TS. NGUYỄN NGỌC ĐIỆN – Khoa Luật, Đại học Cần Thơ
Quyền tài sản là động
sản hay bất động sản? Quyền tài sản có phải chỉ là quyền định giá được
bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao lưu dân sự? Câu hỏi dường như
đơn giản, nhưng khi đề cập đến quyền sử dụng đất có phải là bất động
sản hay không thì vấn đề lại khó có câu trả lời thoả đáng. Bài viết dưới
đây sẽ phân tích các nội dung liên quan đến khái niệm “quyền tài sản”
trong pháp luật nước ngoài và nêu lên những hạn chế trong nội dung khái
niệm “quyền tài sản” trong luật dân sự nước ta, nhằm hoàn thiện nội dung
khái niệm này trong quá trình sửa đổi Bộ luật Dân sự (Tác giả viết bài này theo tinh thần của BLDS năm 1995 – Civillawinfor).
Theo BLDS (Điều 188), quyền tài sản là quyền định giá
được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao lưu dân sự, kể cả quyền
sở hữu trí tuệ. Trước đó, Điều 172 quy định rằng quyền tài sản là một
loại tài sản, được đặt bên cạnh tiền và phân biệt với vật có thực (được
hiểu là vật hữu hình). Trong quá trình sửa đổi BLDS, các điều luật này
hầu như được giữ nguyên; riêng định nghĩa quyền tài sản có lẽ sẽ được
sửa lại đôi chút: sau này, chỉ cần quyền tài sản định giá được bằng tiền
chứ không nhất thiết phải chuyển giao được trong giao lưu dân sự. Dẫu
sao, sự sửa đổi ấy không ảnh hưởng đến việc sử dụng khái niệm quyền tài
sản như một công cụ phân loại tài sản. Và với chức năng của một công cụ
phân loại tài sản, khái niệm quyền tài sản trong luật dân sự Việt Nam có
thể sẽ tiếp tục là cái gì đó rất lạ trong mắt các nhà luật học nước
ngoài.
Điều chắn chắn: quyền tài sản trong luật thực định
không phải là sự kế thừa và phát huy các giá trị của cổ luật Việt Nam.
Đó là một khái niệm có nguồn gốc từ luật học nước ngoài và được vận dụng
vào luật Việt Nam trong quá trình xây dựng pháp luật dân sự, nhưng lại
bị gán cho nội hàm khác.
Quyền tài sản trong pháp luật nước ngoài
Là một loại quyền chủ thể
Khái niệm quyền tài sản được xây dựng trong khuôn khổ
chế định quyền chủ thể, chế định được coi là xương sống của hệ thống
luật tư ở các nước theo văn hoá pháp lý Rô măng – Giéc manh. Quyền chủ
thể được hiểu là việc hạn chế quyền tự do của những người khác theo quy
định của pháp luật, vì lợi ích của chủ thể quan hệ pháp luật trong việc
thực hiện các quyền được thừa nhận trong một lĩnh vực nào đó. Chẳng hạn,
quyền sở hữu đối với một tài sản sinh lợi là quyền của chủ sở hữu được
độc quyền sử dụng tài sản, thu hoa lợi từ tài sản và định đoạt tài sản;
tất cả mọi người phải tôn trọng quyền đó và mọi hành vi xâm phạm quyền
đó đều có thể bị chế tài theo quy định của pháp luật. Quyền đối với họ,
tên là quyền của một chủ thể quan hệ pháp luật được mang họ và tên, được
hưởng sự bảo vệ của pháp luật đối với sự toàn vẹn của họ và tên, chống
lại sự xúc phạm họ, tên, sự chiếm đoạt họ, tên.
Xét theo tiêu chí giá trị tài sản của quyền, thì
quyền chủ thể được phân thành hai loại: quyền không định giá được bằng
tiền, gọi là quyền nhân thân, và quyền định giá được bằng tiền, gọi là
quyền tài sản. Trên nguyên tắc, quyền tài sản có thể chuyển giao được
trong giao lưu dân sự và do đó, là sự bảo đảm đối với các nghĩa vụ tài
sản mà người có quyền xác lập. Cá biệt, có những quyền có giá trị tài
sản, nhưng lại gắn liền với nhân thân, bởi vậy, không thể được chuyển
giao và không thể được kê biên. Ví dụ điển hình là quyền yêu cầu cấp
dưỡng.
Quyền tài sản như một khái niệm pháp lý
Quyền tài sản là một cách nhìn nhận tài sản như một
khái niệm pháp lý. ở góc độ pháp luật tài sản, quyền và vật được đặt đối
lập với nhau, không để phân ra hai loại tài sản khác nhau, mà đưa ra
hai cách hình dung khác nhau về tài sản, hai cách tiếp cận khác nhau đối
với tài sản. Về mặt pháp lý, tài sản có thể được nhận biết như là một
vật hoặc một quyền. Việc phân loại tài sản chỉ được thực hiện sau khi
việc lựa chọn cách tiếp cận – vật hay quyền – đã ngã ngũ. Tài sản được
phân loại theo những cách khác nhau tuỳ theo nó được hiểu là vật hay
quyền.
- Là vật, tài sản được phân loại theo tiêu chí vật
lý: vật có thể nhận biết được bằng giác quan tiếp xúc gọi là vật hữu
hình; trong trường hợp ngược lại ta có vật vô hình.
- Là quyền, tài sản cũng được phân loại theo tiêu chí
vật lý, nhưng cách thiết lập tiêu chí vật lý mang tính đặc thù. Các
quyền được thực hiện trực tiếp trên một vật hữu hình mà không cần sự hỗ
trợ của một người nào khác gọi là quyền đối vật, mà tiêu biểu nhất là
quyền sở hữu. Các quyền được thực hiện chống lại một người gọi là quyền
đối nhân; quyền chủ nợ là quyền đối nhân điển hình. Có trường hợp quyền
không được thực hiện trực tiếp trên một vật, cũng không chống lại một
người nào, mà tồn tại theo quy định của pháp luật, được gọi là quyền vô
hình hay quyền vô hình tuyệt đối; quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ là
ví dụ.
Quyền và vật
Quyền là vật và ngược lại, vật là quyền. Theo cách
nhìn nhận có nguồn gốc từ La Mã cổ đại, quyền sở hữu và vật hữu hình
được sử dụng như những cụm từ đồng nghĩa. Cách tiếp cận khái niệm tài
sản bằng công cụ “vật” hay “quyền” cùng với cách xây dựng nội hàm của
các khái niệm vật hữu hình và quyền sở hữu theo kiểu La Mã cổ đại kết
hợp với phương pháp phân loại tài sản kinh điển dựa trên sự phân biệt
giữa động sản và bất động sản tạo ra khả năng hình dung các loại tài sản
đa dạng.
Vật động sản và vật bất động sản
Cả vật bất động sản và vật động sản đều có thể là vật
hữu hình và vật vô hình. Với quan niệm tài sản là vật, thì quyền sở hữu
còn được hiểu là vật hữu hình; các quyền khác là vật vô hình. Một trong
những ví dụ điển hình về vật vô hình mang tính chất bất động sản là
quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề hay còn gọi là quyền địa dịch
(servitude).
Quyền bất động sản và quyền động sản
Tất cả các quyền bất động sản đều có đối tượng là một
vật hữu hình, đúng hơn, là một bất động sản hữu hình; các quyền động
sản có thể có đối tượng là một động sản hữu hình (quyền sở hữu), một
công trình của tim óc (quyền sở hữu trí tuệ) hoặc một hoạt động làm hay
không làm một việc của một người khác (quyền chủ nợ).
Các giải pháp liên quan đến việc thực hiện quyền đối vật
Có đặc điểm là quan hệ trực tiếp giữa người có quyền
đối với vật, quyền đối vật được bảo đảm thực hiện bằng hai công cụ
chính: quyền đeo đuổi và quyền ưu tiên.
- Quyền đeo đuổi: Người có quyền đối vật được phép
thực hiện quyền của mình trên vật bất kể vật đang nằm trong tay ai. Do
quyền đeo đuổi này mà ta nói rằng, quyền đối vật đối kháng với người thứ
ba.
- Quyền ưu tiên: Người có quyền đối vật được ưu tiên
thực hiện quyền của mình trên vật trước tất cả những người khác. Trong
trường hợp nhiều người có quyền đối vật cùng loại trên cùng một tài sản,
thì người có quyền đối vật được xác lập trước có quyền ưu tiên so với
những người có quyền đối vật được xác lập sau.
Để quyền đeo đuổi và quyền ưu tiên được thực hiện một
cách có hiệu quả, hệ thống đăng ký tài sản được thiết lập để thông tin
về các quyền đối với tài sản cho người thứ ba.
Quyền tài sản trong luật Việt Nam
Khái niệm
Quyền tài sản là một loại tài sản. Khác với luật
Latinh, luật Việt Nam không coi quyền và vật như là những cách quan niệm
khác nhau, cách hình dung khác nhau về tài sản, mà coi đây là các loại
tài sản khác nhau.
Quyền tài sản trong luật thực định Việt Nam được xây
dựng như một khái niệm đối lập với vật trong hệ thống phân loại cơ bản.
Có vẻ như trong suy nghĩ của những người soạn thảo các điều luật liên
quan, vật, với tư cách là một tài sản, phải được hiểu là vật hữu hình,
nghĩa là có thể nhận biết bằng giác quan tiếp xúc. Thế thì, đối lập với
vật hữu hình, quyền tài sản được hiểu là các vật vô hình.
Vật hữu hình chỉ được coi là tài sản nếu nó có thể
được sở hữu. Bởi vậy, khi đặt vật đối lập với quyền, người làm luật Việt
Nam có vẻ như chấp nhận cách làm của người La Mã, coi vật hữu hình và
quyền sở hữu là những cụm từ đồng nghĩa. Nói khác đi, quyền tài sản
trong luật thực định Việt Nam được hiểu là quan hệ pháp luật khác với
quan hệ sở hữu mà trên cơ sở quan hệ khác đó, một lợi ích định giá được
bằng tiền hình thành và thuộc về một chủ thể của quan hệ đó.
Hệ quả của khái niệm
Hệ quả chung
Không có khái niệm bất động sản vô hình
Khi kết hợp cách phân loại giữa vật và quyền với cách
phân loại giữa bất động sản và động sản, luật Việt Nam lại không tạo ra
khái niệm quyền tài sản mang tính chất bất động sản. Nếu ta thừa nhận
rằng việc phân loại giữa động sản và bất động sản áp dụng đối với tất cả
các loại tài sản, thì quyền tài sản trong luật Việt Nam đều là động
sản, do không có quyền tài sản nào được ghi nhận trong danh sách bất
động sản. Hình như, trong suy nghĩ của những người soạn thảo BLDS, chỉ
vật mới là động sản hay bất động sản; quyền không phải là vật, bởi vậy,
không thể đặt vấn đề liệu quyền là động sản hay bất động sản.
Vấn đề trở nên tế nhị đối với quyền sử dụng đất. Luật
sở hữu tư nhân về bất động sản trong luật Việt Nam hiện hành được xây
dựng dựa trên quyền sử dụng đất chứ không phải quyền sở hữu đất. Trong
luật Việt Nam hiện hành, quyền sử dụng đất, về phương diện thực hiện
quyền, hoá thân vào chính đối tượng của nó, tức là một phần đất. Đặc
biệt, để xây dựng chế độ pháp lý về quyền sử dụng đất trong quan hệ láng
giềng, luật dân sự Việt Nam đối xử với người sử dụng đất theo cùng một
cách như luật dân sự Pháp đối với người chủ sở hữu đất. Cụ thể, quyền sử
dụng đất trong luật Việt Nam cũng được giới hạn trong không gian bằng
kỹ thuật cắm cọc mốc hoặc dựng hàng rào; người có quyền sử dụng đất có
các quyền và nghĩa vụ láng giềng, như quyền thoát nước mưa, nước thải;
phần đất đối tượng của quyền sử dụng đất có thể phải chấp nhận quyền sử
dụng hạn chế bất động sản liền kề được thừa nhận cho phần đất lân cận
trong những trường hợp do pháp luật quy định. Nói chung, việc nghiên cứu
chế độ pháp lý về quyền sử dụng đất trong quan hệ láng giềng theo luật
Việt Nam có thể được thực hiện theo một đề cương tương tự như đề cương
kinh điển được chấp nhận trong luật của Pháp để tìm hiểu về quyền sở hữu
đất trong quan hệ láng giềng. Tính chất bất động sản của quyền sử dụng
đất là rất rõ ràng; nhưng luật hiện hành lại không (đúng ra là không
thể) ghi nhận quyền sử dụng đất trong danh sách bất động sản.
Không có khái niệm quyền đối vật
Cũng do đặt quyền tài sản đối lập với vật mà luật
Việt Nam cũng không có điều kiện tiếp nhận và vận dụng các khái niệm
quyền đối vật và quyền đối nhân trong luật Latinh. Nói rõ hơn, Việt Nam
không xây dựng khái niệm quyền thực hiện trực tiếp trên vật: quyền trong
luật Việt Nam được hiểu là một mối quan hệ giữa một chủ thể và một hoặc
nhiều chủ thể khác mà trong đó một chủ thể được hưởng một lợi ích (có
hoặc không có tính chất tài sản) và các chủ thể khác phải tôn trọng sự
thụ hưởng đó. Đặc biệt, việc hoàn thiện một số quyền tài sản có tính
chất của quyền đối vật trong luật Latinh, trong điều kiện quyền đối vật
không tồn tại trong luật Việt Nam, đã được thực hiện theo một cách rất
riêng và trở nên không dễ tiếp cận bằng các phương pháp kinh điển. Ví dụ
điển hình là quyền thế chấp tài sản.
Trường hợp thế chấp tài sản
Trong luật nước ngoài
Việc thế chấp có tác dụng tạo ra một tình trạng pháp
lý đặc trưng bằng hai quyền được thừa nhận cho chủ nợ nhận thế chấp, mà
ta đã biết, là quyền đeo đuổi và quyền ưu tiên. Chủ nợ nhận thế chấp có
quyền thực hiện quyền của mình đối với vật thế chấp, trong trường hợp nợ
được bảo đảm bằng thế chấp không được trả đủ, mà không cần biết tài sản
thuộc về ai. Nếu có nhiều chủ nợ nhận thế chấp, thì chủ nợ đăng ký
trước có quyền ưu tiên so với chủ nợ đăng ký sau.
Do chủ nợ nhận thế chấp không cần bận tâm đến việc ai
là chủ sở hữu tài sản thế chấp mà tài sản thế chấp vẫn được chuyển
nhượng tự do. Cần nhấn mạnh rằng, trong điều kiện có hệ thống đăng ký,
thì khi chuyển nhượng, người chuyển nhượng không có nghĩa vụ thông báo
cho người nhận chuyển nhượng về sự tồn tại của các quyền đối vật có đối
tượng là tài sản liên quan: chính người nhận chuyển nhượng phải tham
khảo các thông tin tại cơ quan đăng ký bất động sản để biết rõ về các
quyền ấy và, trên cơ sở đó, quyết định chấp nhận hay không chấp nhận xác
lập giao dịch chuyển nhượng.
Người nhận chuyển nhượng tài sản thế chấp không phải
là người thế chấp mới, thậm chí, không phải là người thế chấp thay thế.
Đơn giản, người này nhận một tài sản ở trong tình trạng được dùng để bảo
đảm một nghĩa vụ nào đó và do vậy, phải tôn trọng quyền của chủ nợ được
bảo đảm bằng giá trị của tài sản đó.
Người nhận chuyển nhượng càng không phải là người bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ: nếu đã bán tài sản được thế chấp mà vẫn chưa
thu đủ số nợ phải trả, thì chủ nợ phải đi tìm những người có trách nhiệm
trả nợ mà đòi tiếp chứ không được đòi nợ ở người nhận chuyển nhượng.
Trong luật Việt Nam
Thế chấp được coi là giao dịch có tác dụng thiết lập
một quan hệ giữa hai bên lần lượt được gọi là bên thế chấp và bên nhận
thế chấp. Luật Việt Nam không thừa nhận tính chất đối vật của các quyền
của chủ nợ nhận thế chấp, tác dụng bảo đảm nghĩa vụ của biện pháp thế
chấp tài sản chỉ có thể được ghi nhận bằng việc áp đặt các nghĩa vụ của
người thế chấp đối với người nhận thế chấp trong mối quan hệ giữa họ mà
có đối tượng là tài sản thế chấp. Trong trường hợp tài sản được chuyển
nhượng cho người khác, thì tư cách bên thế chấp cũng được chuyển giao
cho người nhận chuyển nhượng và người này tiếp nhận các nghĩa vụ của
người thế chấp trong quan hệ với người nhận thế chấp, như một người bảo
lãnh đối với người thế chấp ban đầu trong việc thực hiện các nghĩa vụ mà
người thế chấp ban đầu xác lập và được bảo đảm bằng biện pháp thế chấp
đó (BLDS Điều 358).
Cần lưu ý rằng, trong khung cảnh của luật thực định
Việt Nam, việc chuyển nhượng tài sản thế chấp chỉ có thể được thực hiện
với sự đồng ý của người nhận thế chấp. Trong trường hợp chuyển nhượng
tài sản thế chấp mà không có sự đồng ý của người nhận thế chấp, người
thế chấp bị coi là có hành vi tẩu tán tài sản và có thể bị xử lý về hình
sự. Người thế chấp có nghĩa vụ thông tin để, một mặt, người nhận thế
chấp biết việc chuyển nhượng tài sản; mặt khác, người nhận chuyển nhượng
biết việc thế chấp tài sản; nếu không thực hiện nghĩa vụ thông tin ấy,
người thế chấp có thể bị coi là có hành vi lừa đảo. Có thể nhận thấy
ngay rằng, các nghĩa vụ này được được nghĩ ra trong quá trình giải quyết
vấn đề làm thế nào để công khai tình trạng pháp lý của một tài sản cho
người thứ ba trong điều kiện không có một phương tiện thông tin khách
quan, như hệ thống đăng ký tài sản. Thế nhưng, dù hệ thống đăng ký tài
sản đang hình thành ở Việt Nam, luật nước ta ta có vẻ vẫn không muốn từ
bỏ thái độ nghiêm khắc đối với người thế chấp tài sản tiến hành chuyển
nhượng tài sản mà không xin phép người nhận thế chấp và không thông tin
về tình trạng tài sản cho người nhận chuyển nhượng.
Nói tóm lại, trong điều kiện không thừa nhận tính
chất đối vật của các quyền của chủ nợ nhận thế chấp, luật Việt Nam coi
biện pháp thế chấp như một giao dịch có tác dụng hạn chế quyền sở hữu
của người thế chấp, đồng thời có tác dụng trói buộc chủ sở hữu tài sản
thế chấp vào quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm bằng biện pháp thế chấp.
Chính tác dụng thứ hai này khiến cho chế định thế chấp trong luật thực
định Việt Nam không giống và cũng không tỏ ra có họ hàng với bất kỳ chế
định thế chấp nào trong luật nước ngoài.
Xây dựng quyền tài sản như một đối trọng của quyền nhân thân
BLDS hiện hành có xây dựng khái niệm quyền nhân thân.
Theo đó, quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân,
không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác (BLDS Điều 26). Luật không khẳng định rằng các quyền nhân thân
không có giá trị tài sản. Thế nhưng, các quyền nhân thân cụ thể được
liệt kê ngay sau đó đều là các quyền mà trong luật Latinh được cho là có
tính chất phi tài sản (extra-patrimonial). Mặt khác, trong khung cảnh
của luật hiện hành, một quyền chỉ được coi là quyền tài sản, một khi nó
không chỉ định giá được bằng tiền mà còn phải chuyển giao được trong
giao lưu dân sự. Tất cả những điều đó cho phép kết luận rằng quyền tài
sản không phải là quyền nhân thân.
Nói chung, quyền có thể chuyển giao được cho người
khác không phải là quyền nhân thân. Thế nhưng các quyền này gọi chung là
gì? Trong luật của các nước Latinh, câu trả lời là “quyền tài sản”; còn
trong luật Việt Nam, quyền tài sản, do được hiểu theo một nghĩa rất
hẹp, không đủ sức đảm đương vai trò đối trọng của quyền nhân thân để trở
thành tên gọi chung của tất cả các quyền không phải là quyền nhân thân.
Thực ra, xây dựng các khái niệm đối xứng không phải
là việc bắt buộc đối với một hệ thống luật. Thế nhưng, việc lấy một
thuật ngữ, được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước như là cách diễn đạt một
trong những khái niệm chính của luật cơ bản, rồi gán cho nó một nội hàm
khác với nội hàm đã được chấp nhận ở các nước đó, để trở thành khái niệm
riêng của luật Việt Nam, có thể dẫn đến ngộ nhận, hiểu nhầm trong quá
trình giao lưu, hội nhập. Đấy là chưa kể đến việc do các thuật ngữ ấy
trở thành những khái niệm riêng của Việt Nam, việc hoàn thiện cơ sở khoa
học của khái niệm chỉ có thể là việc riêng của Việt Nam. Tất nhiên, nếu
đến một lúc nào đó, các nỗ lực hoàn thiện cơ sở khoa học của một khái
niệm đặc thù không đi đến đâu, thì người ta có thể trở lại với việc vận
dụng hợp lý các quan niệm đã được chấp nhận rộng rãi. Song, cho đến nay
việc xác định các lợi ích gắn liền với khái niệm Việt Nam về quyền tài
sản hầu như không tiến triển. Kinh nghiệm cho thấy rằng việc xây dựng
các chế định riêng trong luật của một nước đang phát triển thường được
lý giải bằng việc kế thừa, bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống
hoặc việc bảo vệ các lợi ích chính trị, kinh tế, văn hoá, đạo đức riêng
của nước đó. Chế định quyền tài sản trong luật thực định Việt Nam, như
đã nói, không phải do ràng buộc với truyền thống, với các giá trị của
luật học cổ. Cũng không có bằng chứng về mối quan hệ gắn bó giữa chế
định này và các lợi ích chính trị, kinh tế, văn hoá, đạo đức rõ ràng.
Tóm lại, nếu sớm từ bỏ quan niệm lập dị về quyền tài sản, thì sẽ không
bị mất nhiều thời gian một cách không cần thiết. /.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP SỐ 3 NĂM 2005
Trích dẫn từ: http://www.facebook.com/note.php?note_id=131950962258
0 comments:
Post a Comment