TÀI LIỆU (DỰ THẢO) CHÍNH THỨC TẠI HỘI NGHỊ TOÀN QUỐC TỔNG KẾT THI HÀNH LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000 – 16/4/2013
BỘ TƯ PHÁP
Qua các thông tin, số
liệu, đánh giá, nhận định được thể hiện trong Báo cáo tổng kết của 55
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,[1]-[2] Báo cáo tổng kết của 7 Bộ,
ngành và tổ chức có liên quan;[3] ý kiến bằng văn bản của 106 các cơ
quan, tổ chức; Báo cáo kết quả của các tọa đàm, hội thảo khoa học, Bộ Tư
pháp xây dựng Báo cáo này để tổng kết những kết quả đạt được và những
bất cập, hạn chế của Luật hôn nhân và gia đình (Luật HN-GĐ) qua thực
tiễn 12 năm thi hành như sau [4]:
I. NHỮNG KẾT QUẢ ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC TRONG QUÁ TRÌNH THỰC THI LUẬT HN-GĐ NĂM 2000
1. Trong công tác xây dựng văn bản hướng dẫn thi hành Luật
Trong 12 năm qua, công tác xây dựng văn bản hướng dẫn
thi hành Luật HN- GĐ đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Cụ thể là, bảo
đảm Luật HN-GĐ thực sự đi vào cuộc sống, ngày 9/6/2000, Quốc hội khóa X
đã ban hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 về thi hành Luật này (Nghị quyết
số 35/2000/QH10) trong đó đã quy định rõ trách nhiệm của Chính phủ, Toà
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tự mình hoặc phối hợp tổ chức việc
rà soát các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình hiện hành để
huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới, đề nghị Quốc hội, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới cho phù
hợp với quy định của Luật này, bảo đảm hiệu lực của Luật từ ngày 01
tháng 01 năm 2001; nguyên tắc áp dụng pháp luật đối với những trường hợp
nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước thời điểm Luật HN-GĐ
năm 2000 có hiệu lực.
Thực thi Luật HN-GĐ và Nghị quyết số 35/2000/QH10,
Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định để hướng dẫn chi tiết, như: Nghị
định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 quy định chi tiết thi hành Luật
HN-GĐ năm 2000; Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 quy định chi
tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10; Nghị định số
32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 quy định việc áp dụng Luật HN-GĐ đối với
các dân tộc thiểu số; Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật HN-GĐ về quan hệ hôn nhân và gia
đình có yếu tố nước ngoài; Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006
quy định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP
ngày 10/7/2002 về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài;
Nghị định số 24/2013/NĐ-CP ngày 28/3/2013 quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật HN-GĐ về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài … Bộ Tư pháp, Bộ Y tế, Bộ Ngoại giao cùng một số Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ ban hành nhiều thông tư, thông tư liên tịch hướng dẫn thi
hành các Nghị định của Chính phủ về thi hành Luật HN-GĐ.
Trong công tác tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao
đã phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp ban hành
Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2000
hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 và nhiều văn bản liên tịch
khác trong hướng dẫn một số quy định của Luật HN-GĐ để áp dụng thống
nhất trong giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình. Đồng thời,
Tòa án nhân dân tối cao cũng đã ban hành nhiều văn bản của ngành để
hướng dẫn Tòa án các cấp áp dụng thống nhất pháp luật trong giải quyết
các vụ việc về hôn nhân và gia đình, như: Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP
ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
áp dụng một số qui định của Luật HN-GĐ năm 2000; Nghị quyết số
01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003, Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày
10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn
nhân và gia đình…
Những văn bản trên đã đóng vai trò tích cực, bảo đảm
tính cụ thể và khả thi của các quy định của Luật HN-GĐ năm 2000 trong
cuộc sống, bảo đảm sự thống nhất trong áp dụng pháp luật, từ đó quyền,
nghĩa vụ của người dân về hôn nhân và gia đình được thực hiện, bảo vệ
tốt hơn.[5]
2. Trong công tác tổ chức thi hành Luật HN-GĐ năm 2000
a) Trong công tác quản lý nhà nước về gia đình[6]
Công tác quản lý nhà nước về gia đình đã được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Trước tháng 8/2007, công tác này được giao cho Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em thực hiện và từ tháng 8/2007 đến nay, nhiệm vụ này được Chính phủ giao cho Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Ngày 16/5/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 106/2005/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2005 – 2010 với những mục tiêu chung “từng bước ổn định, củng cố và xây dựng gia đình ít con (mỗi cặp vợ chồng có một hoặc hai con), no ấm, tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc”. Phát huy những thành tựu của việc thực hiện Chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2005-2010, công tác gia đình đang tiếp tục thực hiện với Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Đề án “Tuyên truyền giáo dục đạo đức lối sống trong gia đình” với các nhóm nội dung liên quan đến hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình, phát huy truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc; xây dựng quan hệ hôn nhân và gia đình tiến bộ đang được triển khai tới cấp cơ sở và bước đầu đem lại nhiều kết quả rất tích cực.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xây dựng mô hình
can thiệp, giảm tiêu cực trong kết hôn của phụ nữ Việt Nam với người
nước ngoài tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và một số địa bàn trọng
điểm phía Bắc như Hải Dương, Hải Phòng. Thông qua hình thức sinh hoạt
các loại hình Câu lạc bộ, đặc biệt là Câu lạc bộ Gia đình, công tác
tuyên truyền đem lại hiệu quả và là hình thức truyền thông trực tiếp
được các địa phương áp dụng nhiều nhất để đưa Luật HN-GĐ vào cuộc sống. Ngoài ra, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành văn bản số 1481/BVHTTDL-GĐ ngày 13/5/2009 về thu thập số liệu quản lý về gia đình trong đó có số liệu về tảo hôn.[7]
b) Trong công tác hộ tịch[8]
Công tác hộ tịch trong 12 năm thi hành Luật HN-GĐ năm
2000 đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng trong bảo
đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ về hôn nhân và gia đình của cá nhân
thông qua xác nhận các sự kiện hộ tịch về: khai sinh, khai tử; kết hôn;
nhận cha, mẹ, con; giám hộ …[9]
Thực thi Mục 3, Nghị quyết số 35/2000/QH10 về việc áp
dụng pháp luật đối với các trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như
vợ chồng trước ngày Luật HN-GĐ năm 2000 có hiệu lực, ngày 22/10/2001
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 77/2001/NĐ-CP quy định chi tiết về
đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 theo tinh thần đơn giản,
thuận tiện để khuyến khích và tạo điều kiện cho các trường hợp này đăng
ký kết hôn. Tiếp đó, ngày 10 tháng 12 năm 2001, Bộ Tư pháp đã ban hành
Thông tư số 07/2001/TT-BTP hướng dẫn cách thức, biện pháp tổ chức đăng
ký kết hôn cho những trường hợp nói trên. Trong Chỉ thị số
01/2002/CT-BTP ngày 2/1/2002 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về những nhiệm vụ
trọng tâm của công tác tư pháp năm 2002, tại Mục 6 cũng đã nhấn mạnh
việc "Hoàn thành về cơ bản đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số
35/2000/QH10 …"
Kết quả trong năm 2002, hầu hết 61/61 tỉnh, thành phố
trong toàn quốc đã tổ chức rà soát, lập danh sách những trường hợp hôn
nhân thực tế tại địa phương, phân loại theo hai đối tượng trước và sau
ngày 3/1/1987 như Nghị quyết số 35/2000/QH10 và Nghị định số
77/2001/NĐ-CP đã quy định. Theo báo cáo của 56/61 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương, tính đến ngày 31/12/2002, các địa phương đã lập danh
sách tổng cộng 925.753 trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ
chồng từ sau 3/1/1987 đến trước ngày 1/1/2001 (các đối tượng có nghĩa vụ
đăng ký kết hôn theo Điểm b, Mục 3 của Nghị quyết số 35/2000/QH10);
trong đó các địa phương đã cấp đăng ký kết hôn được 623.489 trường hợp
(đạt 68%), còn lại 302.264 trường hợp chưa đăng ký (chiếm 32%).
Kết quả trên cho thấy việc thực hiện Mục 3 Nghị quyết
số 35/2000/QH10 và Nghị định số 77/2001/NĐ-CP về đăng ký hôn nhân thực
tế cho thấy chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với vấn đề hôn nhân
thực tế được quy định trong các văn bản pháp luật nói trên là phù hợp
với thực tế, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, được các cấp ủy
Đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng, tham gia
thực hiện. Việc đăng ký hôn nhân thực tế cũng đã góp phần tăng cường
quản lý nhà nước về công tác hộ tịch, hộ khẩu và các hoạt động quản lý
khác của Nhà nước, bảo hộ các quyền về dân sự và hôn nhân, gia đình của
người dân. Mặt khác, qua hoạt động đăng ký hôn nhân thực tế, ý thức pháp
luật, đặc biệt là ý thức pháp luật về hôn nhân và gia đình của người
dân được nâng lên một bước đáng kể.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã kịp thời tăng cường
thể chế hóa, cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực để công tác hộ tịch đáp ứng ngày càng tốt hơn trong việc thực thi
các quyền nhân thân nói chung, quyền về hôn nhân và gia đình nói riêng
của cá nhân. Công tác hộ tịch đã ngày càng đi vào nề nếp, đặc biệt trong
khoảng hơn 10 năm trở lại đây (kể từ khi Nghị định số 83/1998/NĐ-CP có
hiệu lực thi hành và tiếp đó là Nghị định số 158/2005/NĐ-CP). Với sự
quan tâm, đầu tư của các cấp, ngành từ trung ương đến cơ sở, công tác hộ
tịch đã có những bước tiến cơ bản và đạt những thành tựu quan trọng. Hệ
thống cơ quan quản lý, đăng ký hộ tịch được củng cố, đội ngũ công chức
làm công tác hộ tịch được tăng cường; hệ thống sổ sách, dữ liệu hộ tịch
được lưu trữ và sử dụng lâu dài; đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành
chính trong đăng ký hộ tịch; khẳng định vai trò trong quản lý nhà nước
và bảo đảm quyền nhân thân của cá nhân nói chung và quyền về hôn nhân và
gia đình nói riêng.
Tỷ lệ đăng ký khai sinh, khai tử, kết hôn, nhận cha,
mẹ, con đã tăng lên khá cao, đặc biệt ở các khu vực miền núi, vùng sâu,
xa, nơi điều kiện kinh tế còn khó khăn. Ví dụ, tại tỉnh Cao Bằng, năm
2000 chỉ có 685 trường hợp đăng ký khai sinh nhưng năm 2011 đã tăng lên
7.736 trường hợp, khai tử năm 2000 là 510 trường hợp thì năm 2011 đã
tăng lên 927 trường hợp; Tại tỉnh Lào Cai, tính riêng đăng ký hộ tịch
trong nước, năm 2000 số lượng khai sinh là 4.759 trường hợp, năm 2011 đã
tăng lên 23.700 trường hợp, số lượng đăng ký kết hôn năm 2000 là 1.531
trường hợp thì đến năm 2011 đã tăng lên 5.329 trường hợp. Việc ứng dụng
công nghệ thông tin trong đăng ký và quản lý hộ tịch đã đạt những thành
tựu bước đầu. Công tác đăng ký hộ tịch trong hôn nhân và gia đình có yếu
tố nước ngoài đã có những chuyển biến tích cực, cơ bản đáp ứng yêu cầu
quản lý nhà nhà nước cũng như đăng ký các việc hộ tịch về hôn nhân và
gia đình phát sinh giữ công dân Việt Nam với người nước ngoài…
c) Trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
Trong 12 năm thi hành Luật HN-GĐ, công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật Luật HN-GĐ nói riêng, pháp luật HN-GĐ nói chung giữ
vị trí quan trọng trong nâng cao sự hiểu biết, ý thức chấp hành pháp
luật HN-GĐ của các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền và nhân dân. Bộ
Tư pháp với vai trò là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước trong
hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật đã tiến hành nhiều hoạt động thực
hiện công tác này, như:
- Chủ trì xây dựng, trình Chính phủ ban hành chương
trình, đề án, kế hoạch dài hạn, trung hạn về phổ biến, giáo dục pháp
luật nói chung, trong đó có Luật HN-GĐ;
- Phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan để
tổ chức các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, pháp luật
về HN-GĐ nói riêng. Ví dụ: Bộ Tư pháp đã ký kết Chương trình hợp tác số
14 ngày 2/10/2002 với Trung ương Hội phụ nữ Việt Nam về phối hợp phổ
biến giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý cho phụ nữ, một trong các
trọng tâm của chương trình này là phổ biến pháp luật, trợ giúp pháp lý
về hôn nhân và gia đình;
- Tổ chức xây dựng Đề cương Luật HN-GĐ gửi các Bộ, ngành, địa phương, tổ chức có liên quan;
- Biên soạn, phát hành tài liệu như tờ rơi, tờ gấp,
sổ tay pháp luật về hôn nhân và gia đình cho cán bộ, công chức, viên
chức, nhân dân, chú trọng giới thiệu Luật HN-GĐ năm 2000 và những văn
bản hướng dẫn mới ban hành; [10]
- Mở các lớp tập huấn, đào tạo cho các tuyên truyền
viên, báo cáo viên ở trung ương và địa phương về công tác tuyên truyền,
phổ biến các nội dung liên quan đến pháp luật hôn nhân và gia đình.
Cùng với các hoạt động của Bộ Tư pháp, các Bộ, ngành,
địa phương, tổ chức có liên quan trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của
mình cũng đã chủ động tiến hành các hoạt động để thực hiện công tác
tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hôn nhân và gia đình như tổ chức tập
huấn cho cán bộ, công chức ở các cấp, tổ chức thi tìm hiểu Luật HN-GĐ.
Tại các địa phương trên phạm vi toàn quốc, nhiều nơi
đã thành lập các mô hình sinh hoạt cộng đồng như: Câu lạc bộ tiền hôn
nhân, Câu lạc bộ không sinh con thứ ba, Câu lạc bộ phụ nữ với pháp luật,
Câu lạc bộ thanh niên với pháp luật mà một trong các hoạt động chính là
tuyên truyền, phổ biến Luật HN-GĐ và các văn bản hướng dẫn. [11]
Dưới góc độ quản lý nhà nước về gia đình, Chính phủ
đã ban hành Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 quy định việc áp
dụng Luật HN-GĐ đối với các dân tộc thiểu số đã quy định cụ thể trách
nhiệm của Chính phủ và các Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phổ biến,
giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý cho người dân thuộc các dân tộc ít
người. Ngày 03/1/2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 02/2013/NĐ-CP về
công tác gia đình đã quy định cụ thể trách nhiệm của Chính phủ, trong đó
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực
hiện quản lý nhà nước về công tác gia đình trong phạm vi toàn quốc mà
trọng tâm là xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về gia
đình; hướng dẫn và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội
ngũ cán bộ làm công tác gia đình… Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp cùng các bộ, ngành khác phối hợp với Bộ
Văn Hóa, Thể thao và Du lịch trong việc xây dựng chính sách pháp luật về
công tác gia đình trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao.
d) Trong công tác xét xử của ngành Tòa án nhân dân [12]
Ngành Tòa án nhân dân có vai trò quan trọng trong việc tuân thủ, chấp hành các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình trong thực hiện, bảo về các quyền về hôn nhân và gia đình của người dân. Ngành Tòa án đã tích cực thực hiện công tác triển khai thi hành Luật HN-GĐ. Bên cạnh việc tham gia ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật HN-GĐ, Tòa án nhân dân tối cao đã tiến hành nhiều hoạt động tập huấn nâng cao nghiệp vụ giải quyết các vụ việc dân sự nói chung, vụ việc về hôn nhân và gia đình nói riêng để hạn chế ban hành những bản án, quyết định thiếu rõ ràng, có sai sót hoặc khó thi hành…
Ngoài ra, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cũng được ngành Tòa án nhân dân chú trọng. Trong những năm qua, Tòa án nhân dân tối cao đã tích cực phối hợp với các bộ, ngành hữu quan thực hiện nhiều đề án tuyên truyền phổ biến pháp luật khác nhau, trong đó có nội dung tuyên tuyền phổ biến pháp luật về hôn nhân và gia đình; đăng tin, bài trên Tạp chí Tòa án nhân dân, Báo Công lý…
Với công tác triển khai thi hành Luật tích cực, hiệu quả, ngành Tòa án đã thực hiện tốt các quy định của Luật HN-GĐ và đạt nhiều kết quả quan trọng trong giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình, góp phần làm ổn định các quan hệ gia đình, thực hiện và bảo vệ tốt quyền của các thành viên trong hôn nhân và gia đình, của những người có quyền, lợi ích liên quan, qua đó góp phần làm ổn định các quan hệ kinh tế – xã hội của đất nước. Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, từ ngày 30/9/2000 đến ngày 30/9/2011 Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý 3.143.746 vụ việc dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính, hôn nhân gia đình. Trong đó, số vụ việc về hôn nhân và gia đình là 875.282 (chiếm khoảng 30% tổng số vụ việc dân sự đã thụ lý). Cụ thể như sau:
- Về công tác xét xử ở cấp sơ thẩm
Năm 2001 | Năm 2002 | Năm 2003 | Năm 2004 | Năm 2005 | Năm 2006 | Năm 2007 | Năm 2008 | Năm 2009 | Năm 2010 | Năm 2011 | Tổng cộng | |
Tổng số vụ việc đã thụ lý | 55082 | 60265 | 57138 | 63151 | 65238 | 68833 | 74484 | 77624 | 94710 | 103332 | 121848 | 841.705 |
Số vụ việc đã giải quyết | 48878 (88%) |
51461 (85%) |
51618 (90%) |
57272 (90%) |
59791 (91%) |
64058 (93%) |
70204 (94%) |
66347 (85%) |
89609 (94%) |
97627 (94%) |
115331 (94%) |
772.201 (92%) |
Việc giải quyết các vụ việc HN-GĐ ở cấp sơ thẩm ngành
Tòa án luôn đạt tỷ lệ cao (từ 88% – đến 94%), đặc biệt là 3 năm gần đây
(năm 2009, 2010, 2011) đều giữ được tỷ lệ là 94%, và đạt trung bình
trong 11 năm qua (từ năm 2001-2011) là 92%. Tỷ lệ các vụ việc HN-GĐ bị
kháng cáo, kháng nghị chiếm khoảng 9% số vụ việc đã giải quyết. Điều này
cho thấy, công tác giải quyết các vụ việc về HN-GĐ có chất lượng khá
cao so với các lĩnh vực khác.
- Về công tác xét xử ở cấp phúc thẩm
Năm 2001 | Năm 2002 | Năm 2003 | Năm 2004 | Năm 2005 | Năm 2006 | Năm 2007 | Năm 2008 | Năm 2009 | Năm 2010 | Năm 2011 | Tổng cộng | |
Tổng số vụ việc đã thụ lý | 2698 | 2702 | 3781 | 2968 | 2969 | 2951 | 2936 | 2857 | 2782 | 2590 | 2781 | 32.012 |
Số vụ việc đã giải quyết | 2576 (95%) |
2443 (90%) |
3714 (98%) |
2805 (94%) |
2833 (95%) |
2826 (95%) |
2840 (96%) |
2503 (87%) |
2704 (97%) |
2516 (97%) |
2666 (95%) |
30.426 (95%) |
Công tác xét xử các vụ việc HN-GĐ ở cấp phúc thẩm
không ngừng được nâng cao và đạt kết quả cao (từ 87% – đến 98%), đặc
biệt là 3 năm gần đây (năm 2009, 2010, 2011) đều giữ được tỷ lệ cao từ
95- 97%, và đạt trung bình trong 11 năm qua (từ năm 2001-2011) là 95%.
Tỷ lệ kháng cáo, kháng nghị chiếm khoảng 5% số vụ việc đã giải quyết.
- Về công tác giải quyết các vụ việc HN-GĐ theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
Năm 2001 | Năm 2002 | Năm 2003 | Năm 2004 | Năm 2005 | Năm 2006 | Năm 2007 | Năm 2008 | Năm 2009 | Năm 2010 | Năm 2011 | Tổng cộng | |
Tổng số vụ việc đã thụ lý | 129 | 138 | 71 | 131 | 326 | 81 | 141 | 107 | 128 | 149 | 161 | 1.562 |
Số vụ việc đã giải quyết | 124 (96%) |
98 (71%) |
67 (94%) |
124 (94%) |
325 (99%) |
79 (97%) |
130 (92%) |
94 (87%) |
119 (92%) |
136 (91%) |
144 (89%) |
1.440 (92%) |
Việc giải quyết các vụ việc HN-GĐ theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm hàng năm không ngừng được quan tâm, chú trọng nâng
cao (từ 71% – đến 99%), đặc biệt là 3 năm gần đây (năm 2009, 2010, 2011)
đều giữ được tỷ lệ cao từ 89- 92%, và đạt trung bình trong 11 năm qua
(từ năm 2001-2011) là 92%. Bên cạnh đó qua công tác giám đốc kiểm tra
các hồ sơ vụ việc HN-GĐ đã giải quyết có hiệu lực pháp luật, thi hành,
phát hiện những sai sót cũng được chú ý, góp phần quan trọng trong việc
nâng cao chất lượng giải quyết các vụ việc HN-GĐ nói riêng và công tác
xét xử nói chung của ngành Tòa án.
- Về số vụ việc HN-GĐ bị hủy, sửa
Năm 2001 |
Năm 2002 |
Năm 2003 |
Năm 2004 |
Năm 2005 |
Năm 2006 |
Năm 2007 |
Năm 2008 |
Năm 2009 |
Năm 2010 |
Năm 2011 |
Tổng cộng | |
Tổng số vụ việc đã giải quyết |
51578 | 54002 | 55399 | 60206 | 62949 | 66963 | 73174 | 68944 | 92432 | 100279 | 118141 | 804.067 |
Số vụ việc bị hủy, sửa |
1571 (3%) |
1315 (2%) |
1896 (3%) |
1481 (2%) |
1619 (2%) |
1381 (2%) |
1467 (2%) |
1406 (2%) |
1344 (1%) |
1305 (1%) |
1315 (1%) |
16.100 (2%) |
Tỷ lệ án bị hủy, sửa so với tổng số vụ việc đã giải quyết trong 11 năm qua (từ năm 2001-2011) chiếm tỷ lệ trung bình là 2%. Cùng
với sự nỗ lực phấn đấu của toàn bộ cán bộ ngành Tòa án thực hiện công
tác xét xử ở các cấp, cũng như sự quan tâm giúp đỡ của các cấp lãnh đạo
ngành Tòa án, cấp ủy, chính quyền địa phương, chất lượng xét xử các vụ
việc HN-GĐ ngày một nâng lên, tỷ lệ án bị hủy, sửa đã giảm đáng kể, đặc
biệt là 3 năm gần đây (năm 2009, 2010, 2011) tỷ lệ án bị hủy, sửa đã
giảm đáng kể và ở mức 1%.
đ) Trong công tác kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố của ngành Kiểm sát nhân dân[13]
Trong thời gian qua, ngành Kiểm sát nhân dân đã đóng
vai trò tích cực trong việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật hôn nhân
và gia đình trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến
nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải
quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình kịp thời, đúng pháp luật. Đồng
thời, ngành Kiểm sát thông qua công tác kiểm sát điều tra và thực hành
quyền công tố đã góp phần quan trọng trong việc xử lý kịp thời các hành
vi xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa, quyền, lợi ích chính đáng của người dân được tôn trọng và bảo vệ.
Để thực hiện tốt chức năng kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, Viện Kiểm sát nhân dân tối cáo
đã tổ chức nhiều đợt tập huấn cho Viện Kiểm sát nhân dân các cấp những
nội dung cơ bản, những điểm mới của Luật HN-GĐ và Nghị quyết số
35/2000/QH10 và các thông tư, nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số quy
định của Luật HN-GĐ; đảm bảo cho đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên nắm vững
những quy định của pháp luât trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình để áp
dụng cho phù hợp trong quá trình thực hiện chức năng kiểm sát. Ngoài ra,
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao còn chú trọng tập hợp các vướng mắc
trong quá trình thực hiện Luật HN-GĐ, xây dựng các thông báo rút kinh
nghiệm trong nhận thức, áp dụng pháp luật cho Viện Kiểm sát địa phương.
Sự chỉ đạo hướng dẫn tập trung, đồng bộ của Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao cùng với sự tích cực nghiên cứu, tìm hiểu để vận dụng của cán bộ
toàn ngành góp phần làm cho ngành Kiểm sát hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của Viện Kiểm sát
nhân dân các tỉnh, thành phố thì tình hình Tòa án đã thụ lý và giải
quyết các vụ việc tranh chấp hôn nhân và gia đình ở cấp sơ thẩm, phúc
thẩm từ năm 2001 đến năm 2012 như sau: Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý 588.309
vụ việc, đã giải quyết được 507.387 vụ việc; Tòa án cấp phúc thẩm thụ
lý 24.336 vụ việc, đã giải quyết được 21.460 vụ việc. Qua số liệu thống
kê cho thấy, các vụ việc về hôn nhân và gia đình do Tòa án thụ lý ở cấp
sơ thẩm có xu hướng ngày càng tăng, năm 2005 có 55.664 vụ án ly hôn,
chia tài sản chung của vợ chồng và 7.612 việc HN-GĐ thì năm 2012 có tới
13.8057 vụ ly hôn, chia tài sản và 10.963 việc HN-GĐ.
Đối với công tác kiểm sát điều tra và thực hành quyền
công tố các tội vi phạm chế độ hôn nhân và gia đình thì từ năm 2001 đến
năm 2012, toàn ngành Kiểm sát đã kiểm sát việc khởi tố 274 vụ án và 337
bị can xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, đã truy tố 238 vụ án và
288 bị can; đã đưa 230 vụ án và 276 bị can ra xét xử sơ thẩm. Số liệu
thống kê hàng năm cho thấy, các vụ khởi tố, truy tố bị can về các tội
xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình ngày càng giảm: nếu năm 2001 có 68
vụ án và 86 bị can bị khởi tố về tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia
đình thì đến năm 2011 chỉ có 16 vụ án và 19 bị can bị khởi tố về tội xâm
phạm chế độ hôn nhân và gia đình. Các trường hợp khởi tố vụ án và khởi
tố bị can từ năm 2001 đến nay chủ yếu liên quan đến các tội: vi phạm chế
độ một vợ một chồng (85 vụ án và 131 bị can), tội ngược đãi hoặc hành
hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình
(166 vụ án và 179 bị can), tội loạn luân (20 vụ án và 23 bị can).
II. BẤT CẬP, HẠN CHẾ TRONG THỰC TIỄN THI HÀNH LUẬT HN-GĐ NĂM 2000 VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Bất cập, hạn chế trong công tác triển khai thi hành Luật
1.1. Bất cập, hạn chế trong công tác xây dựng văn bản hướng dẫn thi hành Luật
Về cơ bản, hệ thống văn bản pháp quy hướng dẫn thi
hành Luật HN-GĐ năm 2000 đã bảo đảm cho Luật HN-GĐ đi vào cuộc sống,
thống nhất trong áp dụng pháp luật, quyền, lợi ích hợp pháp của người
dân về hôn nhân và gia đình được thực hiện và bảo vệ. Tuy nhiên, một số
quy định của Luật HN-GĐ còn chậm được hướng dẫn thi hành hoặc các văn
bản hướng dẫn thi hành vẫn còn chung chung, chưa cụ thể, dẫn tới có
nhiều cách hiểu khác nhau trong thực tiễn áp dụng. Do đó, hiệu qủa áp
dụng các văn bản quy phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình chưa cao. Ví
dụ: công tác hướng dẫn thi hành các quy định về áp dụng tập quán; kết
hôn của người mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác không nhận thức được
năng lực hành vi; việc đăng ký sở hữu tài sản chung của vợ chồng đối với
tài sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký sở hữu; quy định
liên quan đến “tài sản chung có giá trị lớn”, “nguồn sống duy nhất”, “ảnh hưởng nghiêm trọng”; quan hệ giữa các thành viên trong gia đình…
1.2. Bất cập, hạn chế trong công tác tổ chức thi hành Luật
- Quản lý nhà nước về công tác gia đình trong thời
gian thi hành Luật HN-GĐ năm 2000 có nhiều biến động làm ảnh hưởng không
nhỏ đến hiệu quả thi hành Luật HN-GĐ trong công tác gia đình; [14]
- Một số cơ quan, chính quyền địa phương chưa có sự phối hợp chặt chẽ, chưa quan tâm đúng mức đến công tác giải quyết các vụ việc về HN-GĐ của ngành Tòa án nhân dân, nhất là trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ, công chứng, giám định; việc thẩm định, đo đạc đất đai của cơ quan chuyên môn không chính xác làm ảnh hưởng xấu tới chất lượng bản án, quyết định của Tòa án;[15]
- Sau khi Bộ luật Tố tụng dân sự (Luật TTDS) năm 2004 có hiệu lực thi hành, nhiệm vụ và quyền hạn kiểm sát lập hồ sơ và tham gia các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm đối với các vụ án tranh chấp liên quan đến hôn nhân và gia đình của ngành Kiểm sát nhân dân đã thu hẹp lại: hầu hết các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm trong lĩnh vực này, Luật không quy định Viện Kiểm sát tham gia. Điều này làm thay đổi phương thức thực hiện công tác kiểm sát từ chỗ Viện Kiểm sát trực tiếp nghiên cứu hồ sơ vụ án và tham gia tố tụng tại phiên tòa chuyển sang gián tiếp kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án thông qua việc kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án sau khi xét xử. Thực tiễn cho thấy, việc hạn chế thẩm quyền tham gia phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm của Viện Kiểm sát đã ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết các tranh chấp về HN-GĐ của Viện kiểm sát;
- Việc thực hiện quy định của Luật HN-GĐ về thẩm quyền yêu cầu tòa án giải quyết các vụ việc về HN-GĐ của các cơ quan, tổ chức còn nhiều khó khăn, do thay đổi về thẩm quyền (Viện Kiểm sát nhân dân không còn thẩm quyền thực hành công tố trong giải quyết các vụ việc về HN-GĐ), do bị giải thể (Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em) hoặc vì nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan mà cơ quan, tổ chức khác không thực hiện hiệu quả thẩm quyền của mình;[16]
- Công tác tuyên truyền, phổ biến, giao dục, bồi dưỡng chuyên sâu về Luật HN-GĐ năm 2000 cho lực lượng cán bộ, công chức công tác tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát… ở một số địa phương còn chưa được thực hiện đầy đủ.[17]
2. Bất cập, hạn chế trong các quy định của Luật
2.1. Về áp dụng tập quán trong hôn nhân và gia đình
- Khoản 1 Điều 3 Luật HN-GĐ quy định trách nhiệm của Nhà nước và xã hội: “Vận
động nhân dân xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia
đình, phát huy truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc
của mỗi dân tộc; xây dựng quan hệ hôn nhân và gia đình tiến bộ”, và Điều 6 của Luật quy định nguyên tắc: “Trong
quan hệ hôn nhân và gia đình, những phong tục, tập quán thể hiện bản
sắc của mỗi dân tộc mà không trái với những nguyên tắc quy định tại Luật
thì được tôn trọng và phát huy”. Tuy nhiên, qua tổng kết thi hành
Luật HN-GĐ cho thấy những quy định này còn có tính khả thi còn thấp, vì
chỉ mới thể hiện được thái độ tôn trọng của nhà nước đối với phong tục,
tập quán mà chưa thực sự tạo căn cứ pháp lý rõ ràng và đầy đủ để các cơ
quan có liên quan áp dụng tập quán trong giải quyết các vụ việc về
HN-GĐ.
- Về điều kiện để áp dụng tập quán: quy định về điều
kiện áp dụng tập quán trong Luật hiện hành là không cụ thể, rất khó có
sự thống nhất trong áp dụng. Điều kiện chung là những tập quán tốt đẹp
thì được kế thừa, phát huy, nhưng “tính chất tốt đẹp” lại
là một giá trị trừu tượng, có thể được hiểu ở nhiều góc độ khác nhau.
Nội dung của giá trị này có thể thay đổi theo từng giai đoạn phát triển
của kinh tế – xã hội, phụ thuộc vào quan niệm của từng cá nhân, gia
đình, cộng đồng, tầng lớp xã hội. Vì vậy, trong thực tế, rất khó xác
định tập quán nào là tốt đẹp cần được kế thừa và phát huy; tập quán nào
không tốt đẹp cần được xóa bỏ. Do đó, việc đưa Luật HN-GĐ đi vào đời
sống xã hội còn gặp nhiều khó khăn, nhất là ở các địa bàn ở vùng sâu,
vùng xa, vùng đông bào dân tộc ít người.[18]
Ví dụ: nhiều trường hợp nam, nữ chung sống như vợ
chồng mà không có đăng ký kết hôn, nhưng lại được cộng đồng dân cư nơi
họ cư trú công nhận, bảo vệ. Khi xảy ra tranh chấp, Tòa án căn cứ vào
quy định của Luật HN-GĐ để tuyên bố không công nhận hôn nhân của các
đương sự. Tuy nhiên, đương sự, gia đình và dòng họ hai bên lại không
đồng tình với quyết định của Tòa án. Cũng có trường hợp nam nữ khi kết
hôn không vi phạm quy định của Luật về cấm kết hôn giữa những người có
họ trong phạm ba đời, nhưng theo tập quán, họ vẫn thuộc phạm vi quan hệ
họ hàng không được kết hôn, do vậy, họ đã bị gia đình, cộng đồng không
cho kết hôn hoặc không thừa nhận hôn nhân… Ngoài hai trường hợp trên,
việc tranh chấp về các lễ vật, sính lễ trong ngày cưới, kết hôn cũng
đang tiếp tục xảy ra và được giải quyết một cách không thống nhất do
thiếu quy định cụ thể áp dụng tập quán…[19]-[20]
2. 2. Về kết hôn
2.2.1. Tuổi kết hôn
Quy định về tuổi kết hôn hiện hành bên cạnh việc đã
đạt được những kết quả quan trọng trong xây dựng chế độ hôn nhân lành
mạnh, hạnh phúc và bền vững; góp phần hạn chế tảo hôn, bảo đảm về thể
chất, trí tuệ, kinh nghiệm xã hội để các bên trong kết hôn thực hiện tốt
các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ HN-GĐ thì cũng đã đã phát
sinh một số bất cập, hạn chế:
- Về năng lực chủ thể, quy định về tuổi kết hôn chưa
đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với quy định về người đã thành niên
trong Bộ luật dân sự (BLDS). Theo Điều 19 BLDS, người đã thành niên có
đầy đủ năng lực hành vi dân sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên không bị
mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì
được tham gia tất cả các quan hệ dân sự. Trong khi đó, Luật HN-GĐ lại
quy định nam từ 20 tuổi trở lên mới có quyền kết hôn đã hạn chế nhiều
quyền dân sự đối với họ.[21] Nhiều trường hợp nam công dân kết hôn ở độ
tuổi 18 – 20 bị coi là trái luật, trong khi về mặt pháp lý họ là người
đã thành niên. Đối với nữ, việc kết hôn của nữ bước sang tuổi 18 được
coi là hợp pháp, nhưng pháp luật chưa có quy định cụ thể về quyền của họ
trong tham gia các giao dịch. Theo pháp luật hiện hành, nhiều giao dịch
(về bất động sản, tín dụng…) đòi hỏi chủ thể của giao dịch phải là
người từ đủ 18 tuổi trở lên;
- Về tư cách tố tụng, khoản 3 Điều 57 Bộ luật TTDS
quy định một cá nhân chỉ có thể tự mình tham gia quan hệ tố tụng khi đã
đủ 18 tuổi trở lên. Trong khi đó, Điều 9 Luật HN-GĐ quy định, nữ bước
sang tuổi 18 mà kết hôn được coi là hợp pháp và họ được quyền tự do ly
hôn. Tuy nhiên, quyền tự do ly hôn của họ không thể thực hiện được nếu
sau khi kết hôn và đến thời điểm có yêu cầu ly hôn họ chưa đủ 18 tuổi;
- Về sự phù hợp với pháp luật chuyên ngành: Trong khi
Điều 9 Luật HN-GĐ quy định độ tuổi kết hôn của nam là từ 20 tuổi trở
lên, nữ từ 18 tuổi trở lên thì trong thực tiễn, khi thực hiện Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình và các văn bản liên quan, đặc biệt là Nghị
định số 110/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
phòng, chống bạo lực gia đình, việc xác định hành vi vi phạm bạo lực gia
đình, đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vợ là khó
khăn vì nếu vi phạm ngay sau khi kết hôn thì người vi phạm chưa đủ 18
tuổi (chưa thành niên).
- Về tính phù hợp với thực tiễn, tuổi kết hôn theo
Luật hiện hành chưa gắn với đặc thù về tuổi kết hôn trong tập quán ở một
số cộng đồng các dân tộc ít người thuộc khu vực miền núi, vùng sâu,
vùng xa. Trên thực tế, tình trạng tảo hôn vẫn còn tồn tại ở các nhóm
cộng đồng này. Báo cáo tổng kết của một số địa phương cho thấy, tỷ lệ
kết hôn trước tuổi luật định ở vùng cao, nơi đồng bào dân tộc ít người
sinh sống còn khá cao. Khi được tuyên truyền Luật HN-GĐ, bà con hiểu quy
định của pháp luật về tuổi kết hôn, nhưng do phong tục, tập quán đã đi
vào cuộc sống của người dân từ rất lâu đời, các gia đình thường dựng vợ
gả chồng cho con từ rất sớm (15 – 16 tuổi thậm chí từ 14 tuổi). Vì chưa
đủ tuổi theo luật định, nên việc kết hôn không được đăng ký tại cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, nhưng hai bên gia đình vẫn tổ chức đám cưới theo
phong tục; họ hàng hai bên, cộng đồng dân cư của cả bản vẫn mặc nhiên
công nhận đó là một cặp vợ chồng. Trong cuộc sống, nhiều cặp vợ chồng
này đã duy trì cuộc sống chung ổn định, góp phần tích cực vào đời sống
cộng đồng.[22]-[23]
2.2.2. Về các trường hợp cấm kết hôn, hủy kết hôn trái pháp luật
- Theo Luật HN-GĐ năm 2000, các trường hợp cấm kết hôn được quy định tại Điều 10 về
cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình
tiến bộ, phù hợp với thực tiễn xã hội, kế thừa, phát huy các giá trị
truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam, hạn chế các hủ tục,
tập tục lạc hậu trong kết hôn, cũng như những ảnh hưởng tiêu cực của sự
đề cao tự do cá nhân và của nền kinh tế thị trường… Luật này cũng tạo cơ
sở pháp lý cho việc thực thi quyền kết hôn của cá nhân, áp dụng trách
nhiệm dân sự, hành chính hoặc hình sự đối với cá nhân, tổ chức vi phạm
điều kiện kết hôn, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa về hôn nhân và gia
đình. Tuy nhiên, các quy định của Luật này khi áp dụng trong thực tế
cũng đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế như:
+ Khoản 2 Điều 10, Luật HN-GĐ chưa quy định rõ ràng,
cụ thể về việc cấm kết hôn đối với người mất năng lực hành vi dân sự.
Trên thực tế, một người chỉ bị tuyên mất năng lực hành vi dân sự khi có
quyết định của Tòa án tuyên người đó mất năng lực hành vi dân sự (Điều
22 BLDS). Do đó, trường hợp một người tuy mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh
khác khác dẫn tới không nhận thức, điều khiển được hành vi nhưng do
không có/chưa có quyết định của Tòa án thì vẫn được xác định là có năng
lực hành vi dân sự và không thuộc trường hợp bị cấm kết hôn theo khoản 2
Điều 10 Luật HN-GĐ. Nhiều vụ việc Tòa án thụ lý giải quyết theo yêu cầu
cơ quan có thẩm quyền về hủy việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm
khoản 2 Điều 10, nhưng bản thân đương sự, gia đình đương sự đã phản đối
và UBND nơi cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn cũng đã không đồng tình
với quyết định của Tòa án vì cho rằng, việc đăng ký kết hôn trong trường
hợp này là đúng luật.
+ Khoản 3 Điều 10, Luật HN-GĐ quy định về cấm kết hôn
giữa những người cùng dòng máu về trực hệ, giữa những người có họ trong
phạm vi ba đời không có tính khả thi khi áp dụng tại các vùng dân tộc
thiểu số. Thực tế ở một số địa phương cho thấy, tình trạng kết hôn vi
phạm điều cấm này vẫn còn diễn ra vì theo tập quán của địa phương, những
người cùng một “họ” là anh, em (bao nhiêu đời cũng không lấy nhau
được), còn những người khác “họ” (mặc dù vẫn trong phạm vi ba đời) thì
vẫn được lấy nhau.[24]
Thực tế, một số Tòa án địa phương đã có có quyết định
hủy kết hôn trái pháp luật đối với các trường hợp tảo hôn, kết hôn cận
huyết thống… nhưng thường khó được thi hành do cơ chế cưỡng chế thi hành
các loại án này chưa cụ thể. Ngoài ra, do tảo hôn và kết hôn cận huyến
thống không thể được đăng kết hôn tại UBND cơ sở, nên những trường hợp
này thường là những cặp nam nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký
kết hôn. Cán bộ tư pháp do đảm nhiệm nhiều công việc ngoài nhiệm vụ đăng
ký và quản lý hộ tịch tại địa phương nên không thể nắm bắt được một
cách chính xác về số lượng và tình hình tảo hôn cũng như kết hôn cận
huyết thống tại địa phương.
Có nhiều lý do cho thực trạng kết hôn cận huyết ở một
số địa phương, trong đó: (1) Nam, nữ thanh niên dân tộc thiểu số không
có điều kiện học tập nâng cao tri thức do kinh tế khó khăn; (2) do ảnh
hưởng của tập tục (bị thúc ép lấy vợ, chồng sớm để có người lao động, có
người nối dõi); (3) do mê tín, dị đoan, nhiều gia đình tổ chức lễ cưới
hỏi cho con cái do đi xem lá số; (3) cán bộ hộ tịch khó có thể phát hiện
được hai bên nam nữ đến đăng ký kết hôn có quan hệ họ hàng với nhau hay
không do Luật chưa quy định cụ thể về những người có cùng dòng máu trực
hệ, những người có quan hệ họ hàng thân thuộc. Ngoài ra, trên thực tế,
có nhiều trường hợp kết hôn ở đời thứ 4, đời thứ 5 nhưng theo tập quán
thì họ vẫn có mối quan hệ họ hàng nên không được kết hôn và bị gia đình,
cộng đồng không cho kết hôn hoặc không thừa nhận hôn nhân, từ đó dẫn
đến các tranh chấp trong các mối quan hệ hôn nhân rất phức tạp.[25]
- Về yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật: Điều 15
Luật HN-GĐ quy định bên bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn theo quy định
của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu tòa án hoặc đề
nghị Viện kiểm sát yêu cầu tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do
việc kết hôn vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 9 của Luật này. Như vậy,
Luật HN-GĐ mới chỉ quy định việc kết hôn không tuân thủ điều kiện kết
hôn là trái pháp luật và có thể bị tòa án xem xét, quyết định hủy việc
kết hôn đó. Tuy nhiên, Luật chưa quy định cụ thể các trường hợp kết hôn
trái pháp luật cần thiết phải xử hủy và những trường hợp kết hôn trái
pháp luật không cần thiết phải xử hủy mà cần công nhận hôn nhân cho các
bên đương sự.
Hiện nay, khi giải quyết hủy việc kết hôn trái pháp
luật, Tòa án đã áp dụng điểm d, mục 2, Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP
(23/12/2000) của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao về hướng dẫn
áp dụng một số quy định của Luật HN-GĐ năm 2000 quy định từng trường
hợp cụ thể để xem xét, quyết định hủy kết hôn trái pháp luật hay công
nhận hôn nhân của các đương sự. Đây là quy định phù hợp với thực tiễn,
bảo vệ được các quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, điều
này lại không được cụ thể hóa trong luật nên gây lúng túng cho cơ quan
có thẩm quyền khi giải quyết. Qua thực tiễn thi hành cho thấy, quy định
của Luật HN-GĐ năm 2000 về vấn đề hủy kết hôn trái pháp luật còn mang
tính cứng nhắc. Trên thực tế, việc kết hôn trái pháp luật do nhiều
nguyên nhân khác nhau như bị cưỡng ép, một bên vợ hoặc chồng mất năng
lực hành vi dân sự nhưng trong nhiều trường hợp, trong quá trình chung
sống, vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc và bản thân người vợ hoặc
chồng không có yêu cầu hủy việc kết hôn thì không nhất thiết phải hủy
quan hệ hôn nhân đó.[26]
2.2.3. Về cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính
Vấn đề kết hôn của những người đồng tính và việc thực
hiện, bảo vệ các quyền con người của họ đã và đang là vấn đề thực tiễn ở
Việt Nam. Trong thời gian qua, nhiều người đồng tính đã ở tình trạng bị
kỳ thị, phân biệt đối xử hoặc bạo lực gia đình[27]. Trong khi đó pháp
luật Việt Nam nói chung và Luật HN-GĐ nói riêng chưa có quy định rõ
ràng về bảo vệ quyền của người đồng tính. Khoản 5 Điều 2 Luật HNGĐ năm
2000 quy định một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và
gia đình là “Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử
giữa các con, giữa con trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong
giá thú và con ngoài giá thú”. Quy định có tính liệt kê ở nguyên tắc
này, vô hình chung đã loại trừ việc kỳ thị, phân biệt đối xử với con là
người đồng tính, song tính hoặc chuyển giới (LGBT) không thuộc nội dung
của nguyên tắc này. Mặt khác, khoản 5 Điều 10 Luật này quy định cấm
việc kết hôn giữa những người cùng giới tính. Việc sử dụng quy phạm “cấm”
việc kết hôn giữa những người cùng giới tính dễ tạo ra hiệu ứng định
kiến xã hội đối với người đồng tính. Trên thực tế, một số cơ quan thi
hành pháp luật ở một số địa phương và một bộ phận xã hội đã lấy quy định
tại khoản 5 Điều 10 để giải thích cho những ứng xử có tính chất kỳ thị
và phân biệt đối xử liên quan đến LGBT nói chung, người đồng tính nói
riêng trong hôn nhân và gia đình…
Qua tổng kết thi hành nhiều ý kiến cho rằng, cần nhìn
nhận đồng tính là một xu hướng tính dục tự nhiên, việc thừa nhận cũng
là tự nhiên, không nên ngăn cấm. Cùng với sự phát triển về kinh tế, nhận
thức của xã hội thì hợp thức hóa hôn nhân giữa những người cùng giới đã
trở thành vấn đề thời sự.
Thực tế này đòi hỏi các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cần nghiên cứu một cách nghiêm túc và bài bản về quyền của LGBT
trong hôn nhân và gia đình nói chung, quyền kết hôn của người đồng tính
nói riêng, đảm bảo tính nhân bản, công bằng và bình đẳng trong công
nhận, thực hiện và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình.[28]
2.2.4. Về quan hệ chung sống như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn
Luật HN-GĐ năm 2000 quy định việc chung sống như vợ
chồng mà không có đăng ký kết hôn thì không được thừa nhận là có quan hệ
vợ chồng (khoản 1 Điều 11). Trong trường hợp các bên trong quan hệ
chung sống có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công
nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết
theo quy định liên quan đến việc hủy kết hôn trái pháp luật.
Để hướng dẫn các quy định trên của Luật, nhiều văn
bản dưới luật của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao cũng đã được ban hành, như: Nghị quyết số
35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật HN-GĐ;
Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ quy định chi
tiết về đăng ký kết hôn theo quy định của Nghị quyết số 35/2000/QH10;
Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2000
hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về việc thi
hành Luật HN-GĐ; Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định
của Luật HN-GĐ năm 2000…
Các quy định này đã phần nào tạo cơ sở pháp lý để các
bên thực hiện đầy đủ, có trách nhiệm quyền, nghĩa vụ của mình, khuyến
khích các cặp vợ chồng chưa đăng ký kết hôn đi đăng ký kết hôn; hạn chế
các ảnh hưởng tiêu cực của việc chung sống như vợ chồng mà không có đăng
ký kết hôn; tôn trọng, bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của các bên
trong quan hệ.
Tuy nhiên, pháp luật hiện hành còn chưa bao quát hết
được các trường hợp chung sống như vợ chồng trên thực tế. Luật mới chỉ
đề cập đến việc nam, nữ chung sống như vợ chồng, còn việc chung sống như
vợ chồng giữa những người cùng giới tính hoặc của người chuyển giới thì
chưa được quy định.
Mặt khác, nhiều ý kiến cho rằng pháp luật mới chỉ
quan tâm đến việc thừa nhận hay không thừa nhận hôn nhân, mà chưa có các
quy định cần thiết để điều chỉnh các vấn đề nhân thân và tài sản phát
sinh từ sự chung sống đó (quan hệ cha mẹ và con; quan hệ giữa các bên
chung sống…). Các văn bản dưới Luật quy định về vấn đề này chủ yếu chỉ
điều chỉnh các quan hệ chung sống phát sinh trước ngày 01/01/2001. Trong
khi đó, trên thực tế đã và đang tồn tại rất nhiều trường hợp nam nữ
chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn (trong xu thế
phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay,
việc chung sống như vợ chồng ngày càng có chiều hướng gia tăng). Đây là
vấn đề lớn liên quan đến các quyền cơ bản của cá nhân, sự ổn định trong
các quan hệ xã hội, sự công khai, minh bạch trong các giao dịch cần được
quy định cụ thể trong Luật HN-GĐ.
Tuy pháp luật HN-GĐ hiện hành công nhận các trường
hợp chung sống như vợ chồng trước năm 1987 là hợp pháp nhưng chưa có
tiêu chí xác định chung sống như vợ chồng và cơ quan nào xác nhận điều
đó. Tuy nhiên, trường hợp vừa sống chung với nhau và có con chung, sau
đó lại kết hôn với một người khác thì xác định hôn nhân nào là hợp pháp
theo nguyên tắc một vợ một chồng là điều không đơn giản cho việc công
chứng văn bản giấy tờ liên quan. Trong khi khai nhận hay phân chia di
sản thừa kế của người đó, hay khi xác định tài sản chung, riêng để định
đoạt trong một giao dịch dân sự thì việc xác định có tồn tại quan hệ
chung sống như vợ chồng và có hợp pháp hay không lại là một thủ tục
không thể thiếu.
Đặc biệt, đối với đồng bào dân tộc thiểu số, việc kết
hôn chủ yếu được thực hiện theo phong tục, tập quán (kết hôn có sự
chứng kiến của gia đình, cộng đồng dân cư và được những người này thừa
nhận). Vì vậy, tình trạng chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết
hôn còn khá phổ biến ở một số địa phương có đồng bào dân tộc ít người,
vùng xa.[29]
Ở khía cạnh khác, pháp luật mới chỉ quy định việc
chung sống như vợ chồng dưới góc độ hôn nhân thuần túy mà chưa nhìn nhận
các bên sống chung hình thành một gia đình với đầy đủ các nhu cầu của
một thiết chế xã hội; chưa quy định cụ thể quan hệ nhân thân, con, tài
sản chung và giao dịch phát sinh của các trường hợp trên trong quá trình
chung sống, gây khó khăn cho việc giải quyết khi có tranh chấp trên
thực tế.
Có nhiều nguyên nhân của tình trạng chung sống như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn, trong đó chủ yếu là:
(1) Do trình độ dân trí còn thấp, không đồng đều nên
chưa nhận thức được các quyền và nghĩa vụ, hậu quả pháp lý của việc
chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn;
(2) Do ảnh hưởng của yếu tố tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo về kết hôn ở địa phương và cộng đồng;
(3) Do tác động của tình trạng “hôn nhân thử” có xu hướng mở rộng trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và tự do cá nhân;
(4) Do thủ tục đăng ký kết hôn có nhiều cứng nhắc,
chưa bảo đảm thuận lợi cho người dân thực hiện quyền kết hôn của mình,
nhất là khi cá nhân có sự di biến động rất lớn giữa nơi có hộ khẩu với
nơi học tập, làm ăn, sinh sống.
Trong thực tiễn vẫn xảy ra nhiều trường hợp nam, nữ
sống chung như vợ chồng vì hoàn cảnh hoặc lý do khác nhau, họ không đăng
ký kết hôn, trong đó có cả những trường hợp do chủ quan, tin tưởng lẫn
nhau nên không xem việc đăng ký kết hôn là quan trọng. Những cặp nam nữ
này vẫn sống một cách bình thường, hạnh phúc như các cặp nam nữ có đăng
ký kết hôn, có trường hợp đã có Sổ hộ khẩu trong đó ghi tên đầy đủ một
trong hai bên là chủ hộ, còn bên kia là chồng hoặc vợ của chủ hộ, tên
con cái đầy đủ, con có giấy khai sinh trong đó tên cha mẹ ghi đầy đủ
(qua thủ tục nhận cha mẹ con), có cặp đã lớn tuổi có cả Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất hoặc quyền sở hữu nhà ghi tên đầy đủ hai người với tư
cách là vợ chồng, là tài sản chung của vợ chồng hình thành trong thời kỳ
sống chung như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn. Những cặp nam nữ
này, khi họ ly hôn, nếu áp dụng Điều 87 Luật HN-GĐ năm 2000: “Trong
trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý
và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1
Điều 11 của Luật này; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết
theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật này” và khoản 3 Điều 17 quy định: “Tài
sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc
quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thoả thuận của
các bên; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết, có
tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính
đáng của phụ nữ và con” thì việc chia tài sản theo quy định trên là
chưa hợp lý, vì có những tài sản đã hình thành trong thời kỳ hai bên
sống chung như vợ chồng, đã hỗ trợ cho nhau trong đời sống gia đình mà
có được, không thể xác định được phần chia cụ thể theo công sức đóng góp
của hai người.[30]
2.3. Về quan hệ giữa vợ và chồng
Quy định về quan hệ giữa vợ và chồng trong Luật HN-GĐ
năm 2000 tuy đã đạt được một số thành tựu nhất định như đã góp phần
tích cực kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa, các giá trị đạo đức
trong quan hệ hôn nhân nói riêng, quan hệ gia đình nói chung; đề cao
tình nghĩa, bình đằng giữa vợ và chồng; bảo đảm quyền và nghĩa vụ của vợ
chồng đối với nhau và của vợ chồng đối với gia đình, đồng thời tôn
trọng quyền tự do cá nhân của vợ, chồng trong các quan hệ gia đình, quan
hệ xã hội; bảo đảm sự thuận lợi của vợ chồng trong tham gia giao dịch,
quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba…. Tuy nhiên, trong thực tiễn
thi hành cũng đã phát sinh một số bất cập như:
* Về quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng: Luật chưa
quy định cụ thể trách nhiệm pháp lý trong trường hợp một bên hoặc cả hai
bên vợ chồng vi phạm các nghĩa vụ nhân thân được quy định trong Luật
HN-GĐ, cũng như chưa quy định cụ thể quyền của bên bị vi phạm. Việc quy
định không rõ ràng này không bảo đảm công bằng trong thụ hưởng quyền và
thực hiện nghĩa vụ trong hôn nhân.
* Về chế độ tài sản giữa vợ và chồng:
- Luật quy định chưa rõ ràng về chế độ sở hữu tài sản
của vợ chồng, thiếu cơ chế công khai minh bạch về tài sản chung, tài
sản riêng. Sự không minh bạch này gây hậu quả là sự không an toàn cho
các giao dịch dân sự liên quan đến người thứ ba.
- Quy định của Luật về tài sản trong hôn nhân chủ yếu
đề cập đến tài sản tiêu dùng, quyền sử dụng đất, còn các tài sản khác
như chứng khoán, tài sản trong doanh nghiệp thì chưa được đề cập tới,
gây khó khăn trong quá trình giải quyết tranh chấp.
- Điều 25 của Luật quy định vợ hoặc chồng phải chịu
trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai
người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình.
Trên thực tế, nhiều giao dịch do một bên vợ hoặc chồng thực hiện, không
phải đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình (ví dụ, nghĩa vụ
phát sinh từ các giao dịch đầu tư, kinh doanh, hụi, họ, cho vay nặng
lãi…), khi có tranh chấp xảy ra Luật chưa quy định cụ thể khi nào vợ
chồng phải chịu liên đới trong thực hiện nghĩa vụ với người thứ ba[31].
- Quy định về căn cứ xác định tài sản của vợ chồng
tại Điều 27 của Luật còn nhiều vướng mắc, chưa có cách hiểu thống nhất
trong áp dụng pháp luật hoặc chưa phù hợp giữa quy định của pháp luật
với thực tiễn xã hội:
+ Quan điểm thứ nhất cho rằng, tài sản mà vợ chồng
đang quản lý, sử dụng chung (có trước hoặc sau thời kỳ hôn nhân) mặc dù
do một người đứng tên nhưng không có văn bản thỏa thuận là tài sản riêng
thì đó vẫn là tài sản chung; tài sản riêng của vợ hoặc chồng nhưng đã
đưa vào khai thác, sử dụng chung là tài sản chung;
+ Quan điểm thứ hai cho rằng, tài sản
riêng có trước khi kết hôn hoặc tài sản được thừa kế riêng, được tặng
cho riêng (do một người đứng tên) mặc dù được đưa vào khai thác, sử dụng
chung nhưng không có văn bản thỏa thuận đưa vào tài sản chung thì vẫn
là tài sản riêng.
Trên thực tế hiện nay, khi xảy ra tranh chấp tài sản
chung, riêng của vợ, chồng các Tòa án đều theo quan điểm thứ hai để áp
dụng và phân xử. Việc áp dụng này xét về lý là hoàn toàn phù hợp, tuy
nhiên lại không phản ảnh đúng thực trạng xã hội. Nếu xem xét kỹ chế định
về tài sản của vợ chồng trong các quy định của pháp luật và thực tế
giải quyết các vụ việc tranh chấp tài sản chung khi ly hôn, thì quan
điểm thứ nhất nên được áp dụng. Vì khi kết hôn các cặp vợ chồng thường
được bố, mẹ bên chồng hoặc bên vợ cho hai vợ chồng đất để ở riêng tạo
lập cuộc sống. Việc tặng, cho này thường chỉ bằng lời nói, hành vi.
Trong quá trình sử dụng, vợ chồng tự do kê khai và được Nhà nước cấp
quyền sử dụng đất. Quyền này được coi là tài sản chung của vợ chồng, nếu
có xảy việc ly hôn thì quyền lợi của người phụ nữ được bảo vệ. Trên
thực tế, có những cặp vợ chồng sống với nhau hàng chục năm nhưng không
quan tâm đến tài sản chung, riêng, khi xảy ra ly hôn người vợ thường
chịu nhiều thiệt thòi vì khi kết hôn đã không lập văn bản để nhập tài
sản riêng vào khối tài sản chung. Mặt khác, có những trường hợp sống
chung cùng gia đình nhà chồng, khi ly hôn người vợ không được xem xét
quyền lợi đối với nhà, đất, ngoại trừ công sức đóng góp tôn tạo, sửa
chữa. Do đó, việc quy định phải có văn bản thỏa thuận mới được coi là
tài sản chung là rất cứng nhắc, chưa phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, cần
phải có quy định cụ thể để xác định tài sản chung, tài sản riêng cũng
như đăng ký quyền sở hữu về tài sản của vợ và chồng.
- Khoản 3, Điều 28 của Luật quy định “việc xác
lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung
có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài
sản chung để đầu tư, kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận,
trừ khi tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng”. Đây
là một điều khoản chưa chặt chẽ, dễ bị lợi dụng vì không hề có biện pháp
chế tài. Trường hợp nếu người vợ, người chồng dùng tài sản chung để đầu
tư, kinh doanh mà không có thỏa thuận, không bàn bạc thì giải quyết như
thế nào? Thực tế đã xảy ra trường hợp người chồng với vai trò là chủ
gia đình thường đứng ra thực hiện các giao dịch, đăng ký quyền sở hữu
tài sản, đến khi có tranh chấp lại cho rằng đó là tài sản riêng do tặng
cho, thừa kế. Ngoài ra, quy định “tài sản có giá trị lớn hoặc nguồn sống duy nhất của gia đình”
cũng cần phải được giải thích rõ vì hiện nay Tòa án các cấp áp dụng
không giống nhau do chưa có tiêu chí nào xác định cụ thể vấn đề này.
Bên cạnh đó, một số khái niệm, cụm từ như “các nghĩa vụ chung của vợ chồng”, “lý do chính đáng” tại các Điều 28, 29 cũng gây nhiều tranh cãi bởi Luật không quy định rõ ràng và chưa có hướng dẫn cụ thể.
Hơn nữa, quy định này còn quá “mở”, bởi nếu
sau khi kết hôn, với lý do kinh doanh riêng, vợ chồng thỏa thuận chia
toàn bộ tài sản chung, tài sản của ai làm ra thuộc về người đó, thì khi
đó lợi ích của gia đình được xem xét như thế nào? Nếu thỏa thuận này
được thực hiện thì hôn nhân chỉ tồn tại về mặt nhân thân, bản chất của
quan hệ hôn nhân vì thế không được đảm bảo thực hiện đúng nghĩa.
Mặt khác, Luật mới chỉ công nhận vợ, chồng hoặc cả
hai vợ chồng có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân mà không công nhận quyền của người thứ ba. Trong trường
hợp vợ hoặc chồng không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để
thực hiện nghĩa vụ về tài sản của mình nhưng không yêu cầu chia tài sản
chung để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ thì quyền lợi của người thứ ba
không được đảm bảo.
Luật chưa có quy định cụ thể về nguyên tắc chia tài
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân trong trường hợp vợ chồng
không thỏa thuận được mà phải yêu cầu Tòa án giải quyết. Đồng thời, Luật
chưa quy định về việc ai là người có quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ thỏa
thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân trong
trường hợp thỏa thuận này vi phạm các điều kiện được quy định tại Điều
29 hoặc gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống gia đình. Hậu quả pháp
lý của việc Tòa án tuyên bố vô hiệu đối với thỏa thuận chia tài sản
chung của vợ, chồng cũng chưa được quy định.
- Điều 32 của Luật quy định, tất cả đồ dùng, tư trang
cá nhân đều thuộc khối tài sản riêng của vợ chồng dù chúng được hình
thành từ nguồn tài sản chung hay tài sản riêng của mỗi bên. Tuy nhiên,
Luật HN-GĐ cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành không có bất kỳ quy
định nào giải thích, hướng dẫn đồ dùng, tư trang cá nhân bao gồm những
loại nào dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Mặt khác, Luật không có quy
định giới hạn giá trị của các tài sản này sẽ dẫn đến nhiều trường hợp
quyền và lợi ích hợp pháp của người vợ, người chồng bị xâm phạm, nhất là
trong trường hợp đồ dùng, tư trang cá nhân đó chiếm một tỷ trọng lớn
trong khối tài sản chung của vợ chồng. Việc không xem xét tới yếu tố các
đồ dùng, tư trang cá nhân hình thành từ nguồn gốc tài sản chung hay tài
sản riêng có thể dẫn tới trường hợp chuyển hóa tài sản chung thành tài
sản riêng của vợ, chồng khi người vợ, người chồng lợi dụng dùng tài sản
chung để mua đồ dùng, tư trang cho bản thân mình ảnh hưởng đến quyền lợi
của bên kia.
- Có ý kiến cho rằng cách quy định tài sản chung,
riêng như tại các Điều 27, 28, 32 nói trên có những điều bất hợp lý và
khó xác định trên thực tế. Có nhiều trường hợp quyền sử dụng đất có
trước thời kỳ hôn nhân, sau khi kết hôn mới có giấy chứng nhận thì theo
quy định lại trở thành tài sản chung. Ngoài ra, cũng có nhiều trường hợp
vợ, chồng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong thời kỳ hôn nhân
nhưng tiền nhận chuyển nhượng lại là tiền riêng của một bên…
- Điều 33 của Luật quy định vợ chồng có quyền chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình, trừ trường hợp tài sản
riêng của vợ hoặc chồng đã được đưa vào sử dụng mà lợi tức từ tài sản
riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản
riêng đó phải được sự thỏa thuận của cả vợ chồng. Đây là điều khoản hợp
tình, hợp lý, có tính nhân văn, nhưng Luật không quy định rõ thế nào là “nguồn sống duy nhất của gia đình”.
Chính vì vậy, trong thực tế rất khó để buộc người có tài sản riêng đó
thực hiện việc thỏa thuận vì khi đã là tài sản riêng được công chứng rõ
ràng họ có toàn quyền quyết định dù đó là nguồn sống duy nhất của gia
đình. Do vậy cần có văn bản hướng dẫn cụ thể để không gây thiệt thòi cho
bên còn lại[32].
2.4. Về xác định cha, mẹ, con
Quy định về xác định cha, mẹ, con trong Luật HN-GĐ đã
phần nào tạo cơ sở pháp lý quan trọng bảo đảm tôn trọng, bảo vệ quyền
của trẻ em sinh ra có gia đình của mình, cũng như quyền làm cha, làm mẹ
của cá nhân; xác định các bên trong quan hệ cha, mẹ, con, trên cơ sở đó
xác lập, bảo đảm thực hiện các quyền, nghĩa vụ nhân thân và tài sản
trong quan hệ cha mẹ và con; kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức
trong gia đình Việt Nam… Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại, thiếu sót
trong quá trình thực thi Luật.
- Về nhận cha, mẹ, con: Khoản 1 Điều 63 Luật HN-GĐ
quy định con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.
Do vậy, con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân, khi đăng ký khai sinh phải
ghi đầy đủ tên của người cha và người mẹ vào Giấy khai sinh và Sổ đăng
ký khai sinh. Trong trường hợp có người khác xin nhận là cha của đứa trẻ
đó, người cha và mẹ trong giấy khai sinh đều đồng ý cho người thứ ba
nhận con, trường hợp này căn cứ theo Điều 64 Luật HN-GĐ phải do Tòa án
giải quyết. Bởi lẽ, người cha trong giấy khai sinh là người chồng hợp
pháp, người chồng đó đồng ý cho người khác nhận con tức là từ chối nhận
con. Như vậy, Tòa án cho người đó từ chối nhận con, sau đó người thứ ba
mới có quyền nhận con tại UBND xã, phường theo quy định. Tuy nhiên,
trong thực tiễn, một số Tòa án từ chối giải quyết vì cho rằng trường hợp
này không có tranh chấp. Do vậy, cần thiết phải có quy định cụ thể về
trường hợp nhận con mà con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân của người
khác.
- Điều 63 Luật HN-GĐ quy định rất chung về giấy khai
sinh của con không có tên cha, chỉ có tên mẹ, sau đó người mẹ yêu cầu
Tòa án xác định cha cho con. Trong trường hợp người cha đã bỏ địa phương
đi nơi khác mà người mẹ không biết địa chỉ hoặc tìm ra được người cha
hoặc người cha hiện có mặt ở địa phương nhưng không đồng ý tiến hành xét
nghiệm gen, lúc đó giải quyết như thế nào. Vì luật không quy định và
Tòa án không thể buộc họ phải phối hợp để xét nghiệm;
Pháp luật chưa quy định cụ thể về cơ chế pháp lý bảo
đảm cho người phụ nữ yêu cầu xác định cha cho con. Theo nguyên tắc tố
tụng, người phụ nữ khi có yêu cầu xác định một người là cha của con mình
thì họ phải có nghĩa vụ và cung cấp chứng cứ. Việc cung cấp chứng cứ,
đặc biệt chứng cư về gen trong nhiều trường hợp gặp nhiều khó khăn nếu
người được xác định là cha từ chối việc xác định gen. nếu cần thiết có
thể yêu cầu giám định gen và họ phải chịu chi phí giám định gen;
- Luật chưa quy định cụ thể về các trường hợp xác
định cha, mẹ, con trong những trường hợp đặc thù, như: con sinh ra sau
khi hôn nhân chấm dứt (ly hôn hoặc người chồng chết); con được sinh ra
theo phương pháp khoa học, nhưng tinh trùng được dùng để cấy phôi không
phải tinh trùng của người chồng…[33]
2. 5. Về quan hệ giữa cha, mẹ, con và giữa các thành viên khác trong gia đình
Thực tiễn thi hành cho thấy quan hệ giữa cha, mẹ, con
và các thành viên khác trong gia đình được quy định từ Điều 34 đến Điều
84 và một số quy định liên quan của Luật HN-GĐ năm 2000 đã góp phần
tích cực trong xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành
viên trong gia đình; kế thừa, phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của
gia đình Việt Nam; quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong
gia đình được tôn trọng và bảo vệ, đặc biệt của phụ nữ và trẻ em; tuy
nhiên nhiều quy định của Luật còn mang tính nguyên tắc, không cụ thể,
chưa phù hợp với thực tiễn hoặc chưa kế thừa, phát huy được truyền thống
văn hóa, đạo đức của gia đình Việt Nam.
* Về quan hệ giữa cha, mẹ, con:
Quy định về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con còn
quá chung, chưa cụ thể và không phù hợp, nhất là trong quan hệ giữa cha
mẹ với con đã thành niên. Việc quy định không rõ ràng có thể tạo sự nhận
thức không đúng về trách nhiệm của cha mẹ đối với con và của con đã
thành niên đối với cha mẹ.
Bên cạnh đó, trong đời sống xã hội vẫn tồn tại trường
hợp cha mẹ không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với con,
đặc biệt là khi con bị tàn tật, không có khả năng tự nuôi bản thân hoặc
con không thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ khi già yếu,
cô đơn, nhưng Luật HN-GĐ chưa có chế tài đủ mạnh để nâng cao trách nhiệm
của người vi phạm và bảo vệ lợi ích của người bị vi phạm.
* Về quan hệ giữa các thành viên trong gia đình:
+ Quan hệ “người thân thích” có quyền và nghĩa vụ với
nhau được quy định trong nhiều văn bản pháp luật, nhưng BLDS và Luật
HN-GĐ chưa có quy định cụ thể về người thân thích và phạm vi người thân
thích dẫn tới cách hiểu và việc áp dụng pháp luật không thống nhất.[34]
Bên cạnh đó, Luật HN-GĐ năm 2000 chưa có giải thích về khái niệm “thành viên gia đình”, trong khi Khoản 2 Điều 1 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy định “bạo
lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc
có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành
viên khác trong gia đình”.
+ Luật còn thiếu quy định về quyền và nghĩa vụ của
người nuôi dưỡng mà không phải là cha, mẹ, con của người được nuôi
dưỡng; không ghi nhận đầy đủ những lợi ích của người nuôi dưỡng cần được
bảo đảm khi thực hiện hành vi nuôi dưỡng (con dâu, con rể và cha mẹ
chồng, cha mẹ vợ; con riêng với cha dượng, mẹ kế; anh, chị, em nuôi
nhau…). Điều này không phù hợp với truyền thống văn hóa, đạo đức của dân
tộc Việt Nam là đề cao hành vi dưỡng dục so với hành vi sinh thành – “công sinh không bằng công dưỡng”[35].
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 38 Luật HN-GĐ thì bố
dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc của chồng có nghĩa vụ và quyền
chăm sóc, nuôi dưỡng lẫn nhau khi cùng chung sống với nhau. Điều 679
BLDS năm 2005 cũng quy định việc con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có
quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế
di sản của nhau. Tuy nhiên, thực tế rất khó xác định trường hợp nào là
có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, trường hợp nào không do pháp luật chưa
quy định căn cứ chứng minh việc nuôi dưỡng, chăm sóc lẫn nhau giữa con
riêng và bố dượng, mẹ kế;
+ Đối với đồng bào các dân tộc ít người, quan hệ giữa
các thành viên trong gia đình được Luật và Nghị định số 32/2002/NĐ-CP
quy định tương đối chi tiết, cụ thể; Nhà nước ta cũng vận động, khuyến
khích đồng bào các dân tộc thiểu số xóa bỏ những phong tục, tập quán lạc
hậu đã và đang tạo nên sự đối xử kỳ thị bất bình đẳng giữa các thành
viên trong gia đình. Tuy nhiên, việc tuyên truyền, vận động xóa bỏ trên
thực tế vẫn còn gặp nhiều khó khăn.[36]
Mặt khác, pháp luật không công nhận quan hệ hôn nhân
giữa những người chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn. Trong
khi đó, gia đình của người dân tộc ít người chủ yếu là gia đình lớn, có
nhiều thế hệ chung sống với nhau. Do đó, khi có tranh chấp tài sản và
các quyền lợi khác sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của thành viên
trong gia đình như con dâu hoặc con rể ở cùng gia đình. [37]
2.6. Về cấp dưỡng
Các vấn đề liên quan đến cấp dưỡng được quy định tại
các Điều từ 50 đến 55 Luật HN-GĐ năm 2000 và trong Nghị định số
70/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03 tháng 10 năm 2001. Các quy định này
đã luật hóa một nghĩa vụ cơ bản và quan trọng giữa cha, mẹ và con; giữa
anh chị em với nhau; giưa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa vợ và
chồng trong những trường hợp nhất định khi một bên cần sự hỗ trợ từ bên
kia. Điều này cũng xuất phát từ truyền thống tương thân, tương ái của
dân tộc ta. Tuy nhiên, quy định về cấp dưỡng còn cứng nhắc, Luật
mới chỉ quy định việc cấp dưỡng giữa những người có quan hệ đương nhiên
về pháp luật (giữa vợ và chồng, cha mẹ và con, anh, chị, em ruột, ông bà
và cháu). Trong khi đó, tập quán và truyền thống văn hóa, đạo đức của
gia đình Việt Nam thường đề cao trách nhiệm của những người có quan hệ
thân thích với nhau theo phương châm: “sểnh cha còn chú, sểnh mẹ bú dì”.
Hạn chế này thể hiện tại khoản 1 Điều 50 Luật HN-GĐ chưa quy định nghĩa
vụ cấp dưỡng giữa những người thân thích khác (giữa cháu với cô, dì,
chú, bác…) mà giữa người được cấp dưỡng và người cấp dưỡng đã có quan hệ
chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như người trong gia đình.
Ngoài ra, quá trình áp dụng pháp luật về cấp dưỡng đã bộc lộ một số vướng mắc khác như:
- Điều 53 của Luật quy định mức cấp dưỡng do
các bên thỏa thuận, nếu thỏa thuận không được thì yêu cầu Tòa
án giải quyết. Tuy nhiên, trong thực tiễn các bên thường không
thể thỏa thuận được mà phải do Tòa án giải quyết. Thẩm phán
khi hòa giải, giải thích chỉ áp dụng mức cấp dưỡng thấp nhất
theo hướng dẫn là nửa tháng lương cơ bản. Mức cấp dưỡng này
thường không phù hợp cho nhu cầu thiết yếu của một người. Tuy
nhiên, khi người được cấp dưỡng yêu cầu tăng mức cấp dưỡng, người
có nghĩa vụ cấp dưỡng không đồng ý vì cho rằng mình không có
khả năng; Thẩm phán thì khó xem xét để tăng, mức tăng là bao
nhiêu nên thường quy định mức thấp nhất (chỉ tăng khi người cấp
dưỡng tự nguyện).
- Điều 56 quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con khi ly hôn: “Khi
ly hôn, cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con chưa thành niên hoặc con
đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng
lao động và không có tài sản để tự nuôi mình có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi
con. Mức cấp dưỡng cho con do cha, mẹ thoả thuận; nếu không thoả thuận
được thì yêu cầu Toà án giải quyết". Tuy nhiên, hiện nay việc yêu cầu cấp dưỡng sau khi ly hôn đang còn nhiều khó khăn, bất cập.
Trong thực tiễn giải quyết các vụ ly hôn, nếu các bên
không thỏa thuận được về cấp dưỡng thì Tòa án căn cứ vào những quy định
hiện hành và điều kiện khả năng thực tế của mỗi bên để quyết định giao
con cho một bên trực tiếp nuôi dưỡng. Theo đó, khi áp dụng Điều 92 thì: "Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con".
Đây là nghĩa vụ của cha, mẹ, do đó không phân biệt người trực tiếp nuôi
con có khả năng kinh tế hay không, người không trực tiếp nuôi con vẫn
phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Tuy nhiên, trên thực tế nhiều trường hợp sau khi ly
hôn, khoản tiền cấp dưỡng chưa bảo đảm được quyền lợi của đứa con, hoặc
khoản tiền cấp dưỡng sau khi ly hôn trở thành khoản nợ khó đòi. Theo quy
định thì mức cấp dưỡng được căn cứ vào mức thu nhập, giá cả thị trường
tại thời điểm xét xử vụ án. Khi ly hôn có rất nhiều trường hợp con còn ở
tuổi rất nhỏ có trường hợp 14 – 15 năm sau mới đủ 18 tuổi. Mức cấp
dưỡng lại bất di bất dịch trong khi thị trường đầy biến động, giá cả
ngày càng leo thang. Mức cấp dưỡng đã và đang trở thành gánh nặng cho
những người trực tiếp nuôi dưỡng con sau khi ly hôn; ngoài ra còn có
những trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng không tự nguyện thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng.
- Điều 60 Luật HN-GĐ quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng: “Khi
ly hôn, nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do
chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình”. Quy định này rất khó đi vào thực tiễn vì chưa phù hợp với mối quan hệ của những người đã ly hôn.
- Thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều trường hợp, do có
điều kiện kinh tế nên người trực tiếp nuôi con không yêu cầu cấp dưỡng
và Tòa án công nhận. Nhưng quyền nhận cấp dưỡng là quyền của người con
khi cha mẹ ly hôn nên người trực tiếp nuôi dưỡng không có quyền từ chối
cấp dưỡng. Việc từ chối cấp dưỡng sẽ dẫn tới quyền lợi chính đáng của
người con không được đảm bảo. Tuy nhiên, Luật HN-GĐ không quy định về
vấn đề này.
Hiện nay, nhiều trường hợp hai vợ chồng ly hôn (vợ là
nguyên đơn), nhưng người vợ đang mang thai và cả hai đều công nhận đó
là con chung của vợ chồng và thỏa thuận người chồng cấp dưỡng nuôi con
sau khi cháu bé sinh ra. Khi giải quyết việc cấp dưỡng tại Tòa, đối
tượng được hưởng cấp dưỡng chưa có tên, tuổi cụ thể xác định trong khi
đó, quyết định của Tòa án phải được ghi nhận cụ thể và chính xác để đảm
bảo công tác thi hành án sau này. Đây là nguyên nhân dẫn đến tranh chấp,
gây lúng túng trong việc xử lý.[38]
2.7. Về giám hộ giữa các thành viên trong gia đình
Mặc dù quy định về giám hộ trong Luật HN-GĐ (Điều 79 –
Điều 84) đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong bảo đảm cho thành viên
của gia đình là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự
được chăm sóc, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp; kế thừa, phát huy
truyền thống đạo đức trong gia đình; nâng cao trách nhiệm của các thành
viên trong gia đình trong thực hiện quyền, nghĩa vụ đối với nhau; tuy
nhiên nhiều nội dung quan trọng của giám hộ chưa được Luật HN-GĐ ghi
nhận hoặc chưa có sự đồng, bộ thống nhất với quy định về giám hộ trong
BLDS khi áp dụng pháp luật chuyên ngành thì địa phương gặp nhiều khó
khăn. Ví dụ: các trường hợp giám hộ đương nhiên, cử giám hộ, giám sát
giám hộ giữa các thành viên trong gia đình…[39]
2.8. Về ly hôn
Ly hôn là một chế định quan trọng trong Luật HN-GĐ,
được quy định từ Điều 85 đến Điều 99. Quy định của Luật về cơ bản đã bảo
đảm thực hiện nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; tôn trọng các
quyền nhân thân và tài sản của các bên trong ly hôn; quyền của phụ nữ và
trẻ em; quyền, lợi ích của người thứ ba; sự ổn định trong các quan hệ
gia đình và quan hệ xã hội. Tuy nhiên, qua quá trình thi hành Luật
HN-GĐ, chế định ly hôn đã bộc lộ những hạn chế sau: [40]
- Về căn cứ ly hôn: Luật HN-GĐ quy định về căn cứ lý
hôn dựa trên thực trạng quan hệ hôn nhân,[41] không dựa trên yếu tố lỗi
của vợ chồng trong việc làm phát sinh mâu thuẫn dẫn tới ly hôn. Việc xác
định căn cứ ly hôn vì thế còn định tính, trừu tượng, khó xác định và
cũng không bao quát được hết các trường hợp vợ chồng có yêu cầu chính
đáng về ly hôn.[42] Xác định trách nhiệm của người vi phạm quyền, nghĩa
vụ trong hôn nhân vì thế đã không được quy định rõ ràng trong Luật.
Nhiều trường hợp việc giải quyết ly hôn đã bị lạm dụng bởi một số đương
sự nhằm để tránh né các chế tài do đã vi phạm chế độ hôn nhân một vợ –
một chồng, đồng thời để hợp pháp hóa quan hệ ngoại tình của mình trong
thời kỳ hôn nhân.
- Về việc giải quyết yêu cầu thuận tình ly hôn:
Theo quy định tại Điều 90 Luật HNGĐ năm 2000, thì để
quyết định đồng ý cho ly hôn hay không Tòa án phải xem xét mâu thuẫn gia
đình đã đến mức trầm trọng hay chưa; một trong những biểu hiện của việc
mâu thuẫn gia đình đã trầm trọng và không thể hàn gắn được, ví dụ như:
đã được họ hàng, gia đình, cơ quan, tổ chức khuyên nhủ, hòa giải nhưng
không thành. Chính vì vậy, trên thực tế, khi có bất cứ một việc yêu cầu
ly hôn nào, không phân biệt là thuận tình ly hôn hay đơn phương yêu cầu
ly hôn thì thủ tục hòa giải vẫn là thủ tục bắt buộc. Việc hòa giải được
thực hiện từ cơ sở đến Tòa án.
Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 28 Bộ luật TTDS đối
với trường hợp giải quyết việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn thì
có thể thụ lý theo việc dân sự, trong khi đó, bản chất của việc dân sự
là xác nhận một sự kiện pháp lý, nên về nguyên tắc không có thủ tục hoà
giải và không có thủ tục phản tố. Chính vì mâu thuẫn này mà thực tế tại
các Tòa án hiện nay, kể cả với các việc yêu cầu công nhận thuận tình ly
hôn thì Tòa án vẫn thụ lý theo vụ án dân sự hôn nhân gia đình chứ không
thụ lý theo trình tự giải quyết việc dân sự.
- Về quyền yêu cầu ly hôn: Theo khoản 8 Điều 8 của Luật HN-GĐ, “ly hôn là chấm dứt hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng”.
Như vậy, quyền yêu cầu ly hôn là quyền nhân thân gắn liền với người vợ,
người chồng và không thể chuyển giao cho người khác. Quyền tự do ly hôn
của vợ, chồng được pháp luật ghi nhận nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của vợ, chồng. Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt, pháp
luật vẫn hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của chồng. Cụ thể, theo Điều 85
Luật HN-GĐ thì “trong trường hợp người vợ có thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi người chồng không có quyền yêu cầu ly hôn”.
Như vậy, người chồng không thể và không có quyền đơn phương đệ đơn ra
Tòa yêu cầu ly hôn trong trường hợp này. Về mặt pháp lý, nếu như trong
trường hợp đứa trẻ được người vợ đang mang thai không phải là con của
người chồng thì người chồng có được xin ly hôn hay không? Theo quy định
hiện hành khi đứa trẻ đã được thành thai trong thời kỳ hôn nhân đương
nhiên là con của vợ chồng. Tuy nhiên, đây chính là sự bất cập của pháp
luật, vì trên thực tế, khi biết được đứa con người vợ đang mang thai
không phải là con của mình, người chồng sẽ có những diễn biến tâm lý bất
thường dễ dẫn đến phạm tội.
- Về đại diện trong ly hôn: Điều 73 Bộ luật TTDS quy
định đối với việc ly hôn, đương sự không được ủy quyền cho người khác
thay mặt mình tham gia tố tụng, nhưng hiện nay Luật HNGĐ năm 2000 chưa
có quy định cụ thể về vấn đề ai sẽ là người đại diện cho người vợ hoặc
chồng bị mất năng lực hành vi dân sự khi bên kia yêu cầu ly hôn. Do vậy,
trong thực tế, giải quyết các vụ án ly hôn trong trường hợp này còn
nhiều vướng mắc.
- Về đường lối giải quyết ly hôn: Điều 86 Luật HN-GĐ
quy định về việc khuyến khích hòa giải ở cấp cơ sở đối với tranh chấp về
hôn nhân, gia đình. Do quy định không có tính bắt buộc nên nhiều vụ
việc Tòa án thụ lý chưa qua hòa giải ở cấp cơ sở; khi Tòa tiến hành hòa
giải theo Điều 88 Luật HN-GĐ thì các bên đoàn tụ, tiếp tục chung sống.
Từ đó cho thấy đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến lượng án hôn
nhân gia đình ngày càng tăng cao, tiêu tốn không ít ngân sách của nhà
nước.
- Về quyền, nghĩa vụ với con khi ly hôn: Luật HN-GĐ
chưa quy định cụ thể về căn cứ xác định việc Tòa án giao con cho ai nuôi
là đã “căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con”. Thực tế, khi Tòa
án quyết định giao con chưa thành niên cho cha hoặc mẹ trực tiếp nuôi
thì phải xem xét thêm các điều kiện khác như có thuận lợi cho việc thăm
nom cháu của những người thân thích khác hay không (ông bà nội, ngoại,
cô, chú, bác, cậu, dì) nhằm duy trì mối quan hệ gần gũi về huyết thống
và mối quan hệ bạn bè ở khu dân cư, trường học của người con trong
trường hợp này.
Thủ tục bắt buộc khi giải quyết ly hôn là Tòa án phải
hỏi ý kiến trẻ em từ 09 tuổi trở lên về việc sống với cha hay với mẹ.
Quy định này nhằm lấy ý kiến của con để Tòa án có cơ sở quyết định việc
nuôi dưỡng giao cho người mẹ hay người cha theo nguyện vọng của con. Tuy
nhiên, trên thực tế việc thực hiện thủ tục này gặp vướng mắc khi cha mẹ
trẻ em không hợp tác. Đây là quy định hợp tình, hợp lý, nhưng cách thực
hiện quy định này nên có sự thay đổi, không nên bắt buộc trẻ em đến Tòa
làm bản tường trình như hiện nay mà nên lấy ý kiến thông qua người
thân, thầy cô của trẻ em để tránh tâm lý nặng nề cho trẻ em.
Điều 94 Luật HN-GĐ năm 2000 quy định về quyền, nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con: “có
quyền thăm nom con; không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.
Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom
để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo
dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Toà án
hạn chế quyền thăm nom con của người đó”.
Quy định này trong quá trình áp dụng thực hiện còn
gặp những bất cập. Hiện nay vẫn chưa có văn bản dưới luật nào cụ thể hóa
quy định trên. Các hành vi “cản trở” hoặc “gây ảnh hướng xấu”
của một bên không trực tiếp nuôi con được hiểu như thế nào cho thống
nhất? hay nói cách khác những loại hành vi nào được cho là “cản trở” hoặc “gây ảnh hưởng xấu” đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa được quy định cụ thể.
Luật HN-GĐ chưa có quy định nào cấm hoặc hạn chế
người cha (mẹ) quyền thăm con trong trường hợp người này từng có hành vi
bạo lực gia đình trong quá khứ (đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc
truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi bạo lực gia đình). Ví dụ, trong
quá khứ người cha thường xuyên có hành vi bạo lực gia đình và việc thăm
nom của người này có thể sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện tâm lý
và tinh thần của trẻ em (vì khi gặp lại cha mình thì những hình ảnh bạo
lực gia đình có thể sẽ tái hiện lại trong trí nhớ của trẻ). Nhưng Tòa
án không quyết định hạn chế quyền thăm nom con sau khi ly hôn trong
trường hợp trên được vì hoàn toàn không có cơ sở pháp lý, bởi quyền thăm
nom con sau khi ly hôn chỉ bị Tòa án hạn chế khi “lạm dụng việc thăm nom để gây cản trở và gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con”.
- Về quan hệ tài sản: Điều 95 Luật HN-GĐ quy định khi
ly hôn tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có
xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp
của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản. Tuy nhiên,
Luật HN-GĐ và các văn bản hướng dẫn thi hành không quy định cụ thể về
hoàn cảnh của mỗi bên, tỷ lệ chia tài sản theo công sức đóng góp. Điều
này dẫn đến việc áp dụng không thống nhất giữa các Tòa án.
Mặt khác, Điều 96 của Luật quy định trường hợp vợ
chồng sống chung với gia đình một bên, khi ly hôn nếu tài sản của vợ
chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ
hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn
cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì phát
triển khối tài sản chung, cũng như vào đời sống chung của gia đình. Tuy
nhiên, căn cứ để xem xét công sức đóng góp của vợ hoặc chồng trong khối
tài sản chung không được quy định rõ ràng. Quy định như hiện nay là chưa
đảm bảo được quyền lợi về tài sản của người vợ khi chung sống với gia
đình chồng. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp khi ly hôn, người vợ
không được chia tài sản chung trong khối tài sản chung với gia đình
chồng, mặc dù trước đó họ có một thời gian dài đóng góp công sức xây
dựng khối tài sản đó.
2.9. Về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
Không thể phủ nhận, cùng với quá trình hội nhập quốc
tế của đất nước, các quan hệ HN-GĐ có yếu tố nước ngoài đã có sự phát
triển và có những chuyển biến tích cực[43]. Về pháp lý, Luật HN-GĐ năm
2000 đã có một chương riêng (Chương XI) từ Điều 100 đến Điều 106 quy
định về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Chính phủ và
Tòa án nhân dân tối cao cũng đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi
hành các quy định của Luật HN-GĐ năm 2000 về quan hệ hôn nhân có yếu tố
nước ngoài, như Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật HN-GĐ năm 2000 về quan
hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, Nghị định số 24/2013/NĐ-CP
ngày 28/3/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật HN-GĐ về
quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, Thông tư số
07/2002/TT-BTP ngày 16/12/2002 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số
điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP; Thông tư liên tịch số
15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 15/9/2011 của Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại
giao, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định về tương
trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự của Luật Tương trợ Tư pháp; Nghị
quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một
số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình… Những văn bản này là cơ
sở pháp lý cần thiết để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hiện tượng xã hội này
cũng đã phát sinh nhiều vấn đề tiêu cực như: tình trạng môi giới kết hôn
bất hợp pháp, kết hôn vì mục đích kinh tế,lợi dụng việc kết hôn nhằm
mục đích mua bán, bóc lột sức lao động của phụ nữ…[44]
Bên cạnh những đóng góp tích cực trong việc hình
thành cơ sở pháp lý cần thiết để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia
đình này, cũng đã có một số quy định chưa phù hợp với thực tiễn hiện
nay, chưa đảm bảo sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật như: chưa có sự
đồng bộ trong quy định của Luật với các hệ thống văn bản dưới luật về
điều kiện kết hôn với người nước ngoài; về từ chối đăng ký kết hôn; về
chức năng tư vấn, hỗ trợ hôn nhân của các trung tâm hỗ trợ kết hôn… Một
số quy định không phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự, hiệp định tương
trợ tư pháp mà Việt Nam ký với các nước.
Qua rà soát khung pháp luật về quan hệ hôn nhân có
yếu tố nước ngoài cho thấy hệ thống pháp luật tồn tại một số điểm bất
cập, hạn chế sau:
Thứ nhất, pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài chưa đầy đủ:
- Các quy định về điều kiện kết hôn trong Luật HN-GĐ
Việt Nam được áp dụng chung cho cả các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước
ngoài mà chưa có những quy định riêng về các điều kiện kết hôn với người
nước ngoài (chẳng hạn quy định chênh lệch về tuổi, có hiểu biết lẫn
nhau tại thời điểm đăng ký kết hôn).
- Trước khi Nghị định số 24/2013/NĐ-CP ban hành, chưa
có những quy định hướng dẫn hoạt động của Trung tâm hỗ trợ kết hôn
trong việc thực hiện chức năng tư vấn, môi giới hôn nhân.
- Hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có những quy định
xác lập thông tin về tình hình sinh sống của công dân Việt Nam kết hôn
với người nước ngoài và đang sinh sống ở nước ngoài (chẳng hạn pháp luật
chưa có quy định việc bảo hộ cho công dân Việt Nam là phụ nữ Việt Nam
sau khi kết hôn sang định cư ở Trung Quốc (Đài Loan), Hàn Quốc… nên việc
giúp đỡ các cô dâu Việt Nam khi gặp hoàn cảnh khó khăn còn nhiều hạn
chế do nhiều nguyên nhân: trình độ thấp, không có thông tin về các cơ
quan ngoại giao);
Thứ hai, pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài có những điểm chưa phù hợp với thực tiễn cuộc sống.
- Trước khi Nghị định số 24/2013/NĐ-CP ban hành, cơ
chế về tổ chức và hoạt động của các Trung tâm hỗ trợ kết hôn thuộc Hội
liên hiệp phụ nữ chưa thực sự có hiệu quả trong việc bảo đảm kết hôn
giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài đúng pháp luật và lành mạnh.
- Pháp luật chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn tình trạng kết hôn giả tạo nhằm mục đích khác.
Trong thực tiễn xét xử Tòa án nhân dân cũng đã gặp
nhiều vướng mắc khi giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài. Ví dụ, trường hợp người Việt Nam đi lao động xuất
khẩu ở nước ngoài, hết thời hạn hợp đồng lao động không về nước mà trốn ở
lại sống lưu vong ở nước đó, người vợ (chồng) ở Việt Nam muốn ly hôn
với họ, nhưng không biết họ đang ở đâu, không có liên lạc với gia đình.
Hoặc trường hợp người Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, sau một
thời gian sinh sống với vợ (chồng) ở nước ngoài trở về Việt Nam và có
yêu cầu ly hôn với chồng (vợ) của mình đang ở nước ngoài. Mặc dù các
trường hợp trên Tòa án đã thực hiện mọi biện pháp cần thiết như ủy thác
tư pháp ra nước ngoài nhưng vẫn không có kết quả, dẫn đến vụ việc không
được giải quyết, ảnh hưởng rất lớn tới quyền lợi của đương sự.
Bên cạnh đó, với những trường hợp 02 vợ chồng người
nước ngoài kết hôn tại nước ngoài, sau đó sinh sống tại Việt Nam, khi có
mâu thuẫn có đơn xin ly hôn tại Việt Nam, có Tòa áp dụng điểm g, khoản
2, Điều 410 Bộ luật TTDS để không thụ lý vụ án; có Tòa căn cứ khoản 14,
Điều 8 và khoản 1, Điều 104 Luật HN-GĐ để thụ lý vụ án; lại có Tòa áp
dụng Điều 26 Bộ luật TTDS để giải quyết tranh chấp hôn nhân. Hoặc các
trường hợp yếu tố nước ngoài chấm dứt khi đang giải quyết vụ án, thẩm
quyền của Tòa đó không còn nhưng có Tòa vẫn không chuyển thẩm quyền theo
quy định; hoặc có trường hợp vẫn tồn tại yếu tố nước ngoài nhưng vướng
mắc về quy định của pháp luật về tố tụng, về đường lối giải quyết, về
việc thực hiện ủy thác… nên đã vi phạm về thời hạn giải quyết vụ án.
- Ngoài ra, đối với các quy định cụ thể, ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương tập trung vào những nội dung sau:
+ Hiện nay theo quy định của pháp luật Việt Nam, độ
tuổi kết hôn của người nữ là từ 18 tuổi trở lên, nam từ 20 tuổi trở lên.
Trong khi đó, quy định về độ tuổi kết hôn của một số nước và vùng lãnh
thổ thấp hơn so với Việt Nam (Như Anh, Mỹ, Úc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn
Quốc là trên 16 tuổi; ở Pháp là từ 15 tuổi). Do đó, cơ quan có thẩm
quyền sẽ gặp khó khăn khi thụ lý các hồ sơ xin công nhận việc đăng ký
kết hôn đã đăng ký ở cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài (ghi chú kết
hôn) vì ngoài việc xem xét hôn nhân có phù hợp với pháp luật Việt Nam
hay không còn phải tính đến quyền lợi của phụ nữ và trẻ em.
+ Tại khoản 2, Điều 100 quy định trong quan hệ HN-GĐ “Công
dân Việt Nam, người nước ngoài tại Việt Nam được hưởng các quyền và có
nghĩa vụ như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy
định khác”. Thực tế, theo quy định pháp luật Việt Nam về quyền sở
hữu bất động sản, trường hợp vợ hoặc chồng là người nước ngoài thì chưa
được đứng tên trên các giấy chứng nhận, dù tài sản được tạo lập trong
thời kỳ hôn nhân. Do đó, khi đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở, người vợ hoặc chồng là người nước ngoài phải lập văn bản cam kết tài
sản đó không thuộc tài sản chung của vợ chồng mà là tài sản riêng của
vợ hoặc chồng là người Việt Nam. Điều này không phù hợp với quy định, vì
khi đó tài sản chưa được cơ quan có thẩm quyền công nhận. Mặt khác, dù
tài sản đã có giấy chứng nhận, khi giao dịch cơ quan công chứng vẫn yêu
cầu người vợ hoặc chồng là người nước ngoài phải lập văn bản cam kết tài
sản riêng. Điều này cũng không phù hợp với bản chất vụ việc vì đây là
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
+ Điều 101 về áp dụng pháp luật nước ngoài đối với
quan hệ HN-GĐ có yếu tố nước ngoài quy định pháp luật nước ngoài sẽ được
áp dụng cho quan hệ HN-GĐ có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam nếu “việc
áp dụng đó không trái với các nguyên tắc quy định trong luật này”. Thực
tiễn cho thấy, việc áp dụng pháp luật nước ngoài để điều chỉnh quan hệ
HN-GĐ có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam là hoàn toàn cần thiết, đặc biệt
trong trường hợp có liên quan đến các điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên (ví dụ các Hiệp định tương trợ tư pháp) có quy định. Tuy
nhiên, điều kiện mà điều luật quy định không rõ ràng bởi pháp luật nước
ngoài sẽ không được áp dụng nếu trái với nguyên tắc quy định trong Luật
HN-GĐ năm 2000 mà cụ thể là những nguyên tắc tại Điều 2 của luật. Như
vậy, nếu pháp luật nước ngoài trái với những nguyên tắc có liên quan đến
quan hệ HNGĐ nhưng lại được quy định trong các văn bản pháp luật khác
(ví dụ: BLDS năm 2005) thì có được áp dụng hay không?
+ Khoản 3, Điều 102 Luật HN-GĐ năm 2000 quy định tòa
án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết các việc về HNGĐ có yếu tố
nước ngoài (trừ trường hợp quan hệ HNGĐ giữa công dân Việt Nam với công
dân nước láng giềng ở khu vực biên giới thuộc thẩm quyền giải quyết của
tòa án nhân dân cấp huyện). Do Luật HN-GĐ ban hành trước Bộ luật TTDS
năm 2004 nên cần thiết phải có quy định này. Tuy nhiên, từ thời điểm Bộ
luật TTDS năm 2004 có hiệu lực thi hành (1/1/2005), việc xác định thẩm
quyền của tòa án giải quyết các vụ việc HNGĐ đã được quy định cụ thể tại
Điều 27, 28, 34 và 35 nên quy định tại đoạn 1, khoản 3, Điều 102 trở
nên thừa vì trùng lắp với quy định của Bộ luật TTDS. Thực tiễn cũng cho
thấy, các tòa án khi xác định thẩm quyền cũng chỉ căn cứ vào quy định
của Bộ luật TTDS.
+ Khoản 2, Điều 103 Luật HN-GĐ quy định: “Nghiêm
cấm lợi dụng việc kết hôn có yếu tố nước ngoài để buôn bán phụ nữ, xâm
phạm tình dục đối với phụ nữ hoặc vì mục đích trục lợi khác”. Như
vậy, việc kết hôn giả, vì mục đích trục lợi bị cấm, nếu ai thực hiện là
trái pháp luật, nhưng do Luật HN-GĐ không quy định nội dung này nên thực
tế, Tòa án không xử lý hủy kết hôn đối với các trường hợp trên mà giải
quyết ly hôn. Đây là điều không phù hợp, hành vi vi phạm của các bên vẫn
không bị xử lý. Ngoài ra, chưa có quy định giải thích thuật ngữ “trục lợi khác” là gì? Vì vậy, việc áp dụng quy định này trong thực tế còn nhiều bất cập.
+ Khoản 3 Điều 104 quy định “việc giải quyết tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn phải tuân theo pháp luật nước nơi có bất động sản”
không phù hợp với thực tiễn, có rất nhiều trường hợp vợ chồng người
Việt Nam, sinh sống tại Việt Nam nhưng lại có tài sản là bất động sản ở
nước ngoài. Khi đương sự có yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, Tòa án đã
gặp nhiều khó khăn trong việc thu thập chứng cứ, đợi kết quả ủy thác tư
pháp ở nước ngoài, nhưng vẫn không giải quyết được vụ việc đương sự có
yêu cầu.[45]
+ Khoản 4, Điều 104 về “ly hôn có yếu tố nước ngoài”
quy định bản án, quyết định ly hôn của tòa án hoặc cơ quan khác có thẩm
quyền của nước ngoài được công nhận tại Việt Nam theo quy định của pháp
luật Việt Nam. Thời điểm năm 2000, việc công nhận bản án, quyết định của
nước ngoài được tiến hành theo quy định của Pháp lệnh Công nhận và thi
hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài ngày
17/4/1993 và Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về
đăng ký hộ tịch. Tuy nhiên, từ thời điểm Bộ luật TTDS năm 2004 có hiệu
lực thi hành, vấn đề công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự
của tòa án nước ngoài đã được bộ luật này điều chỉnh với nhiều quy định
mới nên quy định tại khoản 4, Điều 104 cũng trở nên thừa.
3. Những vấn đề đã phát sinh trong thực tiễn nhưng chưa được pháp luật quy định
3.1. Về việc xác lập chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận (chế độ tài sản ước định)
Về chế độ tài sản của vợ chồng, Luật HN-GĐ năm 2000
chỉ dự liệu một chế độ tài sản pháp định. Theo đó, Luật quy định chung
cho tất cả các cặp vợ chồng về căn cứ xác định tài sản chung, tài sản
riêng, về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng và về phân chia tài sản của vợ
chồng khi ly hôn. Về nguyên tắc, đây là chế độ tài sản trong hôn nhân
duy nhất được pháp luật thừa nhận. Việc áp đặt một chế độ tài sản trong
hôn nhân như vậy là cứng nhắc, không đáp ứng được những nhu cầu khác
nhau của các cặp vợ chồng trong việc thực hiện các quan hệ tài sản. Thực
tế, quy định của Luật, một mặt, không đảm bảo được quyền tự định đoạt
của người có tài sản được quy định trong pháp luật dân sự (Quyền về tài
sản là quyền cơ bản của cá nhân được Hiến pháp, BLDS bảo hộ : mỗi cá
nhân có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu
của mình theo ý chí của mình, miễn sao không xâm phạm lợi ích của người
khác, không trái với đạo đức xã hội), mặt khác, không phù hợp với hoàn
cảnh của từng cặp vợ chồng, từng gia đình “mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi
cảnh”, nhất là đối với những trường hợp vợ, chồng có nhiều tài sản
riêng, tiến hành các hoạt động kinh doanh, thương mại mà cần có một chế
độ tài sản trong hôn nhân phù hợp.
Hiện nay, Luật HN-GĐ đã ghi nhận và bảo vệ quyền sở
hữu tài sản riêng của vợ, chồng. Tuy nhiên, việc chứng minh đâu là tài
sản riêng trên thực tế hiện nay gặp rất nhiều khó khăn nếu hai bên không
có thỏa thuận trước hoặc không có các chứng cứ, tài liệu để chứng minh
cụ thể. Mặt khác, trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, nhiều trường
hợp một trong hai bên vợ (hoặc chồng) có con riêng, có công ty riêng
hoặc một trong hai bên đứng tên tài sản, bất động sản cho người khác
hoặc tình hình ly hôn có tỷ lệ ngày càng tăng cao… nhiều cặp vợ chồng
thấy cần thiết phải thỏa thuận về chế độ tài sản áp dụng trong thời kỳ
hôn nhân, trong đó xác định rõ những khối tài sản riêng của mỗi bên để
bảo đảm có căn cứ rõ ràng trong giải quyết các trường hợp nêu trên.
Trước như cầu khách quan như vậy, pháp luật cần có những quy định thừa
nhận hiệu lực của những thỏa thuận này. Có như vậy, quyền tự định đoạt
của vợ, chồng về tài sản của mình cũng như sự công khai, minh bạch trong
các giao dịch mới được bảo đảm, tránh những rắc rối, phức tạp có thể
xảy ra khi hôn nhân đổ vỡ.
Chính vì thế, qua thực tiễn tổng kết thi hành Luật
HN-GĐ năm 2000 cho thấy, việc lập hôn ước trước hôn nhân là cách ứng xử
công bằng và tiến bộ. Đó là cơ sở để bảo vệ tài sản riêng của từng cá
nhân. Nó trợ giúp kế hoạch dự trù tài sản riêng hay tài sản chung trong
hôn nhân, giúp giảm thiểu xung đột và tiết kiệm được án phí tranh tụng
trong trường hợp ly hôn… Thêm vào đó, việc lập hôn ước có thể củng cố
vững chắc quan hệ vợ chồng, bởi nếu hiểu rõ ràng ý kiến của nhau về tiền
bạc, tài sản sẽ giúp cuộc hôn nhân lâu bền hơn. Bên cạnh đó, việc thỏa
thuận tài sản trước khi kết hôn còn bảo đảm cho một cam kết hôn nhân
thực sự chứ không vì hôn nhân vụ lợi. Nó làm giảm tranh chấp khi ly hôn.[46]
Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế – xã hội và pháp
luật chung hiện nay ở nước ta, cần nghiên cứu sâu hơn về sự cần
thiết phải quy định thỏa thuận về tài sản trước khi kết hôn, hay nên
tiếp tục kế thừa và phát huy những quy định của Luật HN-GĐ năm 2000.
Tình nghĩa vợ chồng là vấn đề chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm
sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến
bộ, hạnh phúc, bền vững (Điều 18 Luật HNGĐ năm 2000), nếu quy định cụ
thể vấn đề chia tài sản trước khi kết hôn trong Luật, sẽ dẫn đến việc
“thực dụng hóa” một vấn đề cao quý của con người, đó là hôn nhân.
3.2. Ly thân
Nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một
chồng, vợ chồng bình đẳng là một trong các nguyên tắc cơ bản của chế độ
hôn nhân và gia đình Việt Nam. Tự nguyện trong hôn nhân bao gồm cả tự
nguyện trong kết hôn, tự nguyện trong giải quyết các mẫu thuẫn giữa vợ
chồng. Khi có mâu thuẫn trong hôn nhân, vợ chồng có quyền xác định
phương thức giải quyết mâu thuẫn tốt nhất, phù hợp với nguyện vọng, hoàn
cảnh của chính họ và gia đình họ, như: thông qua hòa giải (tự hòa giải
hoặc thông qua cá nhân, tổ chức có thẩm quyền về hòa giải), thông qua
biện pháp ly thân hoặc ly hôn. Ly thân, vợ chồng không sống cùng nhau
nhưng hôn nhân của họ vẫn tồn tại, để giảm sự căng thẳng, xung đột gay
gắt giữa vợ và chồng, để các bên có thời gian suy ngẫm, đánh giá về tình
cảm của vợ chồng, trách nhiệm với con cái và có thể sửa đổi tính tình
để vợ chồng đoàn tụ, tiếp tục chung sống.
Tuy nhiên, Luật HN-GĐ năm 2000 chỉ thừa nhận hai
phương thức giải quyết mâu thuẫn giữa vợ và chồng là thông qua hòa giải
và thông qua việc chấm dứt hôn nhân bằng ly hôn. Chế định ly thân chưa
được nhà làm luật Việt Nam thừa nhận, trong khi trên thực tế, vì nhiều
lý do khác nhau (do tuổi cao, danh dự, uy tín, sợ ảnh hưởng tâm lý của
các con…), nhiều cặp vợ chồng khi có mâu thuẫn đã không lựa chọn việc
chấm dứt hôn nhân bằng ly hôn mà đã thực hiện việc ly thân như là một
giải pháp. Nhiều trường hợp vợ chồng yêu cầu Tòa án giải quyết ly thân
để phân chia tài sản và xác định người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con, nhưng Tòa án không có căn cứ để thực hiện theo yêu cầu của
đương sự. Thực tế đã nảy sinh nhiều vấn đề. Chẳng hạn, nhiều trường hợp
vợ chồng khi sống ly thân đã xảy ra xung đột trong việc quyết định
quyền và nghĩa vụ nuôi con cái dẫn đến việc ảnh hưởng không nhỏ tới tâm
lý con trẻ ; hoặc trong thời gian ly thân, cả hai tạo ra thu nhập riêng,
tài sản riêng, đến khi ly hôn tòa án gặp khó khăn trong việc xác định
tài sản chung, tài sản riêng; trường hợp vợ chồng ly thân trong thời
gian dài, con chung sống với một trong hai bên mà bên còn lại không có
thỏa thuận cấp dưỡng, đến khi ly hôn, con chung đã trên 18 tuổi nhưng
bên nuôi con vẫn yêu cầu bên còn lại thanh toán tiền cấp dưỡng nuôi con,
yêu cầu này không được tòa án chấp nhận làm ảnh hưởng đến quyền lợi của
người nuôi con…
Hiện nay, ly thân là tình trạng diễn ra không ít
trong các gia đình, ví dụ: theo thống kê của UBND tỉnh Thanh Hóa cho
thấy có tới 90% các cuộc ly hôn đều trải qua giai đoạn ly thân. Ly thân
xảy ra khi vợ chồng không muốn sống chung với nhau, nhưng lại chưa đến
mức phải ly hôn (hoặc chưa thể ly hôn vì những ràng buộc về giáo lý hoặc
những lý do khác). Ly thân giúp cho con cái của họ không bị ảnh hưởng
nhiều đến tâm lý, không phải đối diện với sự đổ vỡ, khủng hoảng về tinh
thần vì cha mẹ ly hôn. Trong nhiều trường hợp, vợ chồng trải qua thời
gian ly thân lại trở về sống chung với nhau mà không phải ly hôn.
Có thể nói, ly thân là giải pháp cần thiết để vợ
chồng suy nghĩ cặn kẽ, nhìn lại khiếm khuyết của nhau trước khi quyết
định ly hôn. Ly thân là một thực tế cần được nhà nước và xã hội thừa
nhận. Tuy nhiên, do Luật HN-GĐ chưa có quy định về ly thân, nên cũng kéo
theo nhiều hệ quả, gây rắc rối, phức tạp cho quan hệ hôn nhân, gây khó
khăn cho một bên (trong trường hợp bên kia cố tình trì hoãn việc ly hôn
vì mục đích cá nhân).
Về vấn đề này, tại Hội nghị Tổng kết công tác ngành Tòa án năm 1995, Tòa án nhân dân tối cao đã có kết luận: “Luật HN-GĐ không quy định Tòa án thụ lý và giải quyết yêu cầu ly thân, nhưng Điều 18 Luật HN-GĐ
quy định, khi hôn nhân tồn tại, nếu một hoặc các bên yêu cầu và có lý
do chính đáng thì có thể chia tài sản chung vợ chồng. Trong trường hợp
này thông thường quan hệ vợ chồng đã rạn nứt, các đương sự thực tế đã ly
thân. Khi chia tài sản nếu họ đặt vấn đề Tòa án xác nhận tình trạng ly
thân thì Tòa án có thể xác nhận. Nếu các đương sự chỉ đơn thuần xin ly
thân thì Tòa án giải thích cho họ tự định đoạt mà không thụ lý giải
quyết cho ly thân hay không”. Như vậy, vấn đề ly thân đã được Tòa án
nhân dân tối cao nhắc đến và hướng dẫn Tòa án nhân dân các cấp thực
hiện ở những năm trước đây khi chưa có Luật HN-GĐ năm 2000.
Năm 2000, Chính phủ khi thực hiện dự án sửa đổi Luật
HNGĐ năm 1986 đã đưa chế định ly thân vào dự thảo Luật nhưng chưa được
Quốc hội chấp thuận.[47]
3.3. Mang thai hộ[48]
Luật HN-GĐ năm 2000 chưa có quy định cụ thể về mang
thai hộ. Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12 tháng 2 năm 2003 của Chính
phủ về sinh con theo phương pháp khoa học có quy định: nhà nước nghiêm
cấm các hành vi mang thai hộ và sinh sản vô tính. Trẻ ra đời do thực
hiện hỗ trợ sinh sản phải được sinh ra từ người mẹ trong cặp vợ chồng vô
sinh hoặc người phụ nữ sống độc thân và họ là cha, mẹ đối với đứa trẻ
sinh ra do thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (Điều 6, Điều 20).
Việc nghiêm cấm hành vi mang thai hộ nhằm tránh những
tiêu cực đã và đang xảy ra như: mang thai hộ nhằm mua bán trẻ sơ sinh
bất hợp pháp, mang thai hộ nhằm lách luật để sinh con thứ ba… Song, việc
nghiêm cấm này lại hạn chế mong muốn chính đáng của rất nhiều gia đình
hiếm muộn, vô sinh. Ví dụ: chị gái hiếm muộn, em gái muốn mang thai hộ
chị, được cả gia đình nhất trí, ủng hộ, nhưng pháp luật lại nghiêm cấm…
Như vậy, việc nghiêm cấm mang thai hộ đã gián tiếp ảnh hưởng đến nguyện
vọng chính đáng của công dân trong trường hợp mong muốn có “con nuôi”
mang dòng máu của gia đình mình. Dưới góc độ pháp lý, thỏa thuận giữa
người nhờ và người nhận mang thai hộ là loại thỏa thuận gì? Những thỏa
thuận này có trái với quan niệm đạo đức truyền thống không? Biện pháp
pháp lý ràng buộc các bên và chế tài pháp lý trong trường hợp không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng thỏa thuận? Hiện chưa có quy định nào
điều chỉnh vấn đề này.
Mặt khác, cho phép “mang thai hộ” không phải là cho
phép “đẻ thuê”. Cho phép “mang thai hộ” đối với một số đối tượng có chỉ
định để đảm bảo quyền làm mẹ chính đáng của mọi phụ nữ. Bản chất “mang
thai hộ” là hết sức nhân văn vì là một sự giúp đỡ của một người phụ nữ
này đối với người phụ nữ khác để sinh ra những đứa trẻ. Việc mang thai
hộ và sinh nở cũng là việc làm có ý nghĩa nhằm duy trì nòi giống, gắn
kết và giữ gìn hạnh phúc mỗi gia đình, bởi vì con cái là động lực để cha
mẹ chúng làm việc tốt hơn, sống có trách nhiệm hơn, góp phần vào sự ổn
định, phồn vinh của xã hội.
Trong thực tiễn xã hội, mang thai hộ và nhu cầu về
mang thai hộ là có thật. Với những người vợ vì bệnh lý mà không thể mang
thai và sinh nở được thì mang thai hộ là một giải pháp được nhiều cặp
vợ chồng lựa chọn giúp họ có được con. Có hai nhóm người nếu muốn có con
chỉ còn cách duy nhất là mang thai hộ. Một là, những phụ nữ có tử cung
không bình thường (tử cung bị dị dạng, tử cung bị bệnh lý như u xơ hay
bệnh về nội mạc, do tai biến sản khoa trước đó phải cắt bỏ tử cung). Hai
là, những người có tử cung bình thường nhưng sức khỏe không cho phép để
mang thai (ở nước ta gặp nhiều nhất là người mắc bệnh tim).
Do pháp luật cấm việc mang thai hộ, để thực hiện nhu
cầu làm cha, mẹ, nhiều người đã chấp nhận thực hiện dịch vụ mang thai hộ
thông qua môi giới, thông qua người nhận mang thai vì mục đích thương
mại. Mặt khác, cũng có người áp dụng biện pháp mang thai hộ vì lý do
không chính đáng khác (ví dụ như sợ sinh con cơ thể xấu đi, sợ tốn thời
gian…). Từ đó, có nhiều nguy cơ dẫn đến tình trạng thương mại hóa, dịch
vụ mang thai hộ phát triển mà nhà nước không kiểm soát được.
Đây là vấn đề thực tiễn, có tính thời sự, do đó cần được nghiên cứu để luật hóa trong Luật HN-GĐ (sửa đổi).[49]
4. Nguyên nhân của bất cập, hạn chế
Những bất cập, hạn chế trong công tác triển khai thi
hành Luật HN-GĐ và trong quy định của Luật HN-GĐ bắt nguồn từ các nguyên
nhân cơ bản sau:
4.1. Nguyên nhân khách quan
- Thứ nhất, Việt Nam đang hướng tới nền kinh
tế thị trường đầy đủ, hội nhập quốc tế sâu rộng, kinh tế – xã hội có
nhiều chuyển biến cơ bản, những thách thức mới ngày càng tác động tới
các quan hệ hôn nhân và gia đình, cũng như trong thực hiện bảo vệ quyền
về hôn nhân và gia đình của cá nhân. Thực tiễn đó đã làm cho nhiều quy
định của hệ thống pháp luật nói chung, Luật HN-GĐ nói riêng không còn
phù hợp với thực tiễn, cần có sự sửa đổi, bổ sung kịp thời;
- Thứ hai, các quan hệ trong hôn nhân và gia
đình mang nhiều đặc thù: các mối quan hệ đều gắn với nhân thân, mang
tính xã hội và nhân văn sâu sắc; nó vừa phản ánh quan hệ gia đình trong
xã hội hiện đại vừa chịu ảnh ảnh hưởng lớn của phong tục tập quán, yếu
tố bản sắc dân tộc; nó vừa là quan hệ tư nhưng cũng vừa chịu tác động
nhiều bởi chính sách, chiến lược của Nhà nước về xây dựng và phát triển
gia đình… Trong khi đó, nhiều quy định của Luật chưa bao quát được những
đặc thù này dẫn tới làm phát sinh nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực
tiễn xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật về hôn nhân và gia đình;
- Thứ ba, trong 12 năm Luật
HNN-GĐ có hiệu lực, nhiều văn bản luật có liên quan đã được sửa đổi, bổ
sung hoặc được ban hành mới, như: Luật Đất đai năm 2003, Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004,
Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Bình đẳng giới năm 2006, Luật Phòng, chống
bạo lực trong gia đình năm 2007, Luật Quốc tịch năm 2008, Luật Người
cao tuổi năm 2006, Luật Nuôi con nuôi năm 2010… Trong bối cảnh như vậy,
nhiều quy định của Luật HN-GĐ đã không còn bảo đảm tính hệ thống, không
còn phù hợp hoặc chưa có sự đồng bộ, thống nhất với các văn bản luật có
liên quan, ví dụ: quy định về tuổi kết hôn của nữ theo Luật hiện hành
(từ 18 tuổi) không đồng bộ với quy định về năng lực chủ thể của cá nhân
trong Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự dẫn đến mặc dù pháp luật
trao quyền kết hôn cho họ, nhưng pháp luật lại không quy định một cơ chế
pháp lý cho công dân quyền về tài sản, giao dịch hoặc tham gia quan hệ
tố tụng khi chưa đủ 18 tuổi…
Trong bố cảnh, hệ thống các văn bản pháp luật về hôn
nhân và gia đình thiếu tính ổn định, thường xuyên có nhiều thay đổi, bổ
sung, nhưng việc phối hợp của các ngành có liên quan để ban hành văn bản
hướng dẫn áp dụng pháp luật chưa kịp thời nên đã ảnh hưởng rất lớn tới
chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
- Thứ tư, sự phát triển kinh tế thị
trường, xu thế hội nhập quốc tế, sự tham gia ngày càng rộng rãi của gia
đình và các thành viên gia đình trong giao lưu dân sự đã làm cho các
tranh chấp về hôn nhân và gia đình ngày càng tăng về số lượng và phức
tạp về tính chất tranh chấp. Trong khi đó, hệ thống cơ quan xét xử còn
rất nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, trang thiết bị, trụ sở làm việc và
nguồn nhân lực. Đặc biệt là Việt Nam vẫn chưa có Tòa chuyên trách về
hôn nhân và gia đình, việc giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia
đình về cơ bản phải tuân theo thủ tục tố tụng dân sự. Do đó, hiệu quả
các giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình chưa cao, chưa đáp
ứng được yêu cầu của thực tiễn;
- Thứ năm, Việt Nam đã và đang không ngừng mở
rộng quan hệ ra thế giới và đã đạt được nhiều thành quả trong hội nhập
quốc tế. Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức quốc tế và là thành
viên nhiều điều ước quốc tế liên quan đến hôn nhân và gia đình (Công ước
CEDAW, Công ước về quyền trẻ em…), đồng thời đã ký kết nhiều hiệp định
tương trợ tư pháp với các nước trên thế giới, với những cam kết “phù hợp
hóa” luật pháp quốc gia với các hiệp định và quy định của các tổ chức
này trong lĩnh vực dân sự nói chung, hôn nhân và gia đình nói riêng. Hội
nhập quốc tế về lĩnh vực hôn nhân và gia đình cũng đang ngày càng mở
rộng và phát triển với những tác động tích cực, bên cạnh đó cũng làm
phát sinh rất nhiều hệ lụy về mặt xã hội và quản lý nhà nước, cần được
giải quyết về mặt chính sách và pháp luật .
4.2. Nguyên nhân chủ quan
- Thứ nhất, công tác quản lý nhà nước về gia
đình còn nhiều biến động (trước tháng 8/2007, công tác này được giao cho
Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em thực hiện và hiện nay, nhiệm vụ này
được Chính phủ giao cho Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), ngoài ra nội
dung về công tác gia đình thuộc thẩm quyền của nhiều Bộ, ngành khác
nhau. Do đó, việc triển khai công tác gia đình và triển khai thi hành
Luật HN-GĐ còn chưa thực sự bài bản, hệ thống. Số lượng và năng lực cán
bộ, công chức làm công tác chuyên trách về lĩnh vực hôn nhân và gia đình
còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu. Việc nhận thức và áp dụng pháp
luật HN-GĐ và các văn bản pháp luật khác có liên quan trong quá trình
giải quyết các quan hệ hôn nhân và gia đình chưa thống nhất, có nhiều
cách tiếp cận khác nhau;
- Thứ hai, công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật về HN-GĐ đã được thực hiện ở nhiều Bộ, ngành, địa
phương và tổ chức có liên quan, nhưng nhìn chung công tác này ở các cấp
chính quyền chưa sâu rộng, không thường xuyên, chưa kịp thời, hiệu quả
còn thấp nên nhận thức về pháp luật HN-GĐ trong nhân dân còn chưa cao;
- Thứ ba, trong công tác giải quyết các vụ
việc hôn nhân và gia đình, đội ngũ cán bộ, công chức của Tòa án nhân dân
các cấp nhìn chung chưa đủ về số lượng, một bộ phần còn bất cập về
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực công tác. Trong khi đó công
tác đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ mặc dù đã được
quan tâm nhưng vẫn chưa theo kịp yêu cầu của tình hình mới nên thẩm phán
còn gặp nhiều khó khăn trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia
đình, dẫn tới chất lượng giải quyết nhiều vụ việc về hôn nhân và gia
đình còn chưa cao;
- Thứ tư, việc phát huy vai trò của các cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền trong phối hợp giải quyết các vụ việc về hôn
nhân và gia đình hoặc trong công nhận, thực hiện và bảo vệ quyền về hôn
nhân và gia đình của người dân còn nhiều bất cập. Các cơ quan, tổ chức
có quyền về yêu cầu giải quyền các vụ việc về hôn nhân và gia đình ít
thực hiện được vai trò của mình do thẩm quyền đã thay đổi hoặc không
phát huy hết năng lực của cơ quan, tổ chức. Một số cơ quan, chính quyền
địa phương chưa phối hợp chặt chẽ, chưa quan tâm đúng mức đến công tác
của Tòa án, đặc biệt là việc cung cấp tài liệu, chứng cứ, công chứng,
giám định, thẩm định, đo đạc đất đai của các cơ quan, tổ chức có liên
quan không chính xác đã ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của công tác
giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ NHỮNG MẶT ĐƯỢC, CHƯA ĐƯỢC CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000
1. Những mặt được:
Luật HN-GĐ năm 2000 có tác động tích cực đến việc đề
cao vai trò của gia đình trong đời sống xã hội, giữ gìn và phát huy
truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Trên cơ
sở các quy định cụ thể về chế độ hôn nhân và gia đình; trách nhiệm của
công dân, nhà nước và xã hội trong xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và
gia đình; kết hôn; quan hệ giữa vợ và chồng; ly hôn; xác định cha, mẹ,
con; quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con, giữa các thành viên trong gia
đình; cấp dưỡng; giám hộ, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài… Luật đã góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân
và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các
thành viên trong gia đình, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành
viên trong gia đình, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp
của gia đình Việt Nam nhằm xây dựng gia đình, no ấm, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc.
Trên cơ sở vai trò của gia đình đối với xã hội được
phát huy, Luật HN-GĐ đã có những đóng góp tích cực trong việc phát triển
nguồn nhân lực; trong ổn định, và phát triển kinh tế – xã hội của từng
địa phương nói riêng và đất nước nói chung; trong tiến trình Việt Nam
hội nhập với đời sống quốc tế.
2. Những mặt chưa được:
Bên cạnh những mặt đã đạt được, Luật HN-GĐ cũng đã tồn tại nhiều mặt chưa đạt được, trong đó:
- Thứ nhất, một số quy định của Luật còn chưa
tạo ra cơ chế pháp lý hiệu quả trong điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và
gia đình vốn có nhiều đặc thù thù so với các quan hệ dân sự khác: các
quan hệ đều gắn với nhân thân, mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc; nó
vừa phản ánh quan hệ gia đình trong xã hội hiện đại vừa chịu ảnh hưởng
lớn của phong tục, tập quán và văn hóa; nó vừa là quan hệ tư nhưng cũng
vừa chịu tác động nhiều bởi chính sách, chiến lược của Nhà nước về xây
dựng và phát triển gia đình… Ví dụ: luật chưa quy định cụ thể khi nào
một tập quán về hôn nhân và gia đình được áp dụng;
- Thứ hai, một số quy định của Luật chưa thực
sự phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của các quan hệ dân sự – quan hệ
tư. Do đó, trong một số quan hệ, các thành viên trong hôn nhân và gia
đình chưa được quyền lựa chọn phương án ứng xử tốt nhất cho gia đình và
bản thân. Ví dụ: Luật còn thiếu quy định cho phép xác lập chế độ tài sản
của vợ chồng theo thỏa thuận – Chế độ tài sản ước định. Luật HN-GĐ hiện
hành chỉ quy định về chế độ tài sản pháp định. Quy định này chưa đảm
bảo thực hiện quyền tự thỏa thuận, tự định đoạt của người có tài sản
được quy định trong pháp luật dân sự; tạo ra sự cứng nhắc, không phù hợp
với hoàn cảnh của từng cặp vợ chồng, từng gia đình “mỗi cây mỗi hoa,
mỗi nhà mỗi cảnh” trong thực hiện các quyền tài sản; sự minh bạch trong
giao dịch; quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba, cũng như trong
bảo đảm căn cứ pháp lý để giải quyết tranh chấp về hôn nhân và gia đình;
- Thứ ba, một số quy định của Luật có tính khả
thi thấp làm cho việc công nhận, thực hiện các quyền về hôn nhân và gia
đình còn gặp nhiều khó khăn. Ví dụ: Luật HN-GĐ quy định tài sản thuộc
sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở
hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên cả hai vợ chồng.
Quy định này còn chưa phù hợp với thực tiễn đăng ký tài sản ở Việt Nam
và Nhà nước cũng không có văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành quy định
này. Do đó, thực tiễn thi hành mới chỉ áp dụng ở một mức độ đối với tài
sản là quyền sử dụng đất, nhà ở, còn những tài sản khác (phương tiện
giao thông, chứng khoán…) về cơ bản không thực hiện được việc ghi tên cả
hai vợ chồng trên giấy chứng nhận quyền sở hữu…;
- Thứ tư, một số quan hệ về hôn nhân và gia
đình phát sinh trong thực tiễn chưa được Luật quy định hoặc Luật quy
định không cụ thể, như: quan hệ nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không
có đăng ký kết hôn; ly thân; mang thai hộ…;
- Thứ năm, một số quy định của Luật còn chưa
đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn giao lưu dân sự, hội nhập quốc tế của
Việt Nam, như: quy định về tài sản của vợ chồng tham gia đầu tư, sản
xuất, kinh doanh; quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài…
[1] Tính đến ngày 13/4/2013 Bộ Tư pháp tiếp tục nhận
được Báo cáo tổng kết của tỉnh Đắk Lắk và Quảng Ngãi; Dự thảo báo cáo
tổng kết của tỉnh Vĩnh Long;
[2] Các tỉnh, thành phố chưa có Báo cáo Tổng kết thi hành Luật HN-GĐ: Hà Giang, Nghệ An, Ninh Thuận, Sơn La, Thái Nguyên;
[3] Tính đến ngày 13/4/2013 Bộ Tư pháp đã nhận được
Dự thảo Báo cáo tổng kết thi hành Luật HN-GĐ của Bộ Tài Nguyên và Môi
trường, Trung ương Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
[4] Những ý kiến cụ thể của các Bộ, ngành, địa phương
chưa được đưa vào trong Báo cáo này sẽ được Bộ Tư pháp, Ban soạn thảo,
Tổ biên tập nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung Luật và trong xây dựng Dự
thảo luật.
[5] Xem thêm các văn bản quy phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình tại Phụ lục số 01
[6] Trích dẫn từ Báo
cáo tổng kết thực tiễn thi hành Luật hôn nhân và gia đình 2000 của Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Báo cáo không cập nhật kết quả tham gia
công tác quản lý nhà nước về gia đình của Trung ương Hội liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam do chưa nhận được Báo cáo Tổng kết của Tổ chức này.
[7] Dự thảo này chưa cập nhật
các hoạt động tổ chức thi hành của Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt
Nam (vì chưa có Báo cáo tổng kết thi hành của tổ chức)
[8] Theo số liệu cung cấp của Vụ hành chính tư pháp,
Bộ Tư pháp và Báo cáo tại Hội toàn quốc công tác đăng ký, quản lý hộ
tịch và việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về hộ tịch của Bộ
Tư pháp.
[9] Theo số liệu thống kê của Vụ Hành chính tư pháp,
từ năm 2000 đến năm 2011 số lượng khai sinh trên toàn quốc là 19.102.485
trường hợp, kết hôn: 7.732.685 trường hợp, khai tử: 3.569.333 trường
hợp; từ năm 2000 đến năm 2010 số lượng các vụ nhận cha, mẹ, con là
130.537 trường hợp, giám hộ: 6376 trường hợp.
[10] Từ năm 2000 đến năm 2009, Bộ Tư pháp đã định kỳ
hướng dẫn địa phương 6 tháng/1 lần danh mục sách, tài liệu pháp luật cho
Tủ sách pháp luật xã, phường, thị trấn; biên soạn hàng trăm loại tờ
gấp; hơn 50 đầu tài liệu tuyên truyền các loại, trong đó có 7 đầu sách
hỏi – đáp pháp luật được dịch ra 10 tiếng dân tộc thiểu số khác nhau ;
hơn 200 đề cương tuyên truyền các nội dung pháp luật gắn bó mật thiết
với nông dân và đồng bào dân tộc thiểu số như: Luật Hôn nhân và gia
đình, Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, pháp luật về phòng và chống tệ nạn
ma túy, buôn bán phụ nữ, trẻ em… phát miễn phí cho địa phương để nhân
bản; biên soạn 13 băng cassette, trong đó có băng được dịch ra tiếng
H’Mông về các nội dung pháp luật thiết thực với nông dân và đồng bào dân
tộc thiểu số để cung cấp cho các huyện, xã phát trên hệ thống loa
truyền thanh cơ sở và 02 đĩa DVD tuyên truyền pháp luật dành cho đồng
bào dân tộc thiểu số.
[11] Từ năm 2000 đến năm 2009, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo
điểm, hỗ trợ kinh phí xây dựng 31 Câu lạc bộ “Nông dân với pháp luật”,
26 Câu lạc bộ “Phụ nữ với pháp luật” tại các địa phương, 63 câu lạc bộ
"Tuổi trẻ phòng chống tội phạm" tại 63 tỉnh, thành phố, mà phần lớn các
Câu lạc bộ này ở nông thôn và miền núi.
[12] Số liệu được cập nhật từ Báo cáo tổng kết thực tiễn thi hành Luật hôn nhân và gia đình 2000 của Tòa án nhân dân tối cao
[13] Số liệu được cập nhật từ Báo cáo tổng kết thực
tiễn thi hành Luật hôn nhân và gia đình 2000 của Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao
[14] Trước tháng 8/2007, công
tác gia đình được Chính phủ giao Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em ở
Trung ương và địa phương . Sau khi cơ quan này chấm dứt hoạt động, công
tác gia đình được chuyển giao cho Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và
nhiều nội dung có liên quan quan đến công tác gia đình được chuyển giao
cho các Bộ, ngành khác (Bộ Y tế, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội).
[15] Tòa án nhân dân tối cao
[16] Hội liên hiệp phụ nữ ít khi thực hiện quyền khởi kiện yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, cấp dưỡng.
[17] Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La
[18] Theo Ủy ban Dân tộc: Tỉnh Quảng Ninh có đến một
nửa số bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới có vận dụng tập quán để
giải quyết các tranh chấp không được Tòa án, Viện Kiểm sát cấp trên chấp
nhận.
[19] Theo báo cáo của Ủy ban Dân tộc, ở các địa
phương Lai Châu, Cao Bằng, Sơn La, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Quảng Ninh
hiện nay vẫn còn tồn tại một số phong tục ở những thôn bản vùng cao,
vùng sâu, vùng xa như: hiện tượng đặt dâu trước, tục ở rể (mặc dù các
phong tục này chỉ mang tính hình thức); tình trạng tảo hôn và hôn nhân
cận huyết; do ảnh hưởng tâm lý trọng nam, khinh nữ nên còn sinh đẻ không
có kế hoạch (đối xử với các thành viên trong gia đình chưa công bằng);
việc đăng ký kết hôn không do UBND cấp xã thực hiện; cấm kết hôn giữa
những người có họ trong phạm vi từ bốn đời trở lên; bắt buộc người phụ
nữ góa chồng hoặc người đàn ông góa vợ, nếu kết hôn với người khác thì
phải trả lại tiền cưới cho nhà chồng cũ hoặc nhà vợ cũ; đòi lại của cải,
phạt vạ khi vợ, chồng ly hôn.
[20] Về sính lễ, của hồi môn, Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao đã có hướng dẫn tại mục 3 Nghị quyết số
01/1988/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 hướng dẫn áp dụng một số quy định của
Luật HN-GĐ năm 1986. Tuy nhiên, hướng dẫn này không còn được áp dụng bởi
Luật HN-GĐ năm 1986 đã hết hiệu lực thi hành, trong khi Luật HN-GĐ năm
2000 không quy định. Tỉnh Quảng Ninh có đến một nửa số bản án, quyết
định của Tòa án cấp dưới khi áp dụng tập quán giải quyết các tranh chấp
không được Tòa án và Viện kiểm sát cấp trên chấp nhận…
[21] Nhiều Luật liên quan cũng đã thừa nhận năng lực
chủ thể đã thành niên của cả nam, nữ đã đủ 18 tuổi. Ví dụ: Điều 12 Luật
Nghĩa vụ quân sự quy định công dân nam giới đủ 18 tuổi được gọi nhập
ngũ; lứa tuổi gọi nhập ngũ từ đủ 18 tuổi đến hết 27 tuổi.
[22] Lai Châu (từ năm 2009 – 2011 có 166 người),
Thanh Hóa (năm 2010 và 2011 có 267 cặp vợ chồng), Sơn La (từ năm 2000 –
2005 có 577 cặp vợ chồng)
[23] Tòa án nhân dân tối cao, Ủy ban Dân tộc, UBND tỉnh Ninh Bình, Lâm Đồng, Hải Dương, Hòa Bình, Đồng Tháp, thành phố Hà Nội…
[24] Từ năm 2009 – 2011, tại tỉnh Lai Châu có 39 trường hợp kết hôn là những người có quan hệ họ hàng thân thích.
[25] Ủy ban Dân tộc, UBND tỉnh Hải Dương, Lâm Đồng, Hòa Bình, Bắc Giang, Kon Tum, Hà Nam…
[26] Tòa án nhân dân tối cao, UBND tỉnh Vĩnh Phúc, Ninh Bình, Sóc Trăng, An Giang, Yên Bái…
[27] Theo kết quả nghiên cứu
của Viện Nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường (iSEE) thì kỳ thị với
người đồng tính còn phổ biến, đặc biệt là qua lời nói với 95% người đồng
tính nam được hỏi đã từng nghe người khác nói người đồng tính là không
bình thường. Bên cạnh đó, khi bị phát hiện là người đồng tính 20% mất
bạn, 15% bị gia đình chửI mắng hoặc đánh đập; Nghiêm trọng hơn, 4,5% đã
từng bị tấn công vì là người đồng tính, 1,5% nói bị đuổi học, 4,1% đã
từng bị đuổi ra khỏi chỗ ở và 6,5% bị mất việc vì là người đồng tính.
[28] Bộ Y tế, UBND tỉnh Lào Cai, Gia Lai, Đồng Nai, Hải Dương, Tây Ninh, thành phố Cần Thơ…
[29] Theo số liệu thống kê của Ủy ban dân tộc: tỉnh
Thanh Hóa năm 2004 có hơn 40.101 chung sống với nhau như vợ chồng từ
ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 nhưng không đăng ký kết hôn (đã đăng
ký được 33.728 trường hợp), trong đó có 1298 trường hợp không đủ điều
kiện kết hôn; tỉnh Cao Bằng từ năm 2001 – 2012, Tòa án đã thụ lý và giải
quyết 371 vụ không công nhận là vợ chồng; Tỉnh Lai Châu từ năm 2009 –
2011 có 722 trường hợp.
[30] Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban Dân tộc,
UBND tỉnh Thanh Hóa, Lâm Đồng, Vĩnh Phúc, Kon Tum, Quảng Ninh, Bắc
Giang, thành phố Hồ Chí Minh…
[31] Theo Tòa án nhân dân tối cao: Thực tế trong công
tác xét xử cho thấy, việc xác định lợi ích thu được phục vụ cho nhu cầu
chung của gia đình (như tiền thu được từ chơi hụi – họ) được dùng để
mua nhà, đất cho gia đình còn nhiều bất cập. Nguyên đơn thường không đủ
chứng cứ để có thể chứng minh khoản tiền mà họ cho vay đã được bị đơn sử
dụng để “đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình”. Vì
vậy, thông thường Tòa án chỉ buộc được một bên (vợ hoặc chồng) phải trả
nợ cho nguyên đơn. Điều này dẫn đến việc thi hành án sẽ không thể thực
hiện được vì người vợ (hoặc chồng) không chấp nhận bán tài sản chung để
người kia thi hành án. Trong những trường hợp này, cơ quan thi hành án
thường phải để vợ chồng tự phân chia tài sản hoặc phải chờ bản án của
Tòa án xét xử phân chia tài sản chung của vợ chồng để có căn cứ thi hành
án. Nếu họ không tự phân chia hoặc không yêu cầu Tòa án phân chia thì
việc thi hành án sẽ bị kéo dài, gây thiệt hại cho nguyên đơn.
[32] Tòa án nhân dân tối cao, UBND tỉnh Lạng Sơn, Hòa
Bình, Tiền Giang, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Bình Thuận, Đồng Nai, Sóc Trăng,
thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ…;
[33] UBND tỉnh Thanh Hóa, Tây Ninh, Bến Tre, Bình Thuận, thành phố Đà Nẵng, Cần Thơ…
[34] Ví dụ: khoản 1 Điều 41 của Luật tố tụng hành
chính quy định người tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng
hoặc bị thay đổi trong trường hợp họ là người thân thích của các đương
sự; khoản 2 Điều 75 BLDS quy định Tòa án chỉ định một người trong số
những người thân thích của người vắng mặt tại nơi cư trú quản lý tài
sản…;
[35] Trên thực tiễn xét xử, khi giải quyết ly hôn,
Tòa án đã giao con cho vợ hoặc chồng nuôi dưỡng, chăm sóc con chung theo
đúng quy định của pháp luật, nhưng thực tế từ lúc sinh ra cho đến khi
bố mẹ ly hôn đứa trẻ chủ yếu sống cùng ông bà, bản thân đứa trẻ mong
muốn được tiếp tục sống cùng ông bà. Do đó, ông bà đã có đơn đề nghị Tòa
án giải quyết cho mình được nuôi dưỡng cháu thì Tòa án không có căn cứ
để thụ lý giải quyết.
[36] Ví dụ: Gia đình theo chế độ phụ hệ thì khi người
cha chết chỉ con trai mới có quyền hưởng phần di sản của người cha quá
cố để lại mà con gái không có quyền hưởng di sản thừa kế. Tương tự như
vậy, đối với gia đình theo chế độ mẫu hệ, chỉ con gái mới có quyền hưởng
phần di sản của người mẹ quá cố để lại mà con trai không có quyền hưởng
phần di sản thừa kế, vì họ quan niệm thành viên trong gia đình là những
người phải chung sống cùng một gia đình, khi không còn chung sống với
gia đình (đi lấy chồng hoặc ở rể) thì không có quyền và nghĩa vụ đối với
gia đình nữa.
[37] Ủy ban Dân tộc, UBND tỉnh Đồng Tháp, Lạng Sơn,
Quảng Trị, Đăk Nông, An Giang, Hà Nam, Hà Tĩnh, thành phố Hồ Chí Minh,
Hải Phòng…
[38] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, UBND tỉnh Thanh
Hóa, Hà Tĩnh, Bến Tre, An Giang, Cà Mau…
[39] UBND tỉnh Ninh Bình, Đồng Tháp, Bến Tre, Kon Tum, Hà Tĩnh, An Giang, Đăk Nông, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội…
[40] Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Lao động, Thương
binh và Xã hội, UBND tình Hà Tĩnh, Bình Thuận, Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh
Phúc, Cà Mau, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội…
[41] Căn cứ ly hôn theo quy định tại Điều 89 Luật
HN-GĐ: Một bên bị Tòa án tuyên bố mất tích hoặc quan hệ vợ chồng ở tình
trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn
nhân không đạt được.
[42] Hiện nay ngành Tòa án nhân dân nhận được rất
nhiều đơn yêu cầu ly hôn của một bên đề nghị ly hôn với người đang bị
truy nã do vi phạm pháp luật, nhưng Luật HNGĐ không có quy định cho ly
hôn trong trường hợp này nên Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện hoặc đình
chỉ giải quyết vụ án. Điều đó đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người đề nghị giải quyết cho ly hôn (Tòa án nhân dân tối cao).
[43] Công tác quản lý nhà nước đối với quan hệ hôn
nhân có yếu tố nước ngoài đã từng bước được nâng cao hiệu lực, hiệu quả;
công tác giáo dục, tuyên truyền, phối hợp giữa các cơ quan, giữa trung
ương và địa phương được triển khai thường xuyên, đồng bộ hơn; việc đăng
ký kết hôn, công nhận việc kết hôn, giải quyết những vấn đề liên quan
đến quốc tịch của cô dâu Việt Nam, bảo vệ và hỗ trợ cô dâu Việt Nam ở
nước ngoài về cơ bản đã đi vào nền nếp, bảo đảm nguyên tắc hôn nhân tự
nguyện, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam
trong quan hệ hôn nhân và gia đình với người nước ngoài (Thông báo số
133/TB-VPCP ngày 6 tháng 6 năm 2011 của Văn phòng Chính phủ về ý kiến
của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân tại Hội nghị toàn quốc về quan hệ
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài).
[44] Ở một số địa phương, nhiều
trường hợp kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với nam giới người nước ngoài,
phổ biến là với nam giới Hàn Quốc, Đài Loan, còn mang nặng mục đích kinh
tế, hoặc mang tính trào lưu, còn nhiều trường hợp thông qua môi giới
bất hợp pháp. Tại các tỉnh biên giới, nhiều trường hợp kết hôn giữa phụ
nữ Việt Nam và nam giới nước ngoài thường trú ở khu vực biên giới không
đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của hai nước; một số trường
hợp phụ nữ Việt Nam chung sống như vợ chồng với chuyên gia, công nhân
nước ngoài mà không đăng ký kết hôn tại một số địa phương có dự án đầu
tư của nước ngoài; tại một số tỉnh phía Nam, đã xuất hiện một số nam
giới gốc Phi không có giấy tờ, lý lịch rõ ràng, kết hôn hoặc chung sống
như vợ chồng với phụ nữ Việt Nam. Hoạt động kinh doanh môi giới kết hôn
bất hợp pháp của một số tổ chức, cá nhân vẫn tiếp tục diễn ra dưới nhiều
hình thức không lành mạnh, trái thuần phong mỹ tục của dân tộc, xúc
phạm danh dự, nhân phẩm của phụ nữ Việt Nam, gây phản cảm, bức xúc trong
dư luận. Nhiều trường hợp phụ nữ Việt Nam kết hôn với nam giới người
nước ngoài vì mục đích kinh tế, mang tính trào lưu hoặc thông qua môi
giới trái phép nên gia đình không hạnh phúc phải tìm cách quay trở lại
Việt Nam, phải mang hoặc gửi con về cho gia đình ở Việt Nam nuôi, làm
tăng nguy cơ mất cân bằng giới tính (thừa nam, thiếu nữ) ở Việt Nam
(Thông báo số 133/TB-VPCP ngày 6 tháng 6 năm 2011 của Văn phòng Chính
phủ về ý kiến của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân tại Hội nghị toàn quốc
về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài).
[45] Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch, UBND tỉnh Trà Vinh, Bến Tre, Lạng Sơn, An Giang, Bà Rịa
– Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng…
[46] UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, Hà Tĩnh, Bình Thuẫn,
Bà Rịa – Vũng Tàu, Lạng Sơn, Quảng Ninh, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội,
Hải Phòng…
[47] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, UBND tỉnh Hòa
Bình, Lào Cai, Bắc Giang, Hà Nam, Quảng Ninh, Phú Thọ, Bà Rịa – Vũng
Tàu, Bình Phước…
[48] Mang thai hộ được hiểu là dùng biện pháp kỹ
thuật lấy trứng của người phụ nữ và tinh trùng của người đàn ông để thụ
tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của một phụ nữ khác để nhờ
người này mang thai hộ.
[49] Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Y tế, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, UBND tỉnh Quảng Ninh, Quảng Trị, Lào Cai, Yên Bái, Hà Nam, thành phố Hà Nội, Đà Nẵng…
0 comments:
Post a Comment