây quả thực sẽ là một bước đệm quan trọng cho việc thiết lập những
quy định về hôn ước trong Luật HN-GĐ tương lai. Mặt khác, vì Nghị định
70 vẫn đang có hiệu lực, chắc chắn, sau khi chia hết tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có thể thực hiện một chế độ tách riêng tài
sản. Tuy nhiên, trong trường hợp này, việc đóng góp của các bên vợ,
chồng vào đời sống chung của gia đình cần được các văn bản pháp luật dự
liệu cụ thể.
3. Kết luận
Qua nghiên cứu về chế độ tài sản của vợ chồng nói
chung và các chế độ tài sản ước định nói riêng trong pháp luật của nhiều
nước trên thế giới, chúng tôi thấy rằng, để xác định đuợc một cách thức
tổ chức hợp lý nhất các quan hệ tài sản của vợ chồng, Luật HN-GĐ Việt
Nam cần quan tâm xử lý hai vấn đề cơ bản sau :
Thứ nhất, nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận trong
các quan hệ dân sự, được ghi nhận trong Bộ luật dân sự, đảm bảo cho các
cá nhân có quyền tự do thỏa thuận để xác lập các quyền và nghĩa vụ, miễn
sao các thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và đạo đức
xã hội. Trong các quan hệ gia đình, vợ chồng có bổn phận, trách nhiệm
phải đảm bảo những điều kiện về tinh thần cũng như vật chất cho sự tồn
tại và phát triển của gia đình mình. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa
là tất cả các đôi vợ chồng đều cần phải thực hiện một chế độ tài sản
chung nhất. Quyền tài sản của vợ chồng là quyền gắn với nhân thân vợ
chồng, vì vậy cần phải để cho chính họ cùng nhau thỏa thuận, quyết định
lựa chọn một hình thức thực hiện hợp lý, có lợi nhất cho bản thân và cho
gia đình. Mặt khác, để bảo vệ lợi ích của gia đình, của con cái, Luật
HN-GĐ cần tập trung quy định một cách rõ ràng hơn những những nghĩa vụ
và quyền về tài sản của vợ và chồng – áp dụng chung nhất cho mọi trường
hợp, đồng thời phải đi kèm với những biện pháp đảm bảo thực hiện. Trong
bối cảnh luật pháp như vậy, sự tự do thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ
chồng sẽ không phá vỡ tính cộng đồng của hôn nhân, mà trái lại, nó sẽ
củng cố những quan hệ gia đình một cách thực chất và theo tinh thần tự
nguyện hơn.
Thứ hai, thực tế kinh tế-xã hội Việt Nam hiện nay đã
có rất nhiều thay đổi so với thời kỳ những năm 80-90. Gia đình không còn
bó hẹp với chức năng duy trì cuộc sống của các thành viên, mà thực sự
đã tham gia tích cực vào nền kinh tế xã hội. Những quan hệ kinh tế đòi
hỏi vợ, chồng phải có những quyết định nhanh nhạy, nhưng muốn vậy họ
phải chủ động về tài sản. Chúng tôi cho rằng, Luật HN-GĐ hiện hành chưa
theo kịp diễn biến của những quan hệ kinh tế, dân sự hiện nay. Nếu vợ,
chồng thực hiện đúng theo quy định pháp luật, trong nhiều trường hợp, họ
sẽ bỏ lỡ những cơ hội làm ăn.
Mặt khác, việc đưa những tài sản chung của vợ chồng
vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng hàm chứa những rủi ro và có
thể dẫn đến nguy cơ tiêu tán tài sản của gia đình, đặt cuộc sống gia
đình vào trong tình trạng bấp bênh. Vì thế, ở những nước mà luật pháp
thừa nhận chế độ hôn sản ước định, những người vợ, chồng làm nghề kinh
doanh thường nghĩ đến một chế độ tách riêng tài sản. Chế độ đó vừa tạo
điều kiện cho họ chủ động trong hoạt động kinh doanh, vừa tránh được
những rủi ro có thể xảy đến cho cuộc sống gia đình.
Tóm lại, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận
không phải là một điều mới lạ đối với xã hội Việt Nam, thậm chí nó đã
từng được thực hiện trong một thời gian khá dài (nhất là ở Miền nam).
Thực chất, việc duy trì duy nhất một chế độ tài sản của vợ chồng, cho
đến nay, phản ánh sự thắng thế của một quan điểm lập pháp, chứ không
phải hoàn toàn xuất phát từ thực tiễn kinh tế-xã hội. Chúng tôi không
phủ nhận sự phù hợp của chế độ cộng đồng tạo sản mà mà Luật HN-GĐ đang
thực hiện, nhưng sự áp đặt của chế độ này cho mọi quan hệ vợ chồng thì
không thể được coi là hợp lý. Hơn nữa, xã hội Việt Nam, thực ra, không
quá khác so với môi trường các nước trên thế giới, đến mức mà chúng ta
phải có một cách tổ chức các quan hệ tài sản của vợ chồng, theo cách
riêng biệt đến như vậy. Do đó, cũng như quan điểm của nhiều chuyên gia
trong lĩnh vực Luật HN-GĐ[12], chúng tôi cho rằng pháp luật về HN-GĐ
Việt Nam cần thay đổi lại phương thức tổ chức các chế độ tài sản của vợ
chồng, theo hướng thừa nhận quyền tự do của vợ chồng trong việc chọn chế
độ tài sản áp dụng.
[1] Xem: Bùi Tường Chiểu, Dân luật, Cuốn II, 1975 ;
Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nhà xuât bản Tư pháp, 2008 ;
Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học Luật hôn
nhân và gia đình Việt Nam, tập II, Các quan hệ tài sản giữa vợ chồng,
Nhà xuất bản trẻ, 2004.
[2] Jean PATARIN và Imre ZAJTAY, Chế độ tài sản
của vợ chồng trong những pháp luật đương đại, 1974, page 20-21. Cuốn
sách này tập hợp 40 bài viết của các tác giả đến từ 40 nước, đại diện
cho các châu lục, về chế độ tài sản của vợ chồng.
[3] Anita GRANDKE và Klauspeter ORTH, Chế độ tài
sản của vợ chồng trong luật của Cộng hòa dân chủ Đức – Chế độ tài sản
của vợ chồng trong những luật pháp đương đại, đã dẫn, trang 99.
[4] Andrea Bonomi và Marco Steiner, Những chế độ
tài sản của vợ chồng trong luật so sánh và trong luật tư pháp quốc tế,
Geneve 2006. Tuy nhiên, những nghiên cứu so sánh này chỉ giới hạn trong
phạm vi hẹp ở pháp luật của một vài nước Châu âu, Canada, Mỹ và một số
nước hồi giáo.
[5] Theo quy định của Điều 1395 Bộ luật Napoléon,
sau khi kết hôn, vợ chồng không thể thỏa thuận để thay đổi chế độ tài
sản mà họ đã lựa chọn khi kết hôn. Quy định này nhằm đảm bảo tính ổn
định của gia đình và đồng thời bảo vệ quyền lợi cho người thứ ba.
[6] Thực tiễn nghiên cứu về chế độ tài sản của vợ
chồng đã phản ánh những cách gọi khác nhau về thuật ngữ này. Ở đây,
chúng tôi chỉ muốn nêu lên bản chất của thỏa thuận về chế độ tai sản của
vợ chồng mà không đề cập đến góc độ ngữ nghĩa của nó.
[7] Trước đó, các chế độ tài sản của vợ chồng
được thực hiện khác nhau ở Pháp. Những vùng theo truyền thống tập quán
pháp áp dụng chế độ cộng đồng về động sản và tạo sản. Những vùng theo
truyền thống luật thành văn áp dụng chế độ hồi môn-gần giống với chế độ
tách riêng tài sản.
[8] André Colomer, Các chế độ tài sản của vợ chồng, NXB Litec 1995, số 1094.
[9] Jean Champion, Hôn ước và các chế độ tài sản, NXB DELMAS 2007, số 126.
[10] Bùi Tường Chiểu, đã dẫn, trang 165.
[11] Nguyễn Phương Lan, Hậu quả pháp lý của việc
chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, Tạp chí Luật học
số 6 năm 2002, trang 22 ; Bùi Thị Mừng, Chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân để một bên đầu tư kinh doanh –Trong đề tài khoa
học « Tài sản của vợ chồng trong các hoạt động sản xuất kinh doanh » của
tổ bộ môn Luật hôn nhân và gia đình, năm 2007.
[12] Ngô Thị Hường, Tổng thuật đề tài khoa học, đã trích dẫn, trang 36-37 ;
Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân va gia đình Việt Nam, đã dẫn, trang 253-254.
SOURCE: TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 11 (114) NĂM 2009 (ĐÂY LÀ BẢN GỐC CÓ MỘT SỐ ĐIỂM KHÁC BIỆT SO VỚI BẢN ĐƯỢC BIÊN TẬP LẠI KHI ĐĂNG TRÊN TẠP CHÍ LUẬT HỌC)
0 comments:
Post a Comment