TÀI LIỆU (DỰ THẢO) CHÍNH THỨC TẠI HỘI NGHỊ TOÀN QUỐC TỔNG KẾT THI HÀNH LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000 – 16/4/2013
BỘ TƯ PHÁP
Qua các thông tin, số 
liệu, đánh giá, nhận định được thể hiện trong Báo cáo tổng kết của 55 
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,[1]-[2] Báo cáo tổng kết của 7 Bộ,
 ngành và tổ chức có liên quan;[3] ý kiến bằng văn bản của 106 các cơ 
quan, tổ chức; Báo cáo kết quả của các tọa đàm, hội thảo khoa học, Bộ Tư
 pháp xây dựng Báo cáo này để tổng kết những kết quả đạt được và những 
bất cập, hạn chế của Luật hôn nhân và gia đình (Luật HN-GĐ) qua thực 
tiễn 12 năm thi hành như sau [4]:
I. NHỮNG KẾT QUẢ ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC TRONG QUÁ TRÌNH THỰC THI LUẬT HN-GĐ NĂM 2000
1. Trong công tác xây dựng văn bản hướng dẫn thi hành Luật
Trong 12 năm qua, công tác xây dựng văn bản hướng dẫn
 thi hành Luật HN- GĐ đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Cụ thể là, bảo
 đảm Luật HN-GĐ thực sự đi vào cuộc sống, ngày 9/6/2000, Quốc hội khóa X
 đã ban hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 về thi hành Luật này (Nghị quyết
 số 35/2000/QH10) trong đó đã quy định rõ trách nhiệm của Chính phủ, Toà
 án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi chức 
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tự mình hoặc phối hợp tổ chức việc 
rà soát các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình hiện hành để 
huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới, đề nghị Quốc hội, Uỷ ban 
thường vụ Quốc hội huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới cho phù 
hợp với quy định của Luật này, bảo đảm hiệu lực của Luật từ ngày 01 
tháng 01 năm 2001; nguyên tắc áp dụng pháp luật đối với những trường hợp
 nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước thời điểm Luật HN-GĐ 
năm 2000 có hiệu lực.
Thực thi Luật HN-GĐ và Nghị quyết số 35/2000/QH10, 
Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định để hướng dẫn chi tiết, như: Nghị 
định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 quy định chi tiết thi hành Luật 
HN-GĐ năm 2000; Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 quy định chi 
tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10; Nghị định số 
32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 quy định việc áp dụng Luật HN-GĐ đối với 
các dân tộc thiểu số; Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 quy định
 chi tiết thi hành một số điều của Luật HN-GĐ về quan hệ hôn nhân và gia
 đình có yếu tố nước ngoài; Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 
quy định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP 
ngày 10/7/2002 về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; 
Nghị định số 24/2013/NĐ-CP ngày 28/3/2013 quy định chi tiết thi hành một
 số điều của Luật HN-GĐ về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước 
ngoài … Bộ Tư pháp, Bộ Y tế, Bộ Ngoại giao cùng một số Bộ, cơ quan thuộc
 Chính phủ ban hành nhiều thông tư, thông tư liên tịch hướng dẫn thi 
hành các Nghị định của Chính phủ về thi hành Luật HN-GĐ.
Trong công tác tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao 
đã phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp ban hành 
Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2000 
hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 và nhiều văn bản liên tịch
 khác trong hướng dẫn một số quy định của Luật HN-GĐ để áp dụng thống 
nhất trong giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình. Đồng thời, 
Tòa án nhân dân tối cao cũng đã ban hành nhiều văn bản của ngành để 
hướng dẫn Tòa án các cấp áp dụng thống nhất pháp luật trong giải quyết 
các vụ việc về hôn nhân và gia đình, như: Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP 
ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
 áp dụng một số qui định của Luật HN-GĐ năm 2000; Nghị quyết số 
01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003, Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 
10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp 
dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn 
nhân và gia đình…
Những văn bản trên đã đóng vai trò tích cực, bảo đảm 
tính cụ thể và khả thi của các quy định của Luật HN-GĐ năm 2000 trong 
cuộc sống, bảo đảm sự thống nhất trong áp dụng pháp luật, từ đó quyền, 
nghĩa vụ của người dân về hôn nhân và gia đình được thực hiện, bảo vệ 
tốt hơn.[5]
2. Trong công tác tổ chức thi hành Luật HN-GĐ năm 2000
a) Trong công tác quản lý nhà nước về gia đình[6]
Công tác quản lý nhà nước về gia đình đã được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Trước tháng 8/2007, công tác này được giao cho Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em thực hiện và từ tháng 8/2007 đến nay, nhiệm vụ này được Chính phủ giao cho Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Ngày 16/5/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 106/2005/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2005 – 2010 với những mục tiêu chung “từng bước ổn định, củng cố và xây dựng gia đình ít con (mỗi cặp vợ chồng có một hoặc hai con), no ấm, tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc”. Phát huy những thành tựu của việc thực hiện Chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2005-2010, công tác gia đình đang tiếp tục thực hiện với Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Đề án “Tuyên truyền giáo dục đạo đức lối sống trong gia đình” với các nhóm nội dung liên quan đến hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình, phát huy truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc; xây dựng quan hệ hôn nhân và gia đình tiến bộ đang được triển khai tới cấp cơ sở và bước đầu đem lại nhiều kết quả rất tích cực.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xây dựng mô hình 
can thiệp, giảm tiêu cực trong kết hôn của phụ nữ Việt Nam với người 
nước ngoài tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và một số địa bàn trọng 
điểm phía Bắc như Hải Dương, Hải Phòng. Thông qua hình thức sinh hoạt 
các loại hình Câu lạc bộ, đặc biệt là Câu lạc bộ Gia đình, công tác 
tuyên truyền đem lại hiệu quả và là hình thức truyền thông trực tiếp 
được các địa phương áp dụng nhiều nhất để đưa Luật HN-GĐ vào cuộc sống. Ngoài ra, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành văn bản số 1481/BVHTTDL-GĐ ngày 13/5/2009 về thu thập số liệu quản lý về gia đình trong đó có số liệu về tảo hôn.[7]
b) Trong công tác hộ tịch[8]
Công tác hộ tịch trong 12 năm thi hành Luật HN-GĐ năm
 2000 đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng trong bảo 
đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ về hôn nhân và gia đình của cá nhân 
thông qua xác nhận các sự kiện hộ tịch về: khai sinh, khai tử; kết hôn; 
nhận cha, mẹ, con; giám hộ …[9]
Thực thi Mục 3, Nghị quyết số 35/2000/QH10 về việc áp
 dụng pháp luật đối với các trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như 
vợ chồng trước ngày Luật HN-GĐ năm 2000 có hiệu lực, ngày 22/10/2001 
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 77/2001/NĐ-CP quy định chi tiết về 
đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 theo tinh thần đơn giản,
 thuận tiện để khuyến khích và tạo điều kiện cho các trường hợp này đăng
 ký kết hôn. Tiếp đó, ngày 10 tháng 12 năm 2001, Bộ Tư pháp đã ban hành 
Thông tư số 07/2001/TT-BTP hướng dẫn cách thức, biện pháp tổ chức đăng 
ký kết hôn cho những trường hợp nói trên. Trong Chỉ thị số 
01/2002/CT-BTP ngày 2/1/2002 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về những nhiệm vụ 
trọng tâm của công tác tư pháp năm 2002, tại Mục 6 cũng đã nhấn mạnh 
việc "Hoàn thành về cơ bản đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 
35/2000/QH10 …"
Kết quả trong năm 2002, hầu hết 61/61 tỉnh, thành phố
 trong toàn quốc đã tổ chức rà soát, lập danh sách những trường hợp hôn 
nhân thực tế tại địa phương, phân loại theo hai đối tượng trước và sau 
ngày 3/1/1987 như Nghị quyết số 35/2000/QH10 và Nghị định số 
77/2001/NĐ-CP đã quy định. Theo báo cáo của 56/61 tỉnh, thành phố trực 
thuộc Trung ương, tính đến ngày 31/12/2002, các địa phương đã lập danh 
sách tổng cộng 925.753 trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ 
chồng từ sau 3/1/1987 đến trước ngày 1/1/2001 (các đối tượng có nghĩa vụ
 đăng ký kết hôn theo Điểm b, Mục 3 của Nghị quyết số 35/2000/QH10); 
trong đó các địa phương đã cấp đăng ký kết hôn được 623.489 trường hợp 
(đạt 68%), còn lại 302.264 trường hợp chưa đăng ký (chiếm 32%).
Kết quả trên cho thấy việc thực hiện Mục 3 Nghị quyết
 số 35/2000/QH10 và Nghị định số 77/2001/NĐ-CP về đăng ký hôn nhân thực 
tế cho thấy chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với vấn đề hôn nhân 
thực tế được quy định trong các văn bản pháp luật nói trên là phù hợp 
với thực tế, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, được các cấp ủy 
Đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng, tham gia 
thực hiện. Việc đăng ký hôn nhân thực tế cũng đã góp phần tăng cường 
quản lý nhà nước về công tác hộ tịch, hộ khẩu và các hoạt động quản lý 
khác của Nhà nước, bảo hộ các quyền về dân sự và hôn nhân, gia đình của 
người dân. Mặt khác, qua hoạt động đăng ký hôn nhân thực tế, ý thức pháp
 luật, đặc biệt là ý thức pháp luật về hôn nhân và gia đình của người 
dân được nâng lên một bước đáng kể.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã kịp thời tăng cường 
thể chế hóa, cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng nguồn nhân
 lực để công tác hộ tịch đáp ứng ngày càng tốt hơn trong việc thực thi 
các quyền nhân thân nói chung, quyền về hôn nhân và gia đình nói riêng 
của cá nhân. Công tác hộ tịch đã ngày càng đi vào nề nếp, đặc biệt trong
 khoảng hơn 10 năm trở lại đây (kể từ khi Nghị định số 83/1998/NĐ-CP có 
hiệu lực thi hành và tiếp đó là Nghị định số 158/2005/NĐ-CP). Với sự 
quan tâm, đầu tư của các cấp, ngành từ trung ương đến cơ sở, công tác hộ
 tịch đã có những bước tiến cơ bản và đạt những thành tựu quan trọng. Hệ
 thống cơ quan quản lý, đăng ký hộ tịch được củng cố, đội ngũ công chức 
làm công tác hộ tịch được tăng cường; hệ thống sổ sách, dữ liệu hộ tịch 
được lưu trữ và sử dụng lâu dài; đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành 
chính trong đăng ký hộ tịch; khẳng định vai trò trong quản lý nhà nước 
và bảo đảm quyền nhân thân của cá nhân nói chung và quyền về hôn nhân và
 gia đình nói riêng.
Tỷ lệ đăng ký khai sinh, khai tử, kết hôn, nhận cha, 
mẹ, con đã tăng lên khá cao, đặc biệt ở các khu vực miền núi, vùng sâu, 
xa, nơi điều kiện kinh tế còn khó khăn. Ví dụ, tại tỉnh Cao Bằng, năm 
2000 chỉ có 685 trường hợp đăng ký khai sinh nhưng năm 2011 đã tăng lên 
7.736 trường hợp, khai tử năm 2000 là 510 trường hợp thì năm 2011 đã 
tăng lên 927 trường hợp; Tại tỉnh Lào Cai, tính riêng đăng ký hộ tịch 
trong nước, năm 2000 số lượng khai sinh là 4.759 trường hợp, năm 2011 đã
 tăng lên 23.700 trường hợp, số lượng đăng ký kết hôn năm 2000 là 1.531 
trường hợp thì đến năm 2011 đã tăng lên 5.329 trường hợp. Việc ứng dụng 
công nghệ thông tin trong đăng ký và quản lý hộ tịch đã đạt những thành 
tựu bước đầu. Công tác đăng ký hộ tịch trong hôn nhân và gia đình có yếu
 tố nước ngoài đã có những chuyển biến tích cực, cơ bản đáp ứng yêu cầu 
quản lý nhà nhà nước cũng như đăng ký các việc hộ tịch về hôn nhân và 
gia đình phát sinh giữ công dân Việt Nam với người nước ngoài…
c) Trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
Trong 12 năm thi hành Luật HN-GĐ, công tác phổ biến, 
giáo dục pháp luật Luật HN-GĐ nói riêng, pháp luật HN-GĐ nói chung giữ 
vị trí quan trọng trong nâng cao sự hiểu biết, ý thức chấp hành pháp 
luật HN-GĐ của các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền và nhân dân. Bộ
 Tư pháp với vai trò là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước trong 
hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật đã tiến hành nhiều hoạt động thực
 hiện công tác này, như:
- Chủ trì xây dựng, trình Chính phủ ban hành chương 
trình, đề án, kế hoạch dài hạn, trung hạn về phổ biến, giáo dục pháp 
luật nói chung, trong đó có Luật HN-GĐ;
- Phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan để 
tổ chức các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, pháp luật 
về HN-GĐ nói riêng. Ví dụ: Bộ Tư pháp đã ký kết Chương trình hợp tác số 
14 ngày 2/10/2002 với Trung ương Hội phụ nữ Việt Nam về phối hợp phổ 
biến giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý cho phụ nữ, một trong các 
trọng tâm của chương trình này là phổ biến pháp luật, trợ giúp pháp lý 
về hôn nhân và gia đình;
- Tổ chức xây dựng Đề cương Luật HN-GĐ gửi các Bộ, ngành, địa phương, tổ chức có liên quan;
- Biên soạn, phát hành tài liệu như tờ rơi, tờ gấp, 
sổ tay pháp luật về hôn nhân và gia đình cho cán bộ, công chức, viên 
chức, nhân dân, chú trọng giới thiệu Luật HN-GĐ năm 2000 và những văn 
bản hướng dẫn mới ban hành; [10]
- Mở các lớp tập huấn, đào tạo cho các tuyên truyền 
viên, báo cáo viên ở trung ương và địa phương về công tác tuyên truyền, 
phổ biến các nội dung liên quan đến pháp luật hôn nhân và gia đình.
Cùng với các hoạt động của Bộ Tư pháp, các Bộ, ngành,
 địa phương, tổ chức có liên quan trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của 
mình cũng đã chủ động tiến hành các hoạt động để thực hiện công tác 
tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hôn nhân và gia đình như tổ chức tập
 huấn cho cán bộ, công chức ở các cấp, tổ chức thi tìm hiểu Luật HN-GĐ.
Tại các địa phương trên phạm vi toàn quốc, nhiều nơi 
đã thành lập các mô hình sinh hoạt cộng đồng như: Câu lạc bộ tiền hôn 
nhân, Câu lạc bộ không sinh con thứ ba, Câu lạc bộ phụ nữ với pháp luật,
 Câu lạc bộ thanh niên với pháp luật mà một trong các hoạt động chính là
 tuyên truyền, phổ biến Luật HN-GĐ và các văn bản hướng dẫn. [11]
Dưới góc độ quản lý nhà nước về gia đình, Chính phủ 
đã ban hành Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 quy định việc áp 
dụng Luật HN-GĐ đối với các dân tộc thiểu số đã quy định cụ thể trách 
nhiệm của Chính phủ và các Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phổ biến, 
giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý cho người dân thuộc các dân tộc ít 
người. Ngày 03/1/2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 02/2013/NĐ-CP về 
công tác gia đình đã quy định cụ thể trách nhiệm của Chính phủ, trong đó
 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực 
hiện quản lý nhà nước về công tác gia đình trong phạm vi toàn quốc mà 
trọng tâm là xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về gia 
đình; hướng dẫn và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội 
ngũ cán bộ làm công tác gia đình… Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
 nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp cùng các bộ, ngành khác phối hợp với Bộ 
Văn Hóa, Thể thao và Du lịch trong việc xây dựng chính sách pháp luật về
 công tác gia đình trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao. 
d) Trong công tác xét xử của ngành Tòa án nhân dân [12]
Ngành Tòa án nhân dân có vai trò quan trọng trong việc tuân thủ, chấp hành các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình trong thực hiện, bảo về các quyền về hôn nhân và gia đình của người dân. Ngành Tòa án đã tích cực thực hiện công tác triển khai thi hành Luật HN-GĐ. Bên cạnh việc tham gia ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật HN-GĐ, Tòa án nhân dân tối cao đã tiến hành nhiều hoạt động tập huấn nâng cao nghiệp vụ giải quyết các vụ việc dân sự nói chung, vụ việc về hôn nhân và gia đình nói riêng để hạn chế ban hành những bản án, quyết định thiếu rõ ràng, có sai sót hoặc khó thi hành…
Ngoài ra, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cũng được ngành Tòa án nhân dân chú trọng. Trong những năm qua, Tòa án nhân dân tối cao đã tích cực phối hợp với các bộ, ngành hữu quan thực hiện nhiều đề án tuyên truyền phổ biến pháp luật khác nhau, trong đó có nội dung tuyên tuyền phổ biến pháp luật về hôn nhân và gia đình; đăng tin, bài trên Tạp chí Tòa án nhân dân, Báo Công lý…
Với công tác triển khai thi hành Luật tích cực, hiệu quả, ngành Tòa án đã thực hiện tốt các quy định của Luật HN-GĐ và đạt nhiều kết quả quan trọng trong giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình, góp phần làm ổn định các quan hệ gia đình, thực hiện và bảo vệ tốt quyền của các thành viên trong hôn nhân và gia đình, của những người có quyền, lợi ích liên quan, qua đó góp phần làm ổn định các quan hệ kinh tế – xã hội của đất nước. Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, từ ngày 30/9/2000 đến ngày 30/9/2011 Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý 3.143.746 vụ việc dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính, hôn nhân gia đình. Trong đó, số vụ việc về hôn nhân và gia đình là 875.282 (chiếm khoảng 30% tổng số vụ việc dân sự đã thụ lý). Cụ thể như sau:
- Về công tác xét xử ở cấp sơ thẩm 
| Năm 2001 | Năm 2002 | Năm 2003 | Năm 2004 | Năm 2005 | Năm 2006 | Năm 2007 | Năm 2008 | Năm 2009 | Năm 2010 | Năm 2011 | Tổng cộng | |
| Tổng số vụ việc đã thụ lý | 55082 | 60265 | 57138 | 63151 | 65238 | 68833 | 74484 | 77624 | 94710 | 103332 | 121848 | 841.705 | 
| Số vụ việc đã giải quyết | 48878 (88%)  | 
51461 (85%)  | 
51618 (90%)  | 
57272 (90%)  | 
59791 (91%)  | 
64058 (93%)  | 
70204 (94%)  | 
66347 (85%)  | 
89609 (94%)  | 
97627 (94%)  | 
115331 (94%)  | 
772.201 (92%) | 
Việc giải quyết các vụ việc HN-GĐ ở cấp sơ thẩm ngành
 Tòa án luôn đạt tỷ lệ cao (từ 88% – đến 94%), đặc biệt là 3 năm gần đây
 (năm 2009, 2010, 2011) đều giữ được tỷ lệ là 94%, và đạt trung bình 
trong 11 năm qua (từ năm 2001-2011) là 92%. Tỷ lệ các vụ việc HN-GĐ bị 
kháng cáo, kháng nghị chiếm khoảng 9% số vụ việc đã giải quyết. Điều này
 cho thấy, công tác giải quyết các vụ việc về HN-GĐ có chất lượng khá 
cao so với các lĩnh vực khác.
- Về công tác xét xử ở cấp phúc thẩm
| Năm 2001 | Năm 2002 | Năm 2003 | Năm 2004 | Năm 2005 | Năm 2006 | Năm 2007 | Năm 2008 | Năm 2009 | Năm 2010 | Năm 2011 | Tổng cộng | |
| Tổng số vụ việc đã thụ lý | 2698 | 2702 | 3781 | 2968 | 2969 | 2951 | 2936 | 2857 | 2782 | 2590 | 2781 | 32.012 | 
| Số vụ việc đã giải quyết | 2576 (95%)  | 
2443 (90%)  | 
3714 (98%)  | 
2805 (94%)  | 
2833 (95%)  | 
2826 (95%)  | 
2840 (96%)  | 
2503 (87%)  | 
2704 (97%)  | 
2516 (97%)  | 
2666 (95%)  | 
30.426 (95%) | 
Công tác xét xử các vụ việc HN-GĐ ở cấp phúc thẩm 
không ngừng được nâng cao và đạt kết quả cao (từ 87% – đến 98%), đặc 
biệt là 3 năm gần đây (năm 2009, 2010, 2011) đều giữ được tỷ lệ cao từ 
95- 97%, và đạt trung bình trong 11 năm qua (từ năm 2001-2011) là 95%. 
Tỷ lệ kháng cáo, kháng nghị chiếm khoảng 5% số vụ việc đã giải quyết.
- Về công tác giải quyết các vụ việc HN-GĐ theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
| Năm 2001 | Năm 2002 | Năm 2003 | Năm 2004 | Năm 2005 | Năm 2006 | Năm 2007 | Năm 2008 | Năm 2009 | Năm 2010 | Năm 2011 | Tổng cộng | |
| Tổng số vụ việc đã thụ lý | 129 | 138 | 71 | 131 | 326 | 81 | 141 | 107 | 128 | 149 | 161 | 1.562 | 
| Số vụ việc đã giải quyết | 124 (96%)  | 
98 (71%)  | 
67 (94%)  | 
124 (94%)  | 
325 (99%)  | 
79 (97%)  | 
130 (92%)  | 
94 (87%)  | 
119 (92%)  | 
136 (91%)  | 
144 (89%)  | 
1.440 (92%) | 
Việc giải quyết các vụ việc HN-GĐ theo thủ tục giám 
đốc thẩm, tái thẩm hàng năm không ngừng được quan tâm, chú trọng nâng 
cao (từ 71% – đến 99%), đặc biệt là 3 năm gần đây (năm 2009, 2010, 2011)
 đều giữ được tỷ lệ cao từ 89- 92%, và đạt trung bình trong 11 năm qua 
(từ năm 2001-2011) là 92%. Bên cạnh đó qua công tác giám đốc kiểm tra 
các hồ sơ vụ việc HN-GĐ đã giải quyết có hiệu lực pháp luật, thi hành, 
phát hiện những sai sót cũng được chú ý, góp phần quan trọng trong việc 
nâng cao chất lượng giải quyết các vụ việc HN-GĐ nói riêng và công tác 
xét xử nói chung của ngành Tòa án.
- Về số vụ việc HN-GĐ bị hủy, sửa
| Năm  2001  | 
Năm  2002  | 
Năm  2003  | 
Năm  2004  | 
Năm  2005  | 
Năm  2006  | 
Năm  2007  | 
Năm  2008  | 
Năm  2009  | 
Năm  2010  | 
Năm  2011  | 
Tổng cộng | |
| Tổng số  vụ việc đã giải quyết  | 
51578 | 54002 | 55399 | 60206 | 62949 | 66963 | 73174 | 68944 | 92432 | 100279 | 118141 | 804.067 | 
| Số vụ việc bị  hủy, sửa  | 
1571 (3%)  | 
1315 (2%)  | 
1896 (3%)  | 
1481 (2%)  | 
1619 (2%)  | 
1381 (2%)  | 
1467 (2%)  | 
1406 (2%)  | 
1344 (1%)  | 
1305 (1%)  | 
1315 (1%)  | 
16.100 (2%) | 
Tỷ lệ án bị hủy, sửa so với tổng số vụ việc đã giải quyết trong 11 năm qua (từ năm 2001-2011) chiếm tỷ lệ trung bình là 2%. Cùng
 với sự nỗ lực phấn đấu của toàn bộ cán bộ ngành Tòa án thực hiện công 
tác xét xử ở các cấp, cũng như sự quan tâm giúp đỡ của các cấp lãnh đạo 
ngành Tòa án, cấp ủy, chính quyền địa phương, chất lượng xét xử các vụ 
việc HN-GĐ ngày một nâng lên, tỷ lệ án bị hủy, sửa đã giảm đáng kể, đặc 
biệt là 3 năm gần đây (năm 2009, 2010, 2011) tỷ lệ án bị hủy, sửa đã 
giảm đáng kể và ở mức 1%.
đ) Trong công tác kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố của ngành Kiểm sát nhân dân[13]
Trong thời gian qua, ngành Kiểm sát nhân dân đã đóng 
vai trò tích cực trong việc  kiểm sát việc tuân theo pháp luật hôn nhân 
và gia đình trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến 
nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải 
quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình kịp thời, đúng pháp luật. Đồng 
thời, ngành Kiểm sát thông qua công tác kiểm sát điều tra và thực hành 
quyền công tố đã góp phần quan trọng trong việc xử lý kịp thời các hành 
vi xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, bảo đảm pháp chế xã hội chủ 
nghĩa, quyền, lợi ích chính đáng của người dân được tôn trọng và bảo vệ.
Để thực hiện tốt chức năng kiểm sát các hoạt động tư 
pháp trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, Viện Kiểm sát nhân dân tối cáo
 đã tổ chức nhiều đợt tập huấn cho Viện Kiểm sát nhân dân các cấp những 
nội dung cơ bản, những điểm mới của Luật HN-GĐ và Nghị quyết số 
35/2000/QH10 và các thông tư, nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số quy 
định của Luật HN-GĐ; đảm bảo cho đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên nắm vững 
những quy định của pháp luât trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình để áp 
dụng cho phù hợp trong quá trình thực hiện chức năng kiểm sát. Ngoài ra,
 Viện Kiểm sát nhân dân tối cao còn chú trọng tập hợp các vướng mắc 
trong quá trình thực hiện Luật HN-GĐ, xây dựng các thông báo rút kinh 
nghiệm trong nhận thức, áp dụng pháp luật cho Viện Kiểm sát địa phương. 
Sự chỉ đạo hướng dẫn tập trung, đồng bộ của Viện Kiểm sát nhân dân tối 
cao cùng với sự tích cực nghiên cứu, tìm hiểu để vận dụng của cán bộ 
toàn ngành góp phần làm cho ngành Kiểm sát hoàn thành tốt nhiệm vụ được 
giao.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của Viện Kiểm sát 
nhân dân các tỉnh, thành phố thì tình hình Tòa án đã thụ lý và giải 
quyết các vụ việc tranh chấp hôn nhân và gia đình ở cấp sơ thẩm, phúc 
thẩm từ năm 2001 đến năm 2012 như sau: Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý 588.309
 vụ việc, đã giải quyết được 507.387 vụ việc; Tòa án cấp phúc thẩm thụ 
lý 24.336 vụ việc, đã giải quyết được 21.460 vụ việc. Qua số liệu thống 
kê cho thấy, các vụ việc về hôn nhân và gia đình do Tòa án thụ lý ở cấp 
sơ thẩm có xu hướng ngày càng tăng, năm 2005 có 55.664 vụ án ly hôn, 
chia tài sản chung của vợ chồng và 7.612 việc HN-GĐ thì năm 2012 có tới 
13.8057 vụ ly hôn, chia tài sản và 10.963 việc HN-GĐ.
Đối với công tác kiểm sát điều tra và thực hành quyền
 công tố các tội vi phạm chế độ hôn nhân và gia đình thì từ năm 2001 đến
 năm 2012, toàn ngành Kiểm sát đã kiểm sát việc khởi tố 274 vụ án và 337
 bị can xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, đã truy tố 238 vụ án và 
288 bị can; đã đưa 230 vụ án và 276 bị can ra xét xử sơ thẩm. Số liệu 
thống kê hàng năm cho thấy, các vụ khởi tố, truy tố bị can về các tội 
xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình ngày càng giảm: nếu năm 2001 có 68 
vụ án và 86 bị can bị khởi tố về tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia 
đình thì đến năm 2011 chỉ có 16 vụ án và 19 bị can bị khởi tố về tội xâm
 phạm chế độ hôn nhân và gia đình. Các trường hợp khởi tố vụ án và khởi 
tố bị can từ năm 2001 đến nay chủ yếu liên quan đến các tội: vi phạm chế
 độ một vợ một chồng (85 vụ án và 131 bị can), tội ngược đãi hoặc hành 
hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình 
(166 vụ án và 179 bị can), tội loạn luân (20 vụ án và 23 bị can).
II. BẤT CẬP, HẠN CHẾ TRONG THỰC TIỄN THI HÀNH LUẬT HN-GĐ NĂM 2000 VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Bất cập, hạn chế trong công tác triển khai thi hành Luật
1.1. Bất cập, hạn chế trong công tác xây dựng văn bản hướng dẫn thi hành Luật
Về cơ bản, hệ thống văn bản pháp quy hướng dẫn thi 
hành Luật HN-GĐ năm 2000 đã bảo đảm cho Luật HN-GĐ đi vào cuộc sống, 
thống nhất trong áp dụng pháp luật, quyền, lợi ích hợp pháp của người 
dân về hôn nhân và gia đình được thực hiện và bảo vệ. Tuy nhiên, một số 
quy định của Luật HN-GĐ còn chậm được hướng dẫn thi hành hoặc các văn 
bản hướng dẫn thi hành vẫn còn chung chung, chưa cụ thể, dẫn tới có 
nhiều cách hiểu khác nhau trong thực tiễn áp dụng. Do đó, hiệu qủa áp 
dụng các văn bản quy phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình chưa cao. Ví
 dụ: công tác hướng dẫn thi hành các quy định về áp dụng tập quán; kết 
hôn của người mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác không nhận thức được 
năng lực hành vi; việc đăng ký sở hữu tài sản chung của vợ chồng đối với
 tài sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký sở hữu; quy định 
liên quan đến “tài sản chung có giá trị lớn”, “nguồn sống duy nhất”, “ảnh hưởng nghiêm trọng”; quan hệ giữa các thành viên trong gia đình…
1.2. Bất cập, hạn chế trong công tác tổ chức thi hành Luật
- Quản lý nhà nước về công tác gia đình trong thời 
gian thi hành Luật HN-GĐ năm 2000 có nhiều biến động làm ảnh hưởng không
 nhỏ đến hiệu quả thi hành Luật HN-GĐ trong công tác gia đình; [14]
- Một số cơ quan, chính quyền địa phương chưa có sự phối hợp chặt chẽ, chưa quan tâm đúng mức đến công tác giải quyết các vụ việc về HN-GĐ của ngành Tòa án nhân dân, nhất là trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ, công chứng, giám định; việc thẩm định, đo đạc đất đai của cơ quan chuyên môn không chính xác làm ảnh hưởng xấu tới chất lượng bản án, quyết định của Tòa án;[15]
- Sau khi Bộ luật Tố tụng dân sự (Luật TTDS) năm 2004 có hiệu lực thi hành, nhiệm vụ và quyền hạn kiểm sát lập hồ sơ và tham gia các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm đối với các vụ án tranh chấp liên quan đến hôn nhân và gia đình của ngành Kiểm sát nhân dân đã thu hẹp lại: hầu hết các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm trong lĩnh vực này, Luật không quy định Viện Kiểm sát tham gia. Điều này làm thay đổi phương thức thực hiện công tác kiểm sát từ chỗ Viện Kiểm sát trực tiếp nghiên cứu hồ sơ vụ án và tham gia tố tụng tại phiên tòa chuyển sang gián tiếp kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án thông qua việc kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án sau khi xét xử. Thực tiễn cho thấy, việc hạn chế thẩm quyền tham gia phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm của Viện Kiểm sát đã ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết các tranh chấp về HN-GĐ của Viện kiểm sát;
- Việc thực hiện quy định của Luật HN-GĐ về thẩm quyền yêu cầu tòa án giải quyết các vụ việc về HN-GĐ của các cơ quan, tổ chức còn nhiều khó khăn, do thay đổi về thẩm quyền (Viện Kiểm sát nhân dân không còn thẩm quyền thực hành công tố trong giải quyết các vụ việc về HN-GĐ), do bị giải thể (Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em) hoặc vì nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan mà cơ quan, tổ chức khác không thực hiện hiệu quả thẩm quyền của mình;[16]
- Công tác tuyên truyền, phổ biến, giao dục, bồi dưỡng chuyên sâu về Luật HN-GĐ năm 2000 cho lực lượng cán bộ, công chức công tác tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát… ở một số địa phương còn chưa được thực hiện đầy đủ.[17]
2. Bất cập, hạn chế trong các quy định của Luật
2.1. Về áp dụng tập quán trong hôn nhân và gia đình
- Khoản 1 Điều 3 Luật HN-GĐ quy định trách nhiệm của Nhà nước và xã hội: “Vận
 động nhân dân xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia 
đình, phát huy truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc
 của mỗi dân tộc; xây dựng quan hệ hôn nhân và gia đình tiến bộ”, và Điều 6 của Luật quy định nguyên tắc: “Trong
 quan hệ hôn nhân và gia đình, những phong tục, tập quán thể hiện bản 
sắc của mỗi dân tộc mà không trái với những nguyên tắc quy định tại Luật
 thì được tôn trọng và phát huy”. Tuy nhiên, qua tổng kết thi hành 
Luật HN-GĐ cho thấy những quy định này còn có tính khả thi còn thấp, vì 
chỉ mới thể hiện được thái độ tôn trọng của nhà nước đối với phong tục, 
tập quán mà chưa thực sự tạo căn cứ pháp lý rõ ràng và đầy đủ để các cơ 
quan có liên quan áp dụng tập quán trong giải quyết các vụ việc về 
HN-GĐ.
- Về điều kiện để áp dụng tập quán: quy định về điều 
kiện áp dụng tập quán trong Luật hiện hành là không cụ thể, rất khó có 
sự thống nhất trong áp dụng. Điều kiện chung là những tập quán tốt đẹp 
thì được kế thừa, phát huy, nhưng “tính chất tốt đẹp” lại 
là một giá trị trừu tượng, có thể được hiểu ở nhiều góc độ khác nhau. 
Nội dung của giá trị này có thể thay đổi theo từng giai đoạn phát triển 
của kinh tế – xã hội, phụ thuộc vào quan niệm của từng cá nhân, gia 
đình, cộng đồng, tầng lớp xã hội. Vì vậy, trong thực tế, rất khó xác 
định tập quán nào là tốt đẹp cần được kế thừa và phát huy; tập quán nào 
không tốt đẹp cần được xóa bỏ. Do đó, việc đưa Luật HN-GĐ đi vào đời 
sống xã hội còn gặp nhiều khó khăn, nhất là ở các địa bàn ở vùng sâu, 
vùng xa, vùng đông bào dân tộc ít người.[18]
Ví dụ: nhiều trường hợp nam, nữ chung sống như vợ 
chồng mà không có đăng ký kết hôn, nhưng lại được cộng đồng dân cư nơi 
họ cư trú công nhận, bảo vệ. Khi xảy ra tranh chấp, Tòa án căn cứ vào 
quy định của Luật HN-GĐ để tuyên bố không công nhận hôn nhân của các 
đương sự. Tuy nhiên, đương sự, gia đình và dòng họ hai bên lại không 
đồng tình với quyết định của Tòa án. Cũng có trường hợp nam nữ khi kết 
hôn không vi phạm quy định của Luật về cấm kết hôn giữa những người có 
họ trong phạm ba đời, nhưng theo tập quán, họ vẫn thuộc phạm vi quan hệ 
họ hàng không được kết hôn, do vậy, họ đã bị gia đình, cộng đồng không 
cho kết hôn hoặc không thừa nhận hôn nhân… Ngoài hai trường hợp trên, 
việc tranh chấp về các lễ vật, sính lễ trong ngày cưới, kết hôn cũng 
đang tiếp tục xảy ra và được giải quyết một cách không thống nhất do 
thiếu quy định cụ thể áp dụng tập quán…[19]-[20] 
2. 2. Về kết hôn
2.2.1. Tuổi kết hôn
Quy định về tuổi kết hôn hiện hành bên cạnh việc đã 
đạt được những kết quả quan trọng trong xây dựng chế độ hôn nhân lành 
mạnh, hạnh phúc và bền vững; góp phần hạn chế tảo hôn, bảo đảm về thể 
chất, trí tuệ, kinh nghiệm xã hội để các bên trong kết hôn thực hiện tốt
 các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ HN-GĐ thì cũng đã đã phát 
sinh một số bất cập, hạn chế:
- Về năng lực chủ thể, quy định về tuổi kết hôn chưa 
đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với quy định về người đã thành niên 
trong Bộ luật dân sự (BLDS). Theo Điều 19 BLDS, người đã thành niên có 
đầy đủ năng lực hành vi dân sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên không bị 
mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì 
được tham gia tất cả các quan hệ dân sự. Trong khi đó, Luật HN-GĐ lại 
quy định nam từ 20 tuổi trở lên mới có quyền kết hôn đã hạn chế nhiều 
quyền dân sự đối với họ.[21] Nhiều trường hợp nam công dân kết hôn ở độ 
tuổi 18 – 20 bị coi là trái luật, trong khi về mặt pháp lý họ là người 
đã thành niên. Đối với nữ, việc kết hôn của nữ bước sang tuổi 18 được 
coi là hợp pháp, nhưng pháp luật chưa có quy định cụ thể về quyền của họ
 trong tham gia các giao dịch. Theo pháp luật hiện hành, nhiều giao dịch
 (về bất động sản, tín dụng…) đòi hỏi chủ thể của giao dịch phải là 
người từ đủ 18 tuổi trở lên; 
- Về tư cách tố tụng, khoản 3 Điều 57 Bộ luật TTDS 
quy định một cá nhân chỉ có thể tự mình tham gia quan hệ tố tụng khi đã 
đủ 18 tuổi trở lên. Trong khi đó, Điều 9 Luật HN-GĐ quy định, nữ bước 
sang tuổi 18 mà kết hôn được coi là hợp pháp và họ được quyền tự do ly 
hôn. Tuy nhiên, quyền tự do ly hôn của họ không thể thực hiện được nếu 
sau khi kết hôn và đến thời điểm có yêu cầu ly hôn họ chưa đủ 18 tuổi;
- Về sự phù hợp với pháp luật chuyên ngành: Trong khi
 Điều 9 Luật HN-GĐ quy định độ tuổi kết hôn của nam là từ 20 tuổi trở 
lên, nữ từ 18 tuổi trở lên thì trong thực tiễn, khi thực hiện Luật 
Phòng, chống bạo lực gia đình và các văn bản liên quan, đặc biệt là Nghị
 định số 110/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực 
phòng, chống bạo lực gia đình, việc xác định hành vi vi phạm bạo lực gia
 đình, đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vợ là khó
 khăn vì nếu vi phạm ngay sau khi kết hôn thì người vi phạm chưa đủ 18 
tuổi (chưa thành niên).
- Về tính phù hợp với thực tiễn, tuổi kết hôn theo 
Luật hiện hành chưa gắn với đặc thù về tuổi kết hôn trong tập quán ở một
 số cộng đồng các dân tộc ít người thuộc khu vực miền núi, vùng sâu, 
vùng xa. Trên thực tế, tình trạng tảo hôn vẫn còn tồn tại ở các nhóm 
cộng đồng này. Báo cáo tổng kết của một số địa phương cho thấy, tỷ lệ 
kết hôn trước tuổi luật định ở vùng cao, nơi đồng bào dân tộc ít người 
sinh sống còn khá cao. Khi được tuyên truyền Luật HN-GĐ, bà con hiểu quy
 định của pháp luật về tuổi kết hôn, nhưng do phong tục, tập quán đã đi 
vào cuộc sống của người dân từ rất lâu đời, các gia đình thường dựng vợ 
gả chồng cho con từ rất sớm (15 – 16 tuổi thậm chí từ 14 tuổi). Vì chưa 
đủ tuổi theo luật định, nên việc kết hôn không được đăng ký tại cơ quan 
nhà nước có thẩm quyền, nhưng hai bên gia đình vẫn tổ chức đám cưới theo
 phong tục; họ hàng hai bên, cộng đồng dân cư của cả bản vẫn mặc nhiên 
công nhận đó là một cặp vợ chồng. Trong cuộc sống, nhiều cặp vợ chồng 
này đã duy trì cuộc sống chung ổn định, góp phần tích cực vào đời sống 
cộng đồng.[22]-[23]
2.2.2. Về các trường hợp cấm kết hôn, hủy kết hôn trái pháp luật
- Theo Luật HN-GĐ năm 2000, các trường hợp cấm kết hôn được quy định tại Điều 10 về
 cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình 
tiến bộ, phù hợp với thực tiễn xã hội, kế thừa, phát huy các giá trị 
truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam, hạn chế các hủ tục, 
tập tục lạc hậu trong kết hôn, cũng như những ảnh hưởng tiêu cực của sự 
đề cao tự do cá nhân và của nền kinh tế thị trường… Luật này cũng tạo cơ
 sở pháp lý cho việc thực thi quyền kết hôn của cá nhân, áp dụng trách 
nhiệm dân sự, hành chính hoặc hình sự đối với cá nhân, tổ chức vi phạm 
điều kiện kết hôn, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa về hôn nhân và gia 
đình. Tuy nhiên, các quy định của Luật này khi áp dụng trong thực tế 
cũng đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế như:
+ Khoản 2 Điều 10, Luật HN-GĐ chưa quy định rõ ràng, 
cụ thể về việc cấm kết hôn đối với người mất năng lực hành vi dân sự. 
Trên thực tế, một người chỉ bị tuyên mất năng lực hành vi dân sự khi có 
quyết định của Tòa án tuyên người đó mất năng lực hành vi dân sự (Điều 
22 BLDS). Do đó, trường hợp một người tuy mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh 
khác khác dẫn tới không nhận thức, điều khiển được hành vi nhưng do 
không có/chưa có quyết định của Tòa án thì vẫn được xác định là có năng 
lực hành vi dân sự và không thuộc trường hợp bị cấm kết hôn theo khoản 2
 Điều 10 Luật HN-GĐ. Nhiều vụ việc Tòa án thụ lý giải quyết theo yêu cầu
 cơ quan có thẩm quyền về hủy việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm 
khoản 2 Điều 10, nhưng bản thân đương sự, gia đình đương sự đã phản đối 
và UBND nơi cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn cũng đã không đồng tình 
với quyết định của Tòa án vì cho rằng, việc đăng ký kết hôn trong trường
 hợp này là đúng luật. 
+ Khoản 3 Điều 10, Luật HN-GĐ quy định về cấm kết hôn
 giữa những người cùng dòng máu về trực hệ, giữa những người có họ trong
 phạm vi ba đời không có tính khả thi khi áp dụng tại các vùng dân tộc 
thiểu số. Thực tế ở một số địa phương cho thấy, tình trạng kết hôn vi 
phạm điều cấm này vẫn còn diễn ra vì theo tập quán của địa phương, những
 người cùng một “họ” là anh, em (bao nhiêu đời cũng không lấy nhau 
được), còn những người khác “họ” (mặc dù vẫn trong phạm vi ba đời) thì 
vẫn được lấy nhau.[24]
Thực tế, một số Tòa án địa phương đã có có quyết định
 hủy kết hôn trái pháp luật đối với các trường hợp tảo hôn, kết hôn cận 
huyết thống… nhưng thường khó được thi hành do cơ chế cưỡng chế thi hành
 các loại án này chưa cụ thể. Ngoài ra, do tảo hôn và kết hôn cận huyến 
thống không thể được đăng kết hôn tại UBND cơ sở, nên những trường hợp 
này thường là những cặp nam nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký 
kết hôn. Cán bộ tư pháp do đảm nhiệm nhiều công việc ngoài nhiệm vụ đăng
 ký và quản lý hộ tịch tại địa phương nên không thể nắm bắt được một 
cách chính xác về số lượng và tình hình tảo hôn cũng như kết hôn cận 
huyết thống tại địa phương.
Có nhiều lý do cho thực trạng kết hôn cận huyết ở một
 số địa phương, trong đó: (1) Nam, nữ thanh niên dân tộc thiểu số không 
có điều kiện học tập nâng cao tri thức do kinh tế khó khăn; (2) do ảnh 
hưởng của tập tục (bị thúc ép lấy vợ, chồng sớm để có người lao động, có
 người nối dõi); (3) do mê tín, dị đoan, nhiều gia đình tổ chức lễ cưới 
hỏi cho con cái do đi xem lá số; (3) cán bộ hộ tịch khó có thể phát hiện
 được hai bên nam nữ đến đăng ký kết hôn có quan hệ họ hàng với nhau hay
 không do Luật chưa quy định cụ thể về những người có cùng dòng máu trực
 hệ, những người có quan hệ họ hàng thân thuộc. Ngoài ra, trên thực tế, 
có nhiều trường hợp kết hôn ở đời thứ 4, đời thứ 5 nhưng theo tập quán 
thì họ vẫn có mối quan hệ họ hàng nên không được kết hôn và bị gia đình,
 cộng đồng không cho kết hôn hoặc không thừa nhận hôn nhân, từ đó dẫn 
đến các tranh chấp trong các mối quan hệ hôn nhân rất phức tạp.[25]
- Về yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật: Điều 15
 Luật HN-GĐ quy định bên bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn theo quy định 
của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu tòa án hoặc đề 
nghị Viện kiểm sát yêu cầu tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do 
việc kết hôn vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 9 của Luật này. Như vậy, 
Luật HN-GĐ mới chỉ quy định việc kết hôn không tuân thủ điều kiện kết 
hôn là trái pháp luật và có thể bị tòa án xem xét, quyết định hủy việc 
kết hôn đó. Tuy nhiên, Luật chưa quy định cụ thể các trường hợp kết hôn 
trái pháp luật cần thiết phải xử hủy và những trường hợp kết hôn trái 
pháp luật không cần thiết phải xử hủy mà cần công nhận hôn nhân cho các 
bên đương sự.
Hiện nay, khi giải quyết hủy việc kết hôn trái pháp 
luật, Tòa án đã áp dụng điểm d, mục 2, Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP 
(23/12/2000) của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao về hướng dẫn
 áp dụng một số quy định của Luật HN-GĐ năm 2000 quy định từng trường 
hợp cụ thể để xem xét, quyết định hủy kết hôn trái pháp luật hay công 
nhận hôn nhân của các đương sự. Đây là quy định phù hợp với thực tiễn, 
bảo vệ được các quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, điều 
này lại không được cụ thể hóa trong luật nên gây lúng túng cho cơ quan 
có thẩm quyền khi giải quyết. Qua thực tiễn thi hành cho thấy, quy định 
của Luật HN-GĐ năm 2000 về vấn đề hủy kết hôn trái pháp luật còn mang 
tính cứng nhắc. Trên thực tế, việc kết hôn trái pháp luật do nhiều 
nguyên nhân khác nhau như bị cưỡng ép, một bên vợ hoặc chồng mất năng 
lực hành vi dân sự nhưng trong nhiều trường hợp, trong quá trình chung 
sống, vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc và bản thân người vợ hoặc
 chồng không có yêu cầu hủy việc kết hôn thì không nhất thiết phải hủy 
quan hệ hôn nhân đó.[26]
2.2.3. Về cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính
Vấn đề kết hôn của những người đồng tính và việc thực
 hiện, bảo vệ các quyền con người của họ đã và đang là vấn đề thực tiễn ở
 Việt Nam. Trong thời gian qua, nhiều người đồng tính đã ở tình trạng bị
 kỳ thị, phân biệt đối xử hoặc bạo lực gia đình[27]. Trong khi đó pháp 
luật Việt Nam nói chung và Luật HN-GĐ nói riêng chưa có quy định rõ 
ràng về bảo vệ quyền của người đồng tính. Khoản 5 Điều 2 Luật HNGĐ năm 
2000 quy định một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và 
gia đình là “Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử 
giữa các con, giữa con trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong 
giá thú và con ngoài giá thú”. Quy định có tính liệt kê ở nguyên tắc
 này, vô hình chung đã loại trừ việc kỳ thị, phân biệt đối xử với con là
 người đồng tính, song tính hoặc chuyển giới (LGBT) không thuộc nội dung
 của nguyên tắc này. Mặt khác, khoản 5 Điều 10 Luật này quy định cấm 
việc kết hôn giữa những người cùng giới tính. Việc sử dụng quy phạm “cấm”
 việc kết hôn giữa những người cùng giới tính dễ tạo ra hiệu ứng định 
kiến xã hội đối với người đồng tính. Trên thực tế, một số cơ quan thi 
hành pháp luật ở một số địa phương và một bộ phận xã hội đã lấy quy định
 tại khoản 5 Điều 10 để giải thích cho những ứng xử có tính chất kỳ thị 
và phân biệt đối xử liên quan đến LGBT nói chung, người đồng tính nói 
riêng trong hôn nhân và gia đình… 
Qua tổng kết thi hành nhiều ý kiến cho rằng, cần nhìn
 nhận đồng tính là một xu hướng tính dục tự nhiên, việc thừa nhận cũng 
là tự nhiên, không nên ngăn cấm. Cùng với sự phát triển về kinh tế, nhận
 thức của xã hội thì hợp thức hóa hôn nhân giữa những người cùng giới đã
 trở thành vấn đề thời sự. 
Thực tế này đòi hỏi các cơ quan nhà nước có thẩm 
quyền cần nghiên cứu một cách nghiêm túc và bài bản về quyền của LGBT 
trong hôn nhân và gia đình nói chung, quyền kết hôn của người đồng tính 
nói riêng, đảm bảo tính nhân bản, công bằng và bình đẳng trong công 
nhận, thực hiện và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình.[28]
2.2.4. Về quan hệ chung sống như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn
Luật HN-GĐ năm 2000 quy định việc chung sống như vợ 
chồng mà không có đăng ký kết hôn thì không được thừa nhận là có quan hệ
 vợ chồng (khoản 1 Điều 11). Trong trường hợp các bên trong quan hệ 
chung sống có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công 
nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết 
theo quy định liên quan đến việc hủy kết hôn trái pháp luật.
Để hướng dẫn các quy định trên của Luật, nhiều văn 
bản dưới luật của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện 
kiểm sát nhân dân tối cao cũng đã được ban hành, như: Nghị quyết số 
35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật HN-GĐ; 
Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ quy định chi 
tiết về đăng ký kết hôn theo quy định của Nghị quyết số 35/2000/QH10; 
Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2000 
hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về việc thi 
hành Luật HN-GĐ; Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội 
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định
 của Luật HN-GĐ năm 2000…
Các quy định này đã phần nào tạo cơ sở pháp lý để các
 bên thực hiện đầy đủ, có trách nhiệm quyền, nghĩa vụ của mình, khuyến 
khích các cặp vợ chồng chưa đăng ký kết hôn đi đăng ký kết hôn; hạn chế 
các ảnh hưởng tiêu cực của việc chung sống như vợ chồng mà không có đăng
 ký kết hôn; tôn trọng, bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của các bên
 trong quan hệ. 
Tuy nhiên, pháp luật hiện hành còn chưa bao quát hết 
được các trường hợp chung sống như vợ chồng trên thực tế. Luật mới chỉ 
đề cập đến việc nam, nữ chung sống như vợ chồng, còn việc chung sống như
 vợ chồng giữa những người cùng giới tính hoặc của người chuyển giới thì
 chưa được quy định. 
Mặt khác, nhiều ý kiến cho rằng pháp luật mới chỉ 
quan tâm đến việc thừa nhận hay không thừa nhận hôn nhân, mà chưa có các
 quy định cần thiết để điều chỉnh các vấn đề nhân thân và tài sản phát 
sinh từ sự chung sống đó (quan hệ cha mẹ và con; quan hệ giữa các bên 
chung sống…). Các văn bản dưới Luật quy định về vấn đề này chủ yếu chỉ 
điều chỉnh các quan hệ chung sống phát sinh trước ngày 01/01/2001. Trong
 khi đó, trên thực tế đã và đang tồn tại rất nhiều trường hợp nam nữ 
chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn (trong xu thế 
phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay, 
việc chung sống như vợ chồng ngày càng có chiều hướng gia tăng). Đây là 
vấn đề lớn liên quan đến các quyền cơ bản của cá nhân, sự ổn định trong 
các quan hệ xã hội, sự công khai, minh bạch trong các giao dịch cần được
 quy định cụ thể trong Luật HN-GĐ.
Tuy pháp luật HN-GĐ hiện hành công nhận các trường 
hợp chung sống như vợ chồng trước năm 1987 là hợp pháp nhưng chưa có 
tiêu chí xác định chung sống như vợ chồng và cơ quan nào xác nhận điều 
đó. Tuy nhiên, trường hợp vừa sống chung với nhau và có con chung, sau 
đó lại kết hôn với một người khác thì xác định hôn nhân nào là hợp pháp 
theo nguyên tắc một vợ một chồng là điều không đơn giản cho việc công 
chứng văn bản giấy tờ liên quan. Trong khi khai nhận hay phân chia di 
sản thừa kế của người đó, hay khi xác định tài sản chung, riêng để định 
đoạt trong một giao dịch dân sự thì việc xác định có tồn tại quan hệ 
chung sống như vợ chồng và có hợp pháp hay không lại là một thủ tục 
không thể thiếu.
Đặc biệt, đối với đồng bào dân tộc thiểu số, việc kết
 hôn chủ yếu được thực hiện theo phong tục, tập quán (kết hôn có sự 
chứng kiến của gia đình, cộng đồng dân cư và được những người này thừa 
nhận). Vì vậy, tình trạng chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết 
hôn còn khá phổ biến ở một số địa phương có đồng bào dân tộc ít người, 
vùng xa.[29]
Ở khía cạnh khác, pháp luật mới chỉ quy định việc 
chung sống như vợ chồng dưới góc độ hôn nhân thuần túy mà chưa nhìn nhận
 các bên sống chung hình thành một gia đình với đầy đủ các nhu cầu của 
một thiết chế xã hội; chưa quy định cụ thể quan hệ nhân thân, con, tài 
sản chung và giao dịch phát sinh của các trường hợp trên trong quá trình
 chung sống, gây khó khăn cho việc giải quyết khi có tranh chấp trên 
thực tế.
Có nhiều nguyên nhân của tình trạng chung sống như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn, trong đó chủ yếu là:
(1) Do trình độ dân trí còn thấp, không đồng đều nên 
chưa nhận thức được các quyền và nghĩa vụ, hậu quả pháp lý của việc 
chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn;
(2) Do ảnh hưởng của yếu tố tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo về kết hôn ở địa phương và cộng đồng;
(3) Do tác động của tình trạng “hôn nhân thử” có xu hướng mở rộng trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và tự do cá nhân;
(4) Do thủ tục đăng ký kết hôn có nhiều cứng nhắc, 
chưa bảo đảm thuận lợi cho người dân thực hiện quyền kết hôn của mình, 
nhất là khi cá nhân có sự di biến động rất lớn giữa nơi có hộ khẩu với 
nơi học tập, làm ăn, sinh sống.
Trong thực tiễn vẫn xảy ra nhiều trường hợp nam, nữ 
sống chung như vợ chồng vì hoàn cảnh hoặc lý do khác nhau, họ không đăng
 ký kết hôn, trong đó có cả những trường hợp do chủ quan, tin tưởng lẫn 
nhau nên không xem việc đăng ký kết hôn là quan trọng. Những cặp nam nữ 
này vẫn sống một cách bình thường, hạnh phúc như các cặp nam nữ có đăng 
ký kết hôn, có trường hợp đã có Sổ hộ khẩu trong đó ghi tên đầy đủ một 
trong hai bên là chủ hộ, còn bên kia là chồng hoặc vợ của chủ hộ, tên 
con cái đầy đủ, con có giấy khai sinh trong đó tên cha mẹ ghi đầy đủ 
(qua thủ tục nhận cha mẹ con), có cặp đã lớn tuổi có cả Giấy chứng nhận 
quyền sử dụng đất hoặc quyền sở hữu nhà ghi tên đầy đủ hai người với tư 
cách là vợ chồng, là tài sản chung của vợ chồng hình thành trong thời kỳ
 sống chung như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn. Những cặp nam nữ 
này, khi họ ly hôn, nếu áp dụng Điều 87 Luật HN-GĐ năm 2000: “Trong 
trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý 
và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 
Điều 11 của Luật này; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết 
theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật này” và khoản 3 Điều 17 quy định: “Tài
 sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc 
quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thoả thuận của 
các bên; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết, có 
tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính 
đáng của phụ nữ và con” thì việc chia tài sản theo quy định trên là 
chưa hợp lý, vì có những tài sản đã hình thành trong thời kỳ hai bên 
sống chung như vợ chồng, đã hỗ trợ cho nhau trong đời sống gia đình mà 
có được, không thể xác định được phần chia cụ thể theo công sức đóng góp
 của hai người.[30]
2.3. Về quan hệ giữa vợ và chồng
Quy định về quan hệ giữa vợ và chồng trong Luật HN-GĐ
 năm 2000 tuy đã đạt được một số thành tựu nhất định như đã góp phần 
tích cực kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa, các giá trị đạo đức 
trong quan hệ hôn nhân nói riêng, quan hệ gia đình nói chung; đề cao 
tình nghĩa, bình đằng giữa vợ và chồng; bảo đảm quyền và nghĩa vụ của vợ
 chồng đối với nhau và của vợ chồng đối với gia đình, đồng thời tôn 
trọng quyền tự do cá nhân của vợ, chồng trong các quan hệ gia đình, quan
 hệ xã hội; bảo đảm sự thuận lợi của vợ chồng trong tham gia giao dịch, 
quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba…. Tuy nhiên, trong thực tiễn 
thi hành cũng đã phát sinh một số bất cập như:
* Về quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng: Luật chưa 
quy định cụ thể trách nhiệm pháp lý trong trường hợp một bên hoặc cả hai
 bên vợ chồng vi phạm các nghĩa vụ nhân thân được quy định trong Luật 
HN-GĐ, cũng như chưa quy định cụ thể quyền của bên bị vi phạm. Việc quy 
định không rõ ràng này không bảo đảm công bằng trong thụ hưởng quyền và 
thực hiện nghĩa vụ trong hôn nhân.
* Về chế độ tài sản giữa vợ và chồng:
- Luật quy định chưa rõ ràng về chế độ sở hữu tài sản
 của vợ chồng, thiếu cơ chế công khai minh bạch về tài sản chung, tài 
sản riêng. Sự không minh bạch này gây hậu quả là sự không an toàn cho 
các giao dịch dân sự liên quan đến người thứ ba. 
- Quy định của Luật về tài sản trong hôn nhân chủ yếu
 đề cập đến tài sản tiêu dùng, quyền sử dụng đất, còn các tài sản khác 
như chứng khoán, tài sản trong doanh nghiệp thì chưa được đề cập tới, 
gây khó khăn trong quá trình giải quyết tranh chấp.
- Điều 25 của Luật quy định vợ hoặc chồng phải chịu 
trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai 
người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình. 
Trên thực tế, nhiều giao dịch do một bên vợ hoặc chồng thực hiện, không 
phải đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình (ví dụ, nghĩa vụ 
phát sinh từ các giao dịch đầu tư, kinh doanh, hụi, họ, cho vay nặng 
lãi…), khi có tranh chấp xảy ra Luật chưa quy định cụ thể khi nào vợ 
chồng phải chịu liên đới trong thực hiện nghĩa vụ với người thứ ba[31].
- Quy định về căn cứ xác định tài sản của vợ chồng 
tại Điều 27 của Luật còn nhiều vướng mắc, chưa có cách hiểu thống nhất 
trong áp dụng pháp luật hoặc chưa phù hợp giữa quy định của pháp luật 
với thực tiễn xã hội: 
+ Quan điểm thứ nhất cho rằng, tài sản mà vợ chồng 
đang quản lý, sử dụng chung (có trước hoặc sau thời kỳ hôn nhân) mặc dù 
do một người đứng tên nhưng không có văn bản thỏa thuận là tài sản riêng
 thì đó vẫn là tài sản chung; tài sản riêng của vợ hoặc chồng nhưng đã 
đưa vào khai thác, sử dụng chung là tài sản chung;
+ Quan điểm thứ hai cho rằng, tài sản 
riêng có trước khi kết hôn hoặc tài sản được thừa kế riêng, được tặng 
cho riêng (do một người đứng tên) mặc dù được đưa vào khai thác, sử dụng
 chung nhưng không có văn bản thỏa thuận đưa vào tài sản chung thì vẫn 
là tài sản riêng.
Trên thực tế hiện nay, khi xảy ra tranh chấp tài sản 
chung, riêng của vợ, chồng các Tòa án đều theo quan điểm thứ hai để áp 
dụng và phân xử. Việc áp dụng này xét về lý là hoàn toàn phù hợp, tuy 
nhiên lại không phản ảnh đúng thực trạng xã hội. Nếu xem xét kỹ chế định
 về tài sản của vợ chồng trong các quy định của pháp luật và thực tế 
giải quyết các vụ việc tranh chấp tài sản chung khi ly hôn, thì quan 
điểm thứ nhất nên được áp dụng. Vì khi kết hôn các cặp vợ chồng thường 
được bố, mẹ bên chồng hoặc bên vợ cho hai vợ chồng đất để ở riêng tạo 
lập cuộc sống. Việc tặng, cho này thường chỉ bằng lời nói, hành vi. 
Trong quá trình sử dụng, vợ chồng tự do kê khai và được Nhà nước cấp 
quyền sử dụng đất. Quyền này được coi là tài sản chung của vợ chồng, nếu
 có xảy việc ly hôn thì quyền lợi của người phụ nữ được bảo vệ. Trên 
thực tế, có những cặp vợ chồng sống với nhau hàng chục năm nhưng không 
quan tâm đến tài sản chung, riêng, khi xảy ra ly hôn người vợ thường 
chịu nhiều thiệt thòi vì khi kết hôn đã không lập văn bản để nhập tài 
sản riêng vào khối tài sản chung. Mặt khác, có những trường hợp sống 
chung cùng gia đình nhà chồng, khi ly hôn người vợ không được xem xét 
quyền lợi đối với nhà, đất, ngoại trừ công sức đóng góp tôn tạo, sửa 
chữa. Do đó, việc quy định phải có văn bản thỏa thuận mới được coi là 
tài sản chung là rất cứng nhắc, chưa phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, cần 
phải có quy định cụ thể để xác định tài sản chung, tài sản riêng cũng 
như đăng ký quyền sở hữu về tài sản của vợ và chồng.
- Khoản 3, Điều 28 của Luật quy định “việc xác 
lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung 
có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài 
sản chung để đầu tư, kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận, 
trừ khi tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng”. Đây 
là một điều khoản chưa chặt chẽ, dễ bị lợi dụng vì không hề có biện pháp
 chế tài. Trường hợp nếu người vợ, người chồng dùng tài sản chung để đầu
 tư, kinh doanh mà không có thỏa thuận, không bàn bạc thì giải quyết như
 thế nào? Thực tế đã xảy ra trường hợp người chồng với vai trò là chủ 
gia đình thường đứng ra thực hiện các giao dịch, đăng ký quyền sở hữu 
tài sản, đến khi có tranh chấp lại cho rằng đó là tài sản riêng do tặng 
cho, thừa kế. Ngoài ra, quy định “tài sản có giá trị lớn hoặc nguồn sống duy nhất của gia đình”
 cũng cần phải được giải thích rõ vì hiện nay Tòa án các cấp áp dụng 
không giống nhau do chưa có tiêu chí nào xác định cụ thể vấn đề này. 
Bên cạnh đó, một số khái niệm, cụm từ như “các nghĩa vụ chung của vợ chồng”, “lý do chính đáng” tại các Điều 28, 29 cũng gây nhiều tranh cãi bởi Luật không quy định rõ ràng và chưa có hướng dẫn cụ thể.
Hơn nữa, quy định này còn quá “mở”, bởi nếu 
sau khi kết hôn, với lý do kinh doanh riêng, vợ chồng thỏa thuận chia 
toàn bộ tài sản chung, tài sản của ai làm ra thuộc về người đó, thì khi 
đó lợi ích của gia đình được xem xét như thế nào? Nếu thỏa thuận này 
được thực hiện thì hôn nhân chỉ tồn tại về mặt nhân thân, bản chất của 
quan hệ hôn nhân vì thế không được đảm bảo thực hiện đúng nghĩa.
Mặt khác, Luật mới chỉ công nhận vợ, chồng hoặc cả 
hai vợ chồng có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong 
thời kỳ hôn nhân mà không công nhận quyền của người thứ ba. Trong trường
 hợp vợ hoặc chồng không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để
 thực hiện nghĩa vụ về tài sản của mình nhưng không yêu cầu chia tài sản
 chung để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ thì quyền lợi của người thứ ba 
không được đảm bảo.
Luật chưa có quy định cụ thể về nguyên tắc chia tài 
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân trong trường hợp vợ chồng 
không thỏa thuận được mà phải yêu cầu Tòa án giải quyết. Đồng thời, Luật
 chưa quy định về việc ai là người có quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ thỏa 
thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân trong 
trường hợp thỏa thuận này vi phạm các điều kiện được quy định tại Điều 
29 hoặc gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống gia đình. Hậu quả pháp 
lý của việc Tòa án tuyên bố vô hiệu đối với thỏa thuận chia tài sản 
chung của vợ, chồng cũng chưa được quy định.
- Điều 32 của Luật quy định, tất cả đồ dùng, tư trang
 cá nhân đều thuộc khối tài sản riêng của vợ chồng dù chúng được hình 
thành từ nguồn tài sản chung hay tài sản riêng của mỗi bên. Tuy nhiên, 
Luật HN-GĐ cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành không có bất kỳ quy 
định nào giải thích, hướng dẫn đồ dùng, tư trang cá nhân bao gồm những 
loại nào dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Mặt khác, Luật không có quy 
định giới hạn giá trị của các tài sản này sẽ dẫn đến nhiều trường hợp 
quyền và lợi ích hợp pháp của người vợ, người chồng bị xâm phạm, nhất là
 trong trường hợp đồ dùng, tư trang cá nhân đó chiếm một tỷ trọng lớn 
trong khối tài sản chung của vợ chồng. Việc không xem xét tới yếu tố các
 đồ dùng, tư trang cá nhân hình thành từ nguồn gốc tài sản chung hay tài
 sản riêng có thể dẫn tới trường hợp chuyển hóa tài sản chung thành tài 
sản riêng của vợ, chồng khi người vợ, người chồng lợi dụng dùng tài sản 
chung để mua đồ dùng, tư trang cho bản thân mình ảnh hưởng đến quyền lợi
 của bên kia.
- Có ý kiến cho rằng cách quy định tài sản chung, 
riêng như tại các Điều 27, 28, 32 nói trên có những điều bất hợp lý và 
khó xác định trên thực tế. Có nhiều trường hợp quyền sử dụng đất có 
trước thời kỳ hôn nhân, sau khi kết hôn mới có giấy chứng nhận thì theo 
quy định lại trở thành tài sản chung. Ngoài ra, cũng có nhiều trường hợp
 vợ, chồng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong thời kỳ hôn nhân 
nhưng tiền nhận chuyển nhượng lại là tiền riêng của một bên… 
- Điều 33 của Luật quy định vợ chồng có quyền chiếm 
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình, trừ trường hợp tài sản 
riêng của vợ hoặc chồng đã được đưa vào sử dụng mà lợi tức từ tài sản 
riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản 
riêng đó phải được sự thỏa thuận của cả vợ chồng. Đây là điều khoản hợp 
tình, hợp lý, có tính nhân văn, nhưng Luật không quy định rõ thế nào là “nguồn sống duy nhất của gia đình”.
 Chính vì vậy, trong thực tế rất khó để buộc người có tài sản riêng đó 
thực hiện việc thỏa thuận vì khi đã là tài sản riêng được công chứng rõ 
ràng họ có toàn quyền quyết định dù đó là nguồn sống duy nhất của gia 
đình. Do vậy cần có văn bản hướng dẫn cụ thể để không gây thiệt thòi cho
 bên còn lại[32].
2.4. Về xác định cha, mẹ, con
Quy định về xác định cha, mẹ, con trong Luật HN-GĐ đã
 phần nào tạo cơ sở pháp lý quan trọng bảo đảm tôn trọng, bảo vệ quyền 
của trẻ em sinh ra có gia đình của mình, cũng như quyền làm cha, làm mẹ 
của cá nhân; xác định các bên trong quan hệ cha, mẹ, con, trên cơ sở đó 
xác lập, bảo đảm thực hiện các quyền, nghĩa vụ nhân thân và tài sản 
trong quan hệ cha mẹ và con; kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức 
trong gia đình Việt Nam… Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại, thiếu sót 
trong quá trình thực thi Luật.
- Về nhận cha, mẹ, con: Khoản 1 Điều 63 Luật HN-GĐ 
quy định con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng. 
Do vậy, con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân, khi đăng ký khai sinh phải 
ghi đầy đủ tên của người cha và người mẹ vào Giấy khai sinh và Sổ đăng 
ký khai sinh. Trong trường hợp có người khác xin nhận là cha của đứa trẻ
 đó, người cha và mẹ trong giấy khai sinh đều đồng ý cho người thứ ba 
nhận con, trường hợp này căn cứ theo Điều 64 Luật HN-GĐ phải do Tòa án 
giải quyết. Bởi lẽ, người cha trong giấy khai sinh là người chồng hợp 
pháp, người chồng đó đồng ý cho người khác nhận con tức là từ chối nhận 
con. Như vậy, Tòa án cho người đó từ chối nhận con, sau đó người thứ ba 
mới có quyền nhận con tại UBND xã, phường theo quy định. Tuy nhiên, 
trong thực tiễn, một số Tòa án từ chối giải quyết vì cho rằng trường hợp
 này không có tranh chấp. Do vậy, cần thiết phải có quy định cụ thể về 
trường hợp nhận con mà con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân của người 
khác.
- Điều 63 Luật HN-GĐ quy định rất chung về giấy khai 
sinh của con không có tên cha, chỉ có tên mẹ, sau đó người mẹ yêu cầu 
Tòa án xác định cha cho con. Trong trường hợp người cha đã bỏ địa phương
 đi nơi khác mà người mẹ không biết địa chỉ hoặc tìm ra được người cha 
hoặc người cha hiện có mặt ở địa phương nhưng không đồng ý tiến hành xét
 nghiệm gen, lúc đó giải quyết như thế nào. Vì luật không quy định và 
Tòa án không thể buộc họ phải phối hợp để xét nghiệm;
Pháp luật chưa quy định cụ thể về cơ chế pháp lý bảo 
đảm cho người phụ nữ yêu cầu xác định cha cho con. Theo nguyên tắc tố 
tụng, người phụ nữ khi có yêu cầu xác định một người là cha của con mình
 thì họ phải có nghĩa vụ và cung cấp chứng cứ. Việc cung cấp chứng cứ, 
đặc biệt chứng cư về gen trong nhiều trường hợp gặp nhiều khó khăn nếu 
người được xác định là cha từ chối việc xác định gen. nếu cần thiết có 
thể yêu cầu giám định gen và họ phải chịu chi phí giám định gen;
- Luật chưa quy định cụ thể về các trường hợp xác 
định cha, mẹ, con trong những trường hợp đặc thù, như: con sinh ra sau 
khi hôn nhân chấm dứt (ly hôn hoặc người chồng chết); con được sinh ra 
theo phương pháp khoa học, nhưng tinh trùng được dùng để cấy phôi không 
phải tinh trùng của người chồng…[33]
2. 5. Về quan hệ giữa cha, mẹ, con và giữa các thành viên khác trong gia đình
Thực tiễn thi hành cho thấy quan hệ giữa cha, mẹ, con
 và các thành viên khác trong gia đình được quy định từ Điều 34 đến Điều
 84 và một số quy định liên quan của Luật HN-GĐ năm 2000 đã góp phần 
tích cực trong xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành 
viên trong gia đình; kế thừa, phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của 
gia đình Việt Nam; quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong 
gia đình được tôn trọng và bảo vệ, đặc biệt của phụ nữ và trẻ em; tuy 
nhiên nhiều quy định của Luật còn mang tính nguyên tắc, không cụ thể, 
chưa phù hợp với thực tiễn hoặc chưa kế thừa, phát huy được truyền thống
 văn hóa, đạo đức của gia đình Việt Nam.
* Về quan hệ giữa cha, mẹ, con:
Quy định về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con còn 
quá chung, chưa cụ thể và không phù hợp, nhất là trong quan hệ giữa cha 
mẹ với con đã thành niên. Việc quy định không rõ ràng có thể tạo sự nhận
 thức không đúng về trách nhiệm của cha mẹ đối với con và của con đã 
thành niên đối với cha mẹ.
Bên cạnh đó, trong đời sống xã hội vẫn tồn tại trường
 hợp cha mẹ không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với con, 
đặc biệt là khi con bị tàn tật, không có khả năng tự nuôi bản thân hoặc 
con không thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ khi già yếu, 
cô đơn, nhưng Luật HN-GĐ chưa có chế tài đủ mạnh để nâng cao trách nhiệm
 của người vi phạm và bảo vệ lợi ích của người bị vi phạm.
* Về quan hệ giữa các thành viên trong gia đình:
+ Quan hệ “người thân thích” có quyền và nghĩa vụ với
 nhau được quy định trong nhiều văn bản pháp luật, nhưng BLDS và Luật 
HN-GĐ chưa có quy định cụ thể về người thân thích và phạm vi người thân 
thích dẫn tới cách hiểu và việc áp dụng pháp luật không thống nhất.[34] 
Bên cạnh đó, Luật HN-GĐ năm 2000 chưa có giải thích về khái niệm “thành viên gia đình”, trong khi Khoản 2 Điều 1 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy định “bạo
 lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc 
có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành 
viên khác trong gia đình”. 
+ Luật còn thiếu quy định về quyền và nghĩa vụ của 
người nuôi dưỡng mà không phải là cha, mẹ, con của người được nuôi 
dưỡng; không ghi nhận đầy đủ những lợi ích của người nuôi dưỡng cần được
 bảo đảm khi thực hiện hành vi nuôi dưỡng (con dâu, con rể và cha mẹ 
chồng, cha mẹ vợ; con riêng với cha dượng, mẹ kế; anh, chị, em nuôi 
nhau…). Điều này không phù hợp với truyền thống văn hóa, đạo đức của dân
 tộc Việt Nam là đề cao hành vi dưỡng dục so với hành vi sinh thành – “công sinh không bằng công dưỡng”[35]. 
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 38 Luật HN-GĐ thì bố
 dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc của chồng có nghĩa vụ và quyền 
chăm sóc, nuôi dưỡng lẫn nhau khi cùng chung sống với nhau. Điều 679 
BLDS năm 2005 cũng quy định việc con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có 
quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế 
di sản của nhau. Tuy nhiên, thực tế rất khó xác định trường hợp nào là 
có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, trường hợp nào không do pháp luật chưa 
quy định căn cứ chứng minh việc nuôi dưỡng, chăm sóc lẫn nhau giữa con 
riêng và bố dượng, mẹ kế;
+ Đối với đồng bào các dân tộc ít người, quan hệ giữa
 các thành viên trong gia đình được Luật và Nghị định số 32/2002/NĐ-CP 
quy định tương đối chi tiết, cụ thể; Nhà nước ta cũng vận động, khuyến 
khích đồng bào các dân tộc thiểu số xóa bỏ những phong tục, tập quán lạc
 hậu đã và đang tạo nên sự đối xử kỳ thị bất bình đẳng giữa các thành 
viên trong gia đình. Tuy nhiên, việc tuyên truyền, vận động xóa bỏ trên 
thực tế vẫn còn gặp nhiều khó khăn.[36]
Mặt khác, pháp luật không công nhận quan hệ hôn nhân 
giữa những người chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn. Trong
 khi đó, gia đình của người dân tộc ít người chủ yếu là gia đình lớn, có
 nhiều thế hệ chung sống với nhau. Do đó, khi có tranh chấp tài sản và 
các quyền lợi khác sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của thành viên 
trong gia đình như con dâu hoặc con rể ở cùng gia đình. [37]
2.6. Về cấp dưỡng
Các vấn đề liên quan đến cấp dưỡng được quy định tại 
các Điều từ 50 đến 55 Luật HN-GĐ năm 2000 và trong Nghị định số 
70/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03 tháng 10 năm 2001. Các quy định này 
đã luật hóa một nghĩa vụ cơ bản và quan trọng giữa cha, mẹ và con; giữa 
anh chị em với nhau; giưa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa vợ và 
chồng trong những trường hợp nhất định khi một bên cần sự hỗ trợ từ bên 
kia. Điều này cũng xuất phát từ truyền thống tương thân, tương ái của 
dân tộc ta. Tuy nhiên, quy định về cấp dưỡng còn cứng nhắc, Luật 
mới chỉ quy định việc cấp dưỡng giữa những người có quan hệ đương nhiên 
về pháp luật (giữa vợ và chồng, cha mẹ và con, anh, chị, em ruột, ông bà
 và cháu). Trong khi đó, tập quán và truyền thống văn hóa, đạo đức của 
gia đình Việt Nam thường đề cao trách nhiệm của những người có quan hệ 
thân thích với nhau theo phương châm: “sểnh cha còn chú, sểnh mẹ bú dì”.
 Hạn chế này thể hiện tại khoản 1 Điều 50 Luật HN-GĐ chưa quy định nghĩa
 vụ cấp dưỡng giữa những người thân thích khác (giữa cháu với cô, dì, 
chú, bác…) mà giữa người được cấp dưỡng và người cấp dưỡng đã có quan hệ
 chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như người trong gia đình.
Ngoài ra, quá trình áp dụng pháp luật về cấp dưỡng đã bộc lộ một số vướng mắc khác như:
- Điều 53 của Luật quy định mức cấp dưỡng do 
các bên thỏa thuận, nếu thỏa thuận không được thì yêu cầu Tòa 
án giải quyết. Tuy nhiên, trong thực tiễn các bên thường không 
thể thỏa thuận được mà phải do Tòa án giải quyết. Thẩm phán 
khi hòa giải, giải thích chỉ áp dụng mức cấp dưỡng thấp nhất 
theo hướng dẫn là nửa tháng lương cơ bản. Mức cấp dưỡng này 
thường không phù hợp cho nhu cầu thiết yếu của một người. Tuy 
nhiên, khi người được cấp dưỡng yêu cầu tăng mức cấp dưỡng, người 
có nghĩa vụ cấp dưỡng không đồng ý vì cho rằng mình không có 
khả năng; Thẩm phán thì khó xem xét để tăng, mức tăng là bao 
nhiêu nên thường quy định mức thấp nhất (chỉ tăng khi người cấp 
dưỡng tự nguyện).
- Điều 56 quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con khi ly hôn: “Khi
 ly hôn, cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con chưa thành niên hoặc con 
đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng
 lao động và không có tài sản để tự nuôi mình có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi
 con. Mức cấp dưỡng cho con do cha, mẹ thoả thuận; nếu không thoả thuận 
được thì yêu cầu Toà án giải quyết". Tuy nhiên, hiện nay việc yêu cầu cấp dưỡng sau khi ly hôn đang còn nhiều khó khăn, bất cập. 
Trong thực tiễn giải quyết các vụ ly hôn, nếu các bên
 không thỏa thuận được về cấp dưỡng thì Tòa án căn cứ vào những quy định
 hiện hành và điều kiện khả năng thực tế của mỗi bên để quyết định giao 
con cho một bên trực tiếp nuôi dưỡng. Theo đó, khi áp dụng Điều 92 thì: "Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con".
 Đây là nghĩa vụ của cha, mẹ, do đó không phân biệt người trực tiếp nuôi
 con có khả năng kinh tế hay không, người không trực tiếp nuôi con vẫn 
phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. 
Tuy nhiên, trên thực tế nhiều trường hợp sau khi ly 
hôn, khoản tiền cấp dưỡng chưa bảo đảm được quyền lợi của đứa con, hoặc 
khoản tiền cấp dưỡng sau khi ly hôn trở thành khoản nợ khó đòi. Theo quy
 định thì mức cấp dưỡng được căn cứ vào mức thu nhập, giá cả thị trường 
tại thời điểm xét xử vụ án. Khi ly hôn có rất nhiều trường hợp con còn ở
 tuổi rất nhỏ có trường hợp 14 – 15 năm sau mới đủ 18 tuổi. Mức cấp 
dưỡng lại bất di bất dịch trong khi thị trường đầy biến động, giá cả 
ngày càng leo thang. Mức cấp dưỡng đã và đang trở thành gánh nặng cho 
những người trực tiếp nuôi dưỡng con sau khi ly hôn; ngoài ra còn có 
những trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng không tự nguyện thực hiện 
nghĩa vụ cấp dưỡng.
- Điều 60 Luật HN-GĐ quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng: “Khi
 ly hôn, nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do 
chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình”. Quy định này rất khó đi vào thực tiễn vì chưa phù hợp với mối quan hệ của những người đã ly hôn.
- Thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều trường hợp, do có 
điều kiện kinh tế nên người trực tiếp nuôi con không yêu cầu cấp dưỡng 
và Tòa án công nhận. Nhưng quyền nhận cấp dưỡng là quyền của người con 
khi cha mẹ ly hôn nên người trực tiếp nuôi dưỡng không có quyền từ chối 
cấp dưỡng. Việc từ chối cấp dưỡng sẽ dẫn tới quyền lợi chính đáng của 
người con không được đảm bảo. Tuy nhiên, Luật HN-GĐ không quy định về 
vấn đề này.
Hiện nay, nhiều trường hợp hai vợ chồng ly hôn (vợ là
 nguyên đơn), nhưng người vợ đang mang thai và cả hai đều công nhận đó 
là con chung của vợ chồng và thỏa thuận người chồng cấp dưỡng nuôi con 
sau khi cháu bé sinh ra. Khi giải quyết việc cấp dưỡng tại Tòa, đối 
tượng được hưởng cấp dưỡng chưa có tên, tuổi cụ thể xác định trong khi 
đó, quyết định của Tòa án phải được ghi nhận cụ thể và chính xác để đảm 
bảo công tác thi hành án sau này. Đây là nguyên nhân dẫn đến tranh chấp,
 gây lúng túng trong việc xử lý.[38]
2.7. Về giám hộ giữa các thành viên trong gia đình
Mặc dù quy định về giám hộ trong Luật HN-GĐ (Điều 79 –
 Điều 84) đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong bảo đảm cho thành viên 
của gia đình là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự
 được chăm sóc, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp; kế thừa, phát huy 
truyền thống đạo đức trong gia đình; nâng cao trách nhiệm của các thành 
viên trong gia đình trong thực hiện quyền, nghĩa vụ đối với nhau; tuy 
nhiên nhiều nội dung quan trọng của giám hộ chưa được Luật HN-GĐ ghi 
nhận hoặc chưa có sự đồng, bộ thống nhất với quy định về giám hộ trong 
BLDS khi áp dụng pháp luật chuyên ngành thì địa phương gặp nhiều khó 
khăn. Ví dụ: các trường hợp giám hộ đương nhiên, cử giám hộ, giám sát 
giám hộ giữa các thành viên trong gia đình…[39]
2.8. Về ly hôn
Ly hôn là một chế định quan trọng trong Luật HN-GĐ, 
được quy định từ Điều 85 đến Điều 99. Quy định của Luật về cơ bản đã bảo
 đảm thực hiện nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; tôn trọng các 
quyền nhân thân và tài sản của các bên trong ly hôn; quyền của phụ nữ và
 trẻ em; quyền, lợi ích của người thứ ba; sự ổn định trong các quan hệ 
gia đình và quan hệ xã hội. Tuy nhiên, qua quá trình thi hành Luật 
HN-GĐ, chế định ly hôn đã bộc lộ những hạn chế sau: [40]
- Về căn cứ ly hôn: Luật HN-GĐ quy định về căn cứ lý 
hôn dựa trên thực trạng quan hệ hôn nhân,[41] không dựa trên yếu tố lỗi 
của vợ chồng trong việc làm phát sinh mâu thuẫn dẫn tới ly hôn. Việc xác
 định căn cứ ly hôn vì thế còn định tính, trừu tượng, khó xác định và 
cũng không bao quát được hết các trường hợp vợ chồng có yêu cầu chính 
đáng về ly hôn.[42] Xác định trách nhiệm của người vi phạm quyền, nghĩa 
vụ trong hôn nhân vì thế đã không được quy định rõ ràng trong Luật. 
Nhiều trường hợp việc giải quyết ly hôn đã bị lạm dụng bởi một số đương 
sự nhằm để tránh né các chế tài do đã vi phạm chế độ hôn nhân một vợ – 
một chồng, đồng thời để hợp pháp hóa quan hệ ngoại tình của mình trong 
thời kỳ hôn nhân.
- Về việc giải quyết yêu cầu thuận tình ly hôn:
Theo quy định tại Điều 90 Luật HNGĐ năm 2000, thì để 
quyết định đồng ý cho ly hôn hay không Tòa án phải xem xét mâu thuẫn gia
 đình đã đến mức trầm trọng hay chưa; một trong những biểu hiện của việc
 mâu thuẫn gia đình đã trầm trọng và không thể hàn gắn được, ví dụ như: 
đã được họ hàng, gia đình, cơ quan, tổ chức khuyên nhủ, hòa giải nhưng 
không thành. Chính vì vậy, trên thực tế, khi có bất cứ một việc yêu cầu 
ly hôn nào, không phân biệt là thuận tình ly hôn hay đơn phương yêu cầu 
ly hôn thì thủ tục hòa giải vẫn là thủ tục bắt buộc. Việc hòa giải được 
thực hiện từ cơ sở đến Tòa án.
Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 28 Bộ luật TTDS đối
 với trường hợp giải quyết việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn thì 
có thể thụ lý theo việc dân sự, trong khi đó, bản chất của việc dân sự 
là xác nhận một sự kiện pháp lý, nên về nguyên tắc không có thủ tục hoà 
giải và không có thủ tục phản tố. Chính vì mâu thuẫn này mà thực tế tại 
các Tòa án hiện nay, kể cả với các việc yêu cầu công nhận thuận tình ly 
hôn thì Tòa án vẫn thụ lý theo vụ án dân sự hôn nhân gia đình chứ không 
thụ lý theo trình tự giải quyết việc dân sự.
- Về quyền yêu cầu ly hôn: Theo khoản 8 Điều 8 của Luật HN-GĐ, “ly hôn là chấm dứt hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng”.
 Như vậy, quyền yêu cầu ly hôn là quyền nhân thân gắn liền với người vợ,
 người chồng và không thể chuyển giao cho người khác. Quyền tự do ly hôn
 của vợ, chồng được pháp luật ghi nhận nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp
 pháp của vợ, chồng. Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt, pháp 
luật vẫn hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của chồng. Cụ thể, theo Điều 85 
Luật HN-GĐ thì “trong trường hợp người vợ có thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi người chồng không có quyền yêu cầu ly hôn”.
 Như vậy, người chồng không thể và không có quyền đơn phương đệ đơn ra 
Tòa yêu cầu ly hôn trong trường hợp này. Về mặt pháp lý, nếu như trong 
trường hợp đứa trẻ được người vợ đang mang thai không phải là con của 
người chồng thì người chồng có được xin ly hôn hay không? Theo quy định 
hiện hành khi đứa trẻ đã được thành thai trong thời kỳ hôn nhân đương 
nhiên là con của vợ chồng. Tuy nhiên, đây chính là sự bất cập của pháp 
luật, vì trên thực tế, khi biết được đứa con người vợ đang mang thai 
không phải là con của mình, người chồng sẽ có những diễn biến tâm lý bất
 thường dễ dẫn đến phạm tội.
- Về đại diện trong ly hôn: Điều 73 Bộ luật TTDS quy 
định đối với việc ly hôn, đương sự không được ủy quyền cho người khác 
thay mặt mình tham gia tố tụng, nhưng hiện nay Luật HNGĐ năm 2000 chưa 
có quy định cụ thể về vấn đề ai sẽ là người đại diện cho người vợ hoặc 
chồng bị mất năng lực hành vi dân sự khi bên kia yêu cầu ly hôn. Do vậy,
 trong thực tế, giải quyết các vụ án ly hôn trong trường hợp này còn 
nhiều vướng mắc.
- Về đường lối giải quyết ly hôn: Điều 86 Luật HN-GĐ 
quy định về việc khuyến khích hòa giải ở cấp cơ sở đối với tranh chấp về
 hôn nhân, gia đình. Do quy định không có tính bắt buộc nên nhiều vụ 
việc Tòa án thụ lý chưa qua hòa giải ở cấp cơ sở; khi Tòa tiến hành hòa 
giải theo Điều 88 Luật HN-GĐ thì các bên đoàn tụ, tiếp tục chung sống. 
Từ đó cho thấy đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến lượng án hôn 
nhân gia đình ngày càng tăng cao, tiêu tốn không ít ngân sách của nhà 
nước.
- Về quyền, nghĩa vụ với con khi ly hôn: Luật HN-GĐ 
chưa quy định cụ thể về căn cứ xác định việc Tòa án giao con cho ai nuôi
 là đã “căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con”. Thực tế, khi Tòa 
án quyết định giao con chưa thành niên cho cha hoặc mẹ trực tiếp nuôi 
thì phải xem xét thêm các điều kiện khác như có thuận lợi cho việc thăm 
nom cháu của những người thân thích khác hay không (ông bà nội, ngoại, 
cô, chú, bác, cậu, dì) nhằm duy trì mối quan hệ gần gũi về huyết thống 
và mối quan hệ bạn bè ở khu dân cư, trường học của người con trong 
trường hợp này.
Thủ tục bắt buộc khi giải quyết ly hôn là Tòa án phải
 hỏi ý kiến trẻ em từ 09 tuổi trở lên về việc sống với cha hay với mẹ. 
Quy định này nhằm lấy ý kiến của con để Tòa án có cơ sở quyết định việc 
nuôi dưỡng giao cho người mẹ hay người cha theo nguyện vọng của con. Tuy
 nhiên, trên thực tế việc thực hiện thủ tục này gặp vướng mắc khi cha mẹ
 trẻ em không hợp tác. Đây là quy định hợp tình, hợp lý, nhưng cách thực
 hiện quy định này nên có sự thay đổi, không nên bắt buộc trẻ em đến Tòa
 làm bản tường trình như hiện nay mà nên lấy ý kiến thông qua người 
thân, thầy cô của trẻ em để tránh tâm lý nặng nề cho trẻ em.
Điều 94 Luật HN-GĐ năm 2000 quy định về quyền, nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con: “có
 quyền thăm nom con; không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.
 Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom 
để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo 
dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Toà án
 hạn chế quyền thăm nom con của người đó”.
Quy định này trong quá trình áp dụng thực hiện còn 
gặp những bất cập. Hiện nay vẫn chưa có văn bản dưới luật nào cụ thể hóa
 quy định trên. Các hành vi “cản trở” hoặc “gây ảnh hướng xấu”
 của một bên không trực tiếp nuôi con được hiểu như thế nào cho thống 
nhất? hay nói cách khác những loại hành vi nào được cho là “cản trở” hoặc “gây ảnh hưởng xấu” đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa được quy định cụ thể.
Luật HN-GĐ chưa có quy định nào cấm hoặc hạn chế 
người cha (mẹ) quyền thăm con trong trường hợp người này từng có hành vi
 bạo lực gia đình trong quá khứ (đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc 
truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi bạo lực gia đình). Ví dụ, trong 
quá khứ người cha thường xuyên có hành vi bạo lực gia đình và việc thăm 
nom của người này có thể sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện tâm lý
 và tinh thần của trẻ em (vì khi gặp lại cha mình thì những hình ảnh bạo
 lực gia đình có thể sẽ tái hiện lại trong trí nhớ của trẻ). Nhưng Tòa 
án không quyết định hạn chế quyền thăm nom con sau khi ly hôn trong 
trường hợp trên được vì hoàn toàn không có cơ sở pháp lý, bởi quyền thăm
 nom con sau khi ly hôn chỉ bị Tòa án hạn chế khi “lạm dụng việc thăm nom để gây cản trở và gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con”.
- Về quan hệ tài sản: Điều 95 Luật HN-GĐ quy định khi
 ly hôn tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có
 xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp 
của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản. Tuy nhiên, 
Luật HN-GĐ và các văn bản hướng dẫn thi hành không quy định cụ thể về 
hoàn cảnh của mỗi bên, tỷ lệ chia tài sản theo công sức đóng góp. Điều 
này dẫn đến việc áp dụng không thống nhất giữa các Tòa án.
Mặt khác, Điều 96 của Luật quy định trường hợp vợ 
chồng sống chung với gia đình một bên, khi ly hôn nếu tài sản của vợ 
chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ 
hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn 
cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì phát 
triển khối tài sản chung, cũng như vào đời sống chung của gia đình. Tuy 
nhiên, căn cứ để xem xét công sức đóng góp của vợ hoặc chồng trong khối 
tài sản chung không được quy định rõ ràng. Quy định như hiện nay là chưa
 đảm bảo được quyền lợi về tài sản của người vợ khi chung sống với gia 
đình chồng. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp khi ly hôn, người vợ 
không được chia tài sản chung trong khối tài sản chung với gia đình 
chồng, mặc dù trước đó họ có một thời gian dài đóng góp công sức xây 
dựng khối tài sản đó.
2.9. Về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
Không thể phủ nhận, cùng với quá trình hội nhập quốc 
tế của đất nước, các quan hệ HN-GĐ có yếu tố nước ngoài đã có sự phát 
triển và có những chuyển biến tích cực[43]. Về pháp lý, Luật HN-GĐ năm 
2000 đã có một chương riêng (Chương XI) từ Điều 100 đến Điều 106 quy 
định về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Chính phủ và 
Tòa án nhân dân tối cao cũng đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi 
hành các quy định của Luật HN-GĐ năm 2000 về quan hệ hôn nhân có yếu tố 
nước ngoài, như Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ 
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật HN-GĐ năm 2000 về quan 
hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, Nghị định số 24/2013/NĐ-CP
 ngày 28/3/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật HN-GĐ về
 quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, Thông tư số 
07/2002/TT-BTP ngày 16/12/2002 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số 
điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP; Thông tư liên tịch số 
15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 15/9/2011 của Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại 
giao, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định về tương
 trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự của Luật Tương trợ Tư pháp; Nghị 
quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án 
nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một 
số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình… Những văn bản này là cơ
 sở pháp lý cần thiết để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình. 
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hiện tượng xã hội này 
cũng đã phát sinh nhiều vấn đề tiêu cực như: tình trạng môi giới kết hôn
 bất hợp pháp, kết hôn vì mục đích kinh tế,lợi dụng việc kết hôn nhằm 
mục đích mua bán, bóc lột sức lao động của phụ nữ…[44]
Bên cạnh những đóng góp tích cực trong việc hình 
thành cơ sở pháp lý cần thiết để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia 
đình này, cũng đã có một số quy định chưa phù hợp với thực tiễn hiện 
nay, chưa đảm bảo sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật như: chưa có sự 
đồng bộ trong quy định của Luật với các hệ thống văn bản dưới luật về 
điều kiện kết hôn với người nước ngoài; về từ chối đăng ký kết hôn; về 
chức năng tư vấn, hỗ trợ hôn nhân của các trung tâm hỗ trợ kết hôn… Một 
số quy định không phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự, hiệp định tương 
trợ tư pháp mà Việt Nam ký với các nước.
Qua rà soát khung pháp luật về quan hệ hôn nhân có 
yếu tố nước ngoài cho thấy hệ thống pháp luật tồn tại một số điểm bất 
cập, hạn chế sau:
Thứ nhất, pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài chưa đầy đủ:
- Các quy định về điều kiện kết hôn trong Luật HN-GĐ 
Việt Nam được áp dụng chung cho cả các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước 
ngoài mà chưa có những quy định riêng về các điều kiện kết hôn với người
 nước ngoài (chẳng hạn quy định chênh lệch về tuổi, có hiểu biết lẫn 
nhau tại thời điểm đăng ký kết hôn).
- Trước khi Nghị định số 24/2013/NĐ-CP ban hành, chưa
 có những quy định hướng dẫn hoạt động của Trung tâm hỗ trợ kết hôn 
trong việc thực hiện chức năng tư vấn, môi giới hôn nhân.
- Hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có những quy định 
xác lập thông tin về tình hình sinh sống của công dân Việt Nam kết hôn 
với người nước ngoài và đang sinh sống ở nước ngoài (chẳng hạn pháp luật
 chưa có quy định việc bảo hộ cho công dân Việt Nam là phụ nữ Việt Nam 
sau khi kết hôn sang định cư ở Trung Quốc (Đài Loan), Hàn Quốc… nên việc
 giúp đỡ các cô dâu Việt Nam khi gặp hoàn cảnh khó khăn còn nhiều hạn 
chế do nhiều nguyên nhân: trình độ thấp, không có thông tin về các cơ 
quan ngoại giao);
Thứ hai, pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài có những điểm chưa phù hợp với thực tiễn cuộc sống.
- Trước khi Nghị định số 24/2013/NĐ-CP ban hành, cơ 
chế về tổ chức và hoạt động của các Trung tâm hỗ trợ kết hôn thuộc Hội 
liên hiệp phụ nữ chưa thực sự có hiệu quả trong việc bảo đảm kết hôn 
giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài đúng pháp luật và lành mạnh.
- Pháp luật chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn tình trạng kết hôn giả tạo nhằm mục đích khác.
Trong thực tiễn xét xử Tòa án nhân dân cũng đã gặp 
nhiều vướng mắc khi giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình có 
yếu tố nước ngoài. Ví dụ, trường hợp người Việt Nam đi lao động xuất 
khẩu ở nước ngoài, hết thời hạn hợp đồng lao động không về nước mà trốn ở
 lại sống lưu vong ở nước đó, người vợ (chồng) ở Việt Nam muốn ly hôn 
với họ, nhưng không biết họ đang ở đâu, không có liên lạc với gia đình. 
Hoặc trường hợp người Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, sau một 
thời gian sinh sống với vợ (chồng) ở nước ngoài trở về Việt Nam và có 
yêu cầu ly hôn với chồng (vợ) của mình đang ở nước ngoài. Mặc dù các 
trường hợp trên Tòa án đã thực hiện mọi biện pháp cần thiết như ủy thác 
tư pháp ra nước ngoài nhưng vẫn không có kết quả, dẫn đến vụ việc không 
được giải quyết, ảnh hưởng rất lớn tới quyền lợi của đương sự.
Bên cạnh đó, với những trường hợp 02 vợ chồng người 
nước ngoài kết hôn tại nước ngoài, sau đó sinh sống tại Việt Nam, khi có
 mâu thuẫn có đơn xin ly hôn tại Việt Nam, có Tòa áp dụng điểm g, khoản 
2, Điều 410 Bộ luật TTDS để không thụ lý vụ án; có Tòa căn cứ khoản 14, 
Điều 8 và khoản 1, Điều 104 Luật HN-GĐ để thụ lý vụ án; lại có Tòa áp 
dụng Điều 26 Bộ luật TTDS để giải quyết tranh chấp hôn nhân. Hoặc các 
trường hợp yếu tố nước ngoài chấm dứt khi đang giải quyết vụ án, thẩm 
quyền của Tòa đó không còn nhưng có Tòa vẫn không chuyển thẩm quyền theo
 quy định; hoặc có trường hợp vẫn tồn tại yếu tố nước ngoài nhưng vướng 
mắc về quy định của pháp luật về tố tụng, về đường lối giải quyết, về 
việc thực hiện ủy thác… nên đã vi phạm về thời hạn giải quyết vụ án.
- Ngoài ra, đối với các quy định cụ thể, ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương tập trung vào những nội dung sau:
+ Hiện nay theo quy định của pháp luật Việt Nam, độ 
tuổi kết hôn của người nữ là từ 18 tuổi trở lên, nam từ 20 tuổi trở lên.
 Trong khi đó, quy định về độ tuổi kết hôn của một số nước và vùng lãnh 
thổ thấp hơn so với Việt Nam (Như Anh, Mỹ, Úc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn 
Quốc là trên 16 tuổi; ở Pháp là từ 15 tuổi). Do đó, cơ quan có thẩm 
quyền sẽ gặp khó khăn khi thụ lý các hồ sơ xin công nhận việc đăng ký 
kết hôn đã đăng ký ở cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài (ghi chú kết 
hôn) vì ngoài việc xem xét hôn nhân có phù hợp với pháp luật Việt Nam 
hay không còn phải tính đến quyền lợi của phụ nữ và trẻ em.
+ Tại khoản 2, Điều 100 quy định trong quan hệ HN-GĐ “Công
 dân Việt Nam, người nước ngoài tại Việt Nam được hưởng các quyền và có 
nghĩa vụ như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy
 định khác”. Thực tế, theo quy định pháp luật Việt Nam về quyền sở 
hữu bất động sản, trường hợp vợ hoặc chồng là người nước ngoài thì chưa 
được đứng tên trên các giấy chứng nhận, dù tài sản được tạo lập trong 
thời kỳ hôn nhân. Do đó, khi đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
 ở, người vợ hoặc chồng là người nước ngoài phải lập văn bản cam kết tài
 sản đó không thuộc tài sản chung của vợ chồng mà là tài sản riêng của 
vợ hoặc chồng là người Việt Nam. Điều này không phù hợp với quy định, vì
 khi đó tài sản chưa được cơ quan có thẩm quyền công nhận. Mặt khác, dù 
tài sản đã có giấy chứng nhận, khi giao dịch cơ quan công chứng vẫn yêu 
cầu người vợ hoặc chồng là người nước ngoài phải lập văn bản cam kết tài
 sản riêng. Điều này cũng không phù hợp với bản chất vụ việc vì đây là 
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
+ Điều 101 về áp dụng pháp luật nước ngoài đối với 
quan hệ HN-GĐ có yếu tố nước ngoài quy định pháp luật nước ngoài sẽ được
 áp dụng cho quan hệ HN-GĐ có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam nếu “việc 
áp dụng đó không trái với các nguyên tắc quy định trong luật này”. Thực 
tiễn cho thấy, việc áp dụng pháp luật nước ngoài để điều chỉnh quan hệ 
HN-GĐ có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam là hoàn toàn cần thiết, đặc biệt
 trong trường hợp có liên quan đến các điều ước quốc tế mà Việt Nam là 
thành viên (ví dụ các Hiệp định tương trợ tư pháp) có quy định. Tuy 
nhiên, điều kiện mà điều luật quy định không rõ ràng bởi pháp luật nước 
ngoài sẽ không được áp dụng nếu trái với nguyên tắc quy định trong Luật 
HN-GĐ năm 2000 mà cụ thể là những nguyên tắc tại Điều 2 của luật. Như 
vậy, nếu pháp luật nước ngoài trái với những nguyên tắc có liên quan đến
 quan hệ HNGĐ nhưng lại được quy định trong các văn bản pháp luật khác 
(ví dụ: BLDS năm 2005) thì có được áp dụng hay không?
+ Khoản 3, Điều 102 Luật HN-GĐ năm 2000 quy định tòa 
án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết các việc về HNGĐ có yếu tố
 nước ngoài (trừ trường hợp quan hệ HNGĐ giữa công dân Việt Nam với công
 dân nước láng giềng ở khu vực biên giới thuộc thẩm quyền giải quyết của
 tòa án nhân dân cấp huyện). Do Luật HN-GĐ ban hành trước Bộ luật TTDS 
năm 2004 nên cần thiết phải có quy định này. Tuy nhiên, từ thời điểm Bộ 
luật TTDS năm 2004 có hiệu lực thi hành (1/1/2005), việc xác định thẩm 
quyền của tòa án giải quyết các vụ việc HNGĐ đã được quy định cụ thể tại
 Điều 27, 28, 34 và 35 nên quy định tại đoạn 1, khoản 3, Điều 102 trở 
nên thừa vì trùng lắp với quy định của Bộ luật TTDS. Thực tiễn cũng cho 
thấy, các tòa án khi xác định thẩm quyền cũng chỉ căn cứ vào quy định 
của Bộ luật TTDS.
+ Khoản 2, Điều 103 Luật HN-GĐ quy định: “Nghiêm 
cấm lợi dụng việc kết hôn có yếu tố nước ngoài để buôn bán phụ nữ, xâm 
phạm tình dục đối với phụ nữ hoặc vì mục đích trục lợi khác”. Như 
vậy, việc kết hôn giả, vì mục đích trục lợi bị cấm, nếu ai thực hiện là 
trái pháp luật, nhưng do Luật HN-GĐ không quy định nội dung này nên thực
 tế, Tòa án không xử lý hủy kết hôn đối với các trường hợp trên mà giải 
quyết ly hôn. Đây là điều không phù hợp, hành vi vi phạm của các bên vẫn
 không bị xử lý. Ngoài ra, chưa có quy định giải thích thuật ngữ “trục lợi khác” là gì? Vì vậy, việc áp dụng quy định này trong thực tế còn nhiều bất cập.
+ Khoản 3 Điều 104 quy định “việc giải quyết tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn phải tuân theo pháp luật nước nơi có bất động sản”
 không phù hợp với thực tiễn, có rất nhiều trường hợp vợ chồng người 
Việt Nam, sinh sống tại Việt Nam nhưng lại có tài sản là bất động sản ở 
nước ngoài. Khi đương sự có yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, Tòa án đã 
gặp nhiều khó khăn trong việc thu thập chứng cứ, đợi kết quả ủy thác tư 
pháp ở nước ngoài, nhưng vẫn không giải quyết được vụ việc đương sự có 
yêu cầu.[45]
+ Khoản 4, Điều 104 về “ly hôn có yếu tố nước ngoài” 
quy định bản án, quyết định ly hôn của tòa án hoặc cơ quan khác có thẩm 
quyền của nước ngoài được công nhận tại Việt Nam theo quy định của pháp 
luật Việt Nam. Thời điểm năm 2000, việc công nhận bản án, quyết định của
 nước ngoài được tiến hành theo quy định của Pháp lệnh Công nhận và thi 
hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài ngày 
17/4/1993 và Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về
 đăng ký hộ tịch. Tuy nhiên, từ thời điểm Bộ luật TTDS năm 2004 có hiệu 
lực thi hành, vấn đề công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự
 của tòa án nước ngoài đã được bộ luật này điều chỉnh với nhiều quy định
 mới nên quy định tại khoản 4, Điều 104 cũng trở nên thừa.
3. Những vấn đề đã phát sinh trong thực tiễn nhưng chưa được pháp luật quy định
3.1. Về việc xác lập chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận (chế độ tài sản ước định)
Về chế độ tài sản của vợ chồng, Luật HN-GĐ năm 2000 
chỉ dự liệu một chế độ tài sản pháp định. Theo đó, Luật quy định chung 
cho tất cả các cặp vợ chồng về căn cứ xác định tài sản chung, tài sản 
riêng, về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng và về phân chia tài sản của vợ 
chồng khi ly hôn. Về nguyên tắc, đây là chế độ tài sản trong hôn nhân 
duy nhất được pháp luật thừa nhận. Việc áp đặt một chế độ tài sản trong 
hôn nhân như vậy là cứng nhắc, không đáp ứng được những nhu cầu khác 
nhau của các cặp vợ chồng trong việc thực hiện các quan hệ tài sản. Thực
 tế, quy định của Luật, một mặt, không đảm bảo được quyền tự định đoạt 
của người có tài sản được quy định trong pháp luật dân sự (Quyền về tài 
sản là quyền cơ bản của cá nhân được Hiến pháp, BLDS bảo hộ : mỗi cá 
nhân có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu 
của mình theo ý chí của mình, miễn sao không xâm phạm lợi ích của người 
khác, không trái với đạo đức xã hội), mặt khác, không phù hợp với hoàn 
cảnh của từng cặp vợ chồng, từng gia đình “mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi 
cảnh”, nhất là đối với những trường hợp vợ, chồng có nhiều tài sản 
riêng, tiến hành các hoạt động kinh doanh, thương mại mà cần có một chế 
độ tài sản trong hôn nhân phù hợp. 
Hiện nay, Luật HN-GĐ đã ghi nhận và bảo vệ quyền sở 
hữu tài sản riêng của vợ, chồng. Tuy nhiên, việc chứng minh đâu là tài 
sản riêng trên thực tế hiện nay gặp rất nhiều khó khăn nếu hai bên không
 có thỏa thuận trước hoặc không có các chứng cứ, tài liệu để chứng minh 
cụ thể. Mặt khác, trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, nhiều trường 
hợp một trong hai bên vợ (hoặc chồng) có con riêng, có công ty riêng 
hoặc một trong hai bên đứng tên tài sản, bất động sản cho người khác 
hoặc tình hình ly hôn có tỷ lệ ngày càng tăng cao… nhiều cặp vợ chồng 
thấy cần thiết phải thỏa thuận về chế độ tài sản áp dụng trong thời kỳ 
hôn nhân, trong đó xác định rõ những khối tài sản riêng của mỗi bên để 
bảo đảm có căn cứ rõ ràng trong giải quyết các trường hợp nêu trên. 
Trước như cầu khách quan như vậy, pháp luật cần có những quy định thừa 
nhận hiệu lực của những thỏa thuận này. Có như vậy, quyền tự định đoạt 
của vợ, chồng về tài sản của mình cũng như sự công khai, minh bạch trong
 các giao dịch mới được bảo đảm, tránh những rắc rối, phức tạp có thể 
xảy ra khi hôn nhân đổ vỡ. 
Chính vì thế, qua thực tiễn tổng kết thi hành Luật 
HN-GĐ năm 2000 cho thấy, việc lập hôn ước trước hôn nhân là cách ứng xử 
công bằng và tiến bộ. Đó là cơ sở để bảo vệ tài sản riêng của từng cá 
nhân. Nó trợ giúp kế hoạch dự trù tài sản riêng hay tài sản chung trong 
hôn nhân, giúp giảm thiểu xung đột và tiết kiệm được án phí tranh tụng 
trong trường hợp ly hôn… Thêm vào đó, việc lập hôn ước có thể củng cố 
vững chắc quan hệ vợ chồng, bởi nếu hiểu rõ ràng ý kiến của nhau về tiền
 bạc, tài sản sẽ giúp cuộc hôn nhân lâu bền hơn. Bên cạnh đó, việc thỏa 
thuận tài sản trước khi kết hôn còn bảo đảm cho một cam kết hôn nhân 
thực sự chứ không vì hôn nhân vụ lợi. Nó làm giảm tranh chấp khi ly hôn.[46]
Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế – xã hội và pháp 
luật chung hiện nay ở nước ta, cần nghiên cứu sâu hơn về sự cần 
thiết phải quy định thỏa thuận về tài sản trước khi kết hôn, hay nên 
tiếp tục kế thừa và phát huy những quy định của Luật HN-GĐ năm 2000. 
Tình nghĩa vợ chồng là vấn đề chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm 
sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến 
bộ, hạnh phúc, bền vững (Điều 18 Luật HNGĐ năm 2000), nếu quy định cụ 
thể vấn đề chia tài sản trước khi kết hôn trong Luật, sẽ dẫn đến việc 
“thực dụng hóa” một vấn đề cao quý của con người, đó là hôn nhân.
3.2. Ly thân
Nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một 
chồng, vợ chồng bình đẳng là một trong các nguyên tắc cơ bản của chế độ 
hôn nhân và gia đình Việt Nam. Tự nguyện trong hôn nhân bao gồm cả tự 
nguyện trong kết hôn, tự nguyện trong giải quyết các mẫu thuẫn giữa vợ 
chồng. Khi có mâu thuẫn trong hôn nhân, vợ chồng có quyền xác định 
phương thức giải quyết mâu thuẫn tốt nhất, phù hợp với nguyện vọng, hoàn
 cảnh của chính họ và gia đình họ, như: thông qua hòa giải (tự hòa giải 
hoặc thông qua cá nhân, tổ chức có thẩm quyền về hòa giải), thông qua 
biện pháp ly thân hoặc ly hôn. Ly thân, vợ chồng không sống cùng nhau 
nhưng hôn nhân của họ vẫn tồn tại, để giảm sự căng thẳng, xung đột gay 
gắt giữa vợ và chồng, để các bên có thời gian suy ngẫm, đánh giá về tình
 cảm của vợ chồng, trách nhiệm với con cái và có thể sửa đổi tính tình 
để vợ chồng đoàn tụ, tiếp tục chung sống. 
Tuy nhiên, Luật HN-GĐ năm 2000 chỉ thừa nhận hai 
phương thức giải quyết mâu thuẫn giữa vợ và chồng là thông qua hòa giải 
và thông qua việc chấm dứt hôn nhân bằng ly hôn. Chế định ly thân chưa 
được nhà làm luật Việt Nam thừa nhận, trong khi trên thực tế, vì nhiều 
lý do khác nhau (do tuổi cao, danh dự, uy tín, sợ ảnh hưởng tâm lý của 
các con…), nhiều cặp vợ chồng khi có mâu thuẫn đã không lựa chọn việc 
chấm dứt hôn nhân bằng ly hôn mà đã thực hiện việc ly thân như là một 
giải pháp. Nhiều trường hợp vợ chồng yêu cầu Tòa án giải quyết ly thân 
để phân chia tài sản và xác định người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, 
giáo dục con, nhưng Tòa án không có căn cứ để thực hiện theo yêu cầu của
 đương sự. Thực tế đã nảy sinh nhiều vấn đề. Chẳng hạn, nhiều trường hợp
 vợ chồng khi sống ly thân đã xảy ra xung đột trong việc quyết định 
quyền và nghĩa vụ nuôi con cái dẫn đến việc ảnh hưởng không nhỏ tới tâm 
lý con trẻ ; hoặc trong thời gian ly thân, cả hai tạo ra thu nhập riêng,
 tài sản riêng, đến khi ly hôn tòa án gặp khó khăn trong việc xác định 
tài sản chung, tài sản riêng; trường hợp vợ chồng ly thân trong thời 
gian dài, con chung sống với một trong hai bên mà bên còn lại không có 
thỏa thuận cấp dưỡng, đến khi ly hôn, con chung đã trên 18 tuổi nhưng 
bên nuôi con vẫn yêu cầu bên còn lại thanh toán tiền cấp dưỡng nuôi con,
 yêu cầu này không được tòa án chấp nhận làm ảnh hưởng đến quyền lợi của
 người nuôi con…
Hiện nay, ly thân là tình trạng diễn ra không ít 
trong các gia đình, ví dụ: theo thống kê của UBND tỉnh Thanh Hóa cho 
thấy có tới 90% các cuộc ly hôn đều trải qua giai đoạn ly thân. Ly thân 
xảy ra khi vợ chồng không muốn sống chung với nhau, nhưng lại chưa đến 
mức phải ly hôn (hoặc chưa thể ly hôn vì những ràng buộc về giáo lý hoặc
 những lý do khác). Ly thân giúp cho con cái của họ không bị ảnh hưởng 
nhiều đến tâm lý, không phải đối diện với sự đổ vỡ, khủng hoảng về tinh 
thần vì cha mẹ ly hôn. Trong nhiều trường hợp, vợ chồng trải qua thời 
gian ly thân lại trở về sống chung với nhau mà không phải ly hôn.
Có thể nói, ly thân là giải pháp cần thiết để vợ 
chồng suy nghĩ cặn kẽ, nhìn lại khiếm khuyết của nhau trước khi quyết 
định ly hôn. Ly thân là một thực tế cần được nhà nước và xã hội thừa 
nhận. Tuy nhiên, do Luật HN-GĐ chưa có quy định về ly thân, nên cũng kéo
 theo nhiều hệ quả, gây rắc rối, phức tạp cho quan hệ hôn nhân, gây khó 
khăn cho một bên (trong trường hợp bên kia cố tình trì hoãn việc ly hôn 
vì mục đích cá nhân).
Về vấn đề này, tại Hội nghị Tổng kết công tác ngành Tòa án năm 1995, Tòa án nhân dân tối cao đã có kết luận: “Luật HN-GĐ không quy định Tòa án thụ lý và giải quyết yêu cầu ly thân, nhưng Điều 18 Luật HN-GĐ
 quy định, khi hôn nhân tồn tại, nếu một hoặc các bên yêu cầu và có lý 
do chính đáng thì có thể chia tài sản chung vợ chồng. Trong trường hợp 
này thông thường quan hệ vợ chồng đã rạn nứt, các đương sự thực tế đã ly
 thân. Khi chia tài sản nếu họ đặt vấn đề Tòa án xác nhận tình trạng ly 
thân thì Tòa án có thể xác nhận. Nếu các đương sự chỉ đơn thuần xin ly 
thân thì Tòa án giải thích cho họ tự định đoạt mà không thụ lý giải 
quyết cho ly thân hay không”. Như vậy, vấn đề ly thân đã được Tòa án
 nhân dân tối cao nhắc đến và hướng dẫn Tòa án nhân dân các cấp thực 
hiện ở những năm trước đây khi chưa có Luật HN-GĐ năm 2000. 
Năm 2000, Chính phủ khi thực hiện dự án sửa đổi Luật 
HNGĐ năm 1986 đã đưa chế định ly thân vào dự thảo Luật nhưng chưa được 
Quốc hội chấp thuận.[47]
3.3. Mang thai hộ[48]
Luật HN-GĐ năm 2000 chưa có quy định cụ thể về mang 
thai hộ. Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12 tháng 2 năm 2003 của Chính 
phủ về sinh con theo phương pháp khoa học có quy định: nhà nước nghiêm 
cấm các hành vi mang thai hộ và sinh sản vô tính. Trẻ ra đời do thực 
hiện hỗ trợ sinh sản phải được sinh ra từ người mẹ trong cặp vợ chồng vô
 sinh hoặc người phụ nữ sống độc thân và họ là cha, mẹ đối với đứa trẻ 
sinh ra do thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (Điều 6, Điều 20). 
Việc nghiêm cấm hành vi mang thai hộ nhằm tránh những
 tiêu cực đã và đang xảy ra như: mang thai hộ nhằm mua bán trẻ sơ sinh 
bất hợp pháp, mang thai hộ nhằm lách luật để sinh con thứ ba… Song, việc
 nghiêm cấm này lại hạn chế mong muốn chính đáng của rất nhiều gia đình 
hiếm muộn, vô sinh. Ví dụ: chị gái hiếm muộn, em gái muốn mang thai hộ 
chị, được cả gia đình nhất trí, ủng hộ, nhưng pháp luật lại nghiêm cấm… 
Như vậy, việc nghiêm cấm mang thai hộ đã gián tiếp ảnh hưởng đến nguyện 
vọng chính đáng của công dân trong trường hợp mong muốn có “con nuôi” 
mang dòng máu của gia đình mình. Dưới góc độ pháp lý, thỏa thuận giữa 
người nhờ và người nhận mang thai hộ là loại thỏa thuận gì? Những thỏa 
thuận này có trái với quan niệm đạo đức truyền thống không? Biện pháp 
pháp lý ràng buộc các bên và chế tài pháp lý trong trường hợp không thực
 hiện hoặc thực hiện không đúng thỏa thuận? Hiện chưa có quy định nào 
điều chỉnh vấn đề này.
Mặt khác, cho phép “mang thai hộ” không phải là cho 
phép “đẻ thuê”. Cho phép “mang thai hộ” đối với một số đối tượng có chỉ 
định để đảm bảo quyền làm mẹ chính đáng của mọi phụ nữ. Bản chất “mang 
thai hộ” là hết sức nhân văn vì là một sự giúp đỡ của một người phụ nữ 
này đối với người phụ nữ khác để sinh ra những đứa trẻ. Việc mang thai 
hộ và sinh nở cũng là việc làm có ý nghĩa nhằm duy trì nòi giống, gắn 
kết và giữ gìn hạnh phúc mỗi gia đình, bởi vì con cái là động lực để cha
 mẹ chúng làm việc tốt hơn, sống có trách nhiệm hơn, góp phần vào sự ổn 
định, phồn vinh của xã hội.
Trong thực tiễn xã hội, mang thai hộ và nhu cầu về 
mang thai hộ là có thật. Với những người vợ vì bệnh lý mà không thể mang
 thai và sinh nở được thì mang thai hộ là một giải pháp được nhiều cặp 
vợ chồng lựa chọn giúp họ có được con. Có hai nhóm người nếu muốn có con
 chỉ còn cách duy nhất là mang thai hộ. Một là, những phụ nữ có tử cung 
không bình thường (tử cung bị dị dạng, tử cung bị bệnh lý như u xơ hay 
bệnh về nội mạc, do tai biến sản khoa trước đó phải cắt bỏ tử cung). Hai
 là, những người có tử cung bình thường nhưng sức khỏe không cho phép để
 mang thai (ở nước ta gặp nhiều nhất là người mắc bệnh tim).
Do pháp luật cấm việc mang thai hộ, để thực hiện nhu 
cầu làm cha, mẹ, nhiều người đã chấp nhận thực hiện dịch vụ mang thai hộ
 thông qua môi giới, thông qua người nhận mang thai vì mục đích thương 
mại. Mặt khác, cũng có người áp dụng biện pháp mang thai hộ vì lý do 
không chính đáng khác (ví dụ như sợ sinh con cơ thể xấu đi, sợ tốn thời 
gian…). Từ đó, có nhiều nguy cơ dẫn đến tình trạng thương mại hóa, dịch 
vụ mang thai hộ phát triển mà nhà nước không kiểm soát được.
Đây là vấn đề thực tiễn, có tính thời sự, do đó cần được nghiên cứu để luật hóa trong Luật HN-GĐ (sửa đổi).[49]
4. Nguyên nhân của bất cập, hạn chế
Những bất cập, hạn chế trong công tác triển khai thi 
hành Luật HN-GĐ và trong quy định của Luật HN-GĐ bắt nguồn từ các nguyên
 nhân cơ bản sau: 
4.1. Nguyên nhân khách quan
- Thứ nhất, Việt Nam đang hướng tới nền kinh 
tế thị trường đầy đủ, hội nhập quốc tế sâu rộng, kinh tế – xã hội có 
nhiều chuyển biến cơ bản, những thách thức mới ngày càng tác động tới 
các quan hệ hôn nhân và gia đình, cũng như trong thực hiện bảo vệ quyền 
về hôn nhân và gia đình của cá nhân. Thực tiễn đó đã làm cho nhiều quy 
định của hệ thống pháp luật nói chung, Luật HN-GĐ nói riêng không còn 
phù hợp với thực tiễn, cần có sự sửa đổi, bổ sung kịp thời;
- Thứ hai, các quan hệ trong hôn nhân và gia 
đình mang nhiều đặc thù: các mối quan hệ đều gắn với nhân thân, mang 
tính xã hội và nhân văn sâu sắc; nó vừa phản ánh quan hệ gia đình trong 
xã hội hiện đại vừa chịu ảnh ảnh hưởng lớn của phong tục tập quán, yếu 
tố bản sắc dân tộc; nó vừa là quan hệ tư nhưng cũng vừa chịu tác động 
nhiều bởi chính sách, chiến lược của Nhà nước về xây dựng và phát triển 
gia đình… Trong khi đó, nhiều quy định của Luật chưa bao quát được những
 đặc thù này dẫn tới làm phát sinh nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực 
tiễn xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật về hôn nhân và gia đình;
- Thứ ba, trong 12 năm Luật 
HNN-GĐ có hiệu lực, nhiều văn bản luật có liên quan đã được sửa đổi, bổ 
sung hoặc được ban hành mới, như: Luật Đất đai năm 2003, Luật Bảo vệ, 
chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, 
Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Bình đẳng giới năm 2006, Luật Phòng, chống
 bạo lực trong gia đình năm 2007, Luật Quốc tịch năm 2008, Luật Người 
cao tuổi năm 2006, Luật Nuôi con nuôi năm 2010… Trong bối cảnh như vậy, 
nhiều quy định của Luật HN-GĐ đã không còn bảo đảm tính hệ thống, không 
còn phù hợp hoặc chưa có sự đồng bộ, thống nhất với các văn bản luật có 
liên quan, ví dụ: quy định về tuổi kết hôn của nữ theo Luật hiện hành 
(từ 18 tuổi) không đồng bộ với quy định về năng lực chủ thể của cá nhân 
trong Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự dẫn đến mặc dù pháp luật 
trao quyền kết hôn cho họ, nhưng pháp luật lại không quy định một cơ chế
 pháp lý cho công dân quyền về tài sản, giao dịch hoặc tham gia quan hệ 
tố tụng khi chưa đủ 18 tuổi…
Trong bố cảnh, hệ thống các văn bản pháp luật về hôn 
nhân và gia đình thiếu tính ổn định, thường xuyên có nhiều thay đổi, bổ 
sung, nhưng việc phối hợp của các ngành có liên quan để ban hành văn bản
 hướng dẫn áp dụng pháp luật chưa kịp thời nên đã ảnh hưởng rất lớn tới 
chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
- Thứ tư, sự phát triển kinh tế thị 
trường, xu thế hội nhập quốc tế, sự tham gia ngày càng rộng rãi của gia 
đình và các thành viên gia đình trong giao lưu dân sự đã làm cho các 
tranh chấp về hôn nhân và gia đình ngày càng tăng về số lượng và phức 
tạp về tính chất tranh chấp. Trong khi đó, hệ thống cơ quan xét xử còn 
rất nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, trang thiết bị, trụ sở làm việc và
 nguồn nhân lực. Đặc biệt là Việt Nam vẫn chưa có Tòa chuyên trách về 
hôn nhân và gia đình, việc giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia 
đình về cơ bản phải tuân theo thủ tục tố tụng dân sự. Do đó, hiệu quả 
các giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình chưa cao, chưa đáp 
ứng được yêu cầu của thực tiễn; 
- Thứ năm, Việt Nam đã và đang không ngừng mở 
rộng quan hệ ra thế giới và đã đạt được nhiều thành quả trong hội nhập 
quốc tế. Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức quốc tế và là thành 
viên nhiều điều ước quốc tế liên quan đến hôn nhân và gia đình (Công ước
 CEDAW, Công ước về quyền trẻ em…), đồng thời đã ký kết nhiều hiệp định 
tương trợ tư pháp với các nước trên thế giới, với những cam kết “phù hợp
 hóa” luật pháp quốc gia với các hiệp định và quy định của các tổ chức 
này trong lĩnh vực dân sự nói chung, hôn nhân và gia đình nói riêng. Hội
 nhập quốc tế về lĩnh vực hôn nhân và gia đình cũng đang ngày càng mở 
rộng và phát triển với những tác động tích cực, bên cạnh đó cũng làm 
phát sinh rất nhiều hệ lụy về mặt xã hội và quản lý nhà nước, cần được 
giải quyết về mặt chính sách và pháp luật .
4.2. Nguyên nhân chủ quan
- Thứ nhất, công tác quản lý nhà nước về gia 
đình còn nhiều biến động (trước tháng 8/2007, công tác này được giao cho
 Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em thực hiện và hiện nay, nhiệm vụ này 
được Chính phủ giao cho Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), ngoài ra nội 
dung về công tác gia đình thuộc thẩm quyền của nhiều Bộ, ngành khác 
nhau. Do đó, việc triển khai công tác gia đình và triển khai thi hành 
Luật HN-GĐ còn chưa thực sự bài bản, hệ thống. Số lượng và năng lực cán 
bộ, công chức làm công tác chuyên trách về lĩnh vực hôn nhân và gia đình
 còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu. Việc nhận thức và áp dụng pháp 
luật HN-GĐ và các văn bản pháp luật khác có liên quan trong quá trình 
giải quyết các quan hệ hôn nhân và gia đình chưa thống nhất, có nhiều 
cách tiếp cận khác nhau;
- Thứ hai, công tác tuyên truyền, phổ biến, 
giáo dục pháp luật về HN-GĐ đã được thực hiện ở nhiều Bộ, ngành, địa 
phương và tổ chức có liên quan, nhưng nhìn chung công tác này ở các cấp 
chính quyền chưa sâu rộng, không thường xuyên, chưa kịp thời, hiệu quả 
còn thấp nên nhận thức về pháp luật HN-GĐ trong nhân dân còn chưa cao;
- Thứ ba, trong công tác giải quyết các vụ 
việc hôn nhân và gia đình, đội ngũ cán bộ, công chức của Tòa án nhân dân
 các cấp nhìn chung chưa đủ về số lượng, một bộ phần còn bất cập về 
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực công tác. Trong khi đó công 
tác đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ mặc dù đã được 
quan tâm nhưng vẫn chưa theo kịp yêu cầu của tình hình mới nên thẩm phán
 còn gặp nhiều khó khăn trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia 
đình, dẫn tới chất lượng giải quyết nhiều vụ việc về hôn nhân và gia 
đình còn chưa cao;
- Thứ tư, việc phát huy vai trò của các cơ 
quan, tổ chức có thẩm quyền trong phối hợp giải quyết các vụ việc về hôn
 nhân và gia đình hoặc trong công nhận, thực hiện và bảo vệ quyền về hôn
 nhân và gia đình của người dân còn nhiều bất cập. Các cơ quan, tổ chức 
có quyền về yêu cầu giải quyền các vụ việc về hôn nhân và gia đình ít 
thực hiện được vai trò của mình do thẩm quyền đã thay đổi hoặc không 
phát huy hết năng lực của cơ quan, tổ chức. Một số cơ quan, chính quyền 
địa phương chưa phối hợp chặt chẽ, chưa quan tâm đúng mức đến công tác 
của Tòa án, đặc biệt là việc cung cấp tài liệu, chứng cứ, công chứng, 
giám định, thẩm định, đo đạc đất đai của các cơ quan, tổ chức có liên 
quan không chính xác đã ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của công tác 
giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ NHỮNG MẶT ĐƯỢC, CHƯA ĐƯỢC CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000
1. Những mặt được:
Luật HN-GĐ năm 2000 có tác động tích cực đến việc đề 
cao vai trò của gia đình trong đời sống xã hội, giữ gìn và phát huy 
truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Trên cơ 
sở các quy định cụ thể về chế độ hôn nhân và gia đình; trách nhiệm của 
công dân, nhà nước và xã hội trong xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và 
gia đình; kết hôn; quan hệ giữa vợ và chồng; ly hôn; xác định cha, mẹ, 
con; quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con, giữa các thành viên trong gia
 đình; cấp dưỡng; giám hộ, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước 
ngoài… Luật đã góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân 
và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các 
thành viên trong gia đình, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành 
viên trong gia đình, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp 
của gia đình Việt Nam nhằm xây dựng gia đình, no ấm, bình đẳng, tiến bộ,
 hạnh phúc.
Trên cơ sở vai trò của gia đình đối với xã hội được 
phát huy, Luật HN-GĐ đã có những đóng góp tích cực trong việc phát triển
 nguồn nhân lực; trong ổn định, và phát triển kinh tế – xã hội của từng 
địa phương nói riêng và đất nước nói chung; trong tiến trình Việt Nam 
hội nhập với đời sống quốc tế.
2. Những mặt chưa được:
Bên cạnh những mặt đã đạt được, Luật HN-GĐ cũng đã tồn tại nhiều mặt chưa đạt được, trong đó: 
- Thứ nhất, một số quy định của Luật còn chưa 
tạo ra cơ chế pháp lý hiệu quả trong điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và 
gia đình vốn có nhiều đặc thù thù so với các quan hệ dân sự khác: các 
quan hệ đều gắn với nhân thân, mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc; nó 
vừa phản ánh quan hệ gia đình trong xã hội hiện đại vừa chịu ảnh hưởng 
lớn của phong tục, tập quán và văn hóa; nó vừa là quan hệ tư nhưng cũng 
vừa chịu tác động nhiều bởi chính sách, chiến lược của Nhà nước về xây 
dựng và phát triển gia đình… Ví dụ: luật chưa quy định cụ thể khi nào 
một tập quán về hôn nhân và gia đình được áp dụng;
- Thứ hai, một số quy định của Luật chưa thực 
sự phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của các quan hệ dân sự – quan hệ 
tư. Do đó, trong một số quan hệ, các thành viên trong hôn nhân và gia 
đình chưa được quyền lựa chọn phương án ứng xử tốt nhất cho gia đình và 
bản thân. Ví dụ: Luật còn thiếu quy định cho phép xác lập chế độ tài sản
 của vợ chồng theo thỏa thuận – Chế độ tài sản ước định. Luật HN-GĐ hiện
 hành chỉ quy định về chế độ tài sản pháp định. Quy định này chưa đảm 
bảo thực hiện quyền tự thỏa thuận, tự định đoạt của người có tài sản 
được quy định trong pháp luật dân sự; tạo ra sự cứng nhắc, không phù hợp
 với hoàn cảnh của từng cặp vợ chồng, từng gia đình “mỗi cây mỗi hoa, 
mỗi nhà mỗi cảnh” trong thực hiện các quyền tài sản; sự minh bạch trong 
giao dịch; quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba, cũng như trong 
bảo đảm căn cứ pháp lý để giải quyết tranh chấp về hôn nhân và gia đình;
- Thứ ba, một số quy định của Luật có tính khả
 thi thấp làm cho việc công nhận, thực hiện các quyền về hôn nhân và gia
 đình còn gặp nhiều khó khăn. Ví dụ: Luật HN-GĐ quy định tài sản thuộc 
sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở 
hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên cả hai vợ chồng.
 Quy định này còn chưa phù hợp với thực tiễn đăng ký tài sản ở Việt Nam 
và Nhà nước cũng không có văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành quy định 
này. Do đó, thực tiễn thi hành mới chỉ áp dụng ở một mức độ đối với tài 
sản là quyền sử dụng đất, nhà ở, còn những tài sản khác (phương tiện 
giao thông, chứng khoán…) về cơ bản không thực hiện được việc ghi tên cả
 hai vợ chồng trên giấy chứng nhận quyền sở hữu…;
- Thứ tư, một số quan hệ về hôn nhân và gia 
đình phát sinh trong thực tiễn chưa được Luật quy định hoặc Luật quy 
định không cụ thể, như: quan hệ nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không
 có đăng ký kết hôn; ly thân; mang thai hộ…;
- Thứ năm, một số quy định của Luật còn chưa 
đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn giao lưu dân sự, hội nhập quốc tế của
 Việt Nam, như: quy định về tài sản của vợ chồng tham gia đầu tư, sản 
xuất, kinh doanh; quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài…
[1] Tính đến ngày 13/4/2013 Bộ Tư pháp tiếp tục nhận 
được Báo cáo tổng kết của tỉnh Đắk Lắk và Quảng Ngãi; Dự thảo báo cáo 
tổng kết của tỉnh Vĩnh Long; 
[2] Các tỉnh, thành phố chưa có Báo cáo Tổng kết thi hành Luật HN-GĐ: Hà Giang, Nghệ An, Ninh Thuận, Sơn La, Thái Nguyên;
[3] Tính đến ngày 13/4/2013 Bộ Tư pháp đã nhận được 
Dự thảo Báo cáo tổng kết thi hành Luật HN-GĐ của Bộ Tài Nguyên và Môi 
trường, Trung ương Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
[4] Những ý kiến cụ thể của các Bộ, ngành, địa phương
 chưa được đưa vào trong Báo cáo này sẽ được Bộ Tư pháp, Ban soạn thảo, 
Tổ biên tập nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung Luật và trong xây dựng Dự 
thảo luật.
[5] Xem thêm các văn bản quy phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình tại Phụ lục số 01
[6] Trích dẫn từ Báo
 cáo tổng kết thực tiễn thi hành Luật hôn nhân và gia đình 2000 của Bộ 
Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Báo cáo không cập nhật kết quả tham gia 
công tác quản lý nhà nước về gia đình của Trung ương Hội liên hiệp Phụ 
nữ Việt Nam do chưa nhận được Báo cáo Tổng kết của Tổ chức này.
[7] Dự thảo này chưa cập nhật 
các hoạt động tổ chức thi hành của Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt 
Nam (vì chưa có Báo cáo tổng kết thi hành của tổ chức)
[8] Theo số liệu cung cấp của Vụ hành chính tư pháp, 
Bộ Tư pháp và Báo cáo tại Hội toàn quốc công tác đăng ký, quản lý hộ 
tịch và việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về hộ tịch của Bộ 
Tư pháp.
[9] Theo số liệu thống kê của Vụ Hành chính tư pháp, 
từ năm 2000 đến năm 2011 số lượng khai sinh trên toàn quốc là 19.102.485
 trường hợp, kết hôn: 7.732.685 trường hợp, khai tử: 3.569.333 trường 
hợp; từ năm 2000 đến năm 2010 số lượng các vụ nhận cha, mẹ, con là 
130.537 trường hợp, giám hộ: 6376 trường hợp.
[10] Từ năm 2000 đến năm 2009, Bộ Tư pháp đã định kỳ 
hướng dẫn địa phương 6 tháng/1 lần danh mục sách, tài liệu pháp luật cho
 Tủ sách pháp luật xã, phường, thị trấn; biên soạn hàng trăm loại tờ 
gấp; hơn 50 đầu tài liệu tuyên truyền các loại, trong đó có 7 đầu sách 
hỏi – đáp pháp luật được dịch ra 10 tiếng dân tộc thiểu số khác nhau ; 
hơn 200 đề cương tuyên truyền các nội dung pháp luật gắn bó mật thiết 
với nông dân và đồng bào dân tộc thiểu số như: Luật Hôn nhân và gia 
đình, Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, pháp luật về phòng và chống tệ nạn 
ma túy, buôn bán phụ nữ, trẻ em… phát miễn phí cho địa phương để nhân 
bản; biên soạn 13 băng cassette, trong đó có băng được dịch ra tiếng 
H’Mông về các nội dung pháp luật thiết thực với nông dân và đồng bào dân
 tộc thiểu số để cung cấp cho các huyện, xã phát trên hệ thống loa 
truyền thanh cơ sở và 02 đĩa DVD tuyên truyền pháp luật dành cho đồng 
bào dân tộc thiểu số.
[11] Từ năm 2000 đến năm 2009, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo 
điểm, hỗ trợ kinh phí xây dựng 31 Câu lạc bộ “Nông dân với pháp luật”, 
26 Câu lạc bộ “Phụ nữ với pháp luật” tại các địa phương, 63 câu lạc bộ 
"Tuổi trẻ phòng chống tội phạm" tại 63 tỉnh, thành phố, mà phần lớn các 
Câu lạc bộ này ở nông thôn và miền núi.
[12] Số liệu được cập nhật từ Báo cáo tổng kết thực tiễn thi hành Luật hôn nhân và gia đình 2000 của Tòa án nhân dân tối cao
[13] Số liệu được cập nhật từ Báo cáo tổng kết thực 
tiễn thi hành Luật hôn nhân và gia đình 2000 của Viện Kiểm sát nhân dân 
tối cao
[14] Trước tháng 8/2007, công 
tác gia đình được Chính phủ giao Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em ở 
Trung ương và địa phương . Sau khi cơ quan này chấm dứt hoạt động, công 
tác gia đình được chuyển giao cho Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và 
nhiều nội dung có liên quan quan đến công tác gia đình được chuyển giao 
cho các Bộ, ngành khác (Bộ Y tế, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội).
[15] Tòa án nhân dân tối cao
[16] Hội liên hiệp phụ nữ ít khi thực hiện quyền khởi kiện yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, cấp dưỡng.
[17] Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La
[18] Theo Ủy ban Dân tộc: Tỉnh Quảng Ninh có đến một 
nửa số bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới có vận dụng tập quán để 
giải quyết các tranh chấp không được Tòa án, Viện Kiểm sát cấp trên chấp
 nhận.
[19] Theo báo cáo của Ủy ban Dân tộc, ở các địa 
phương Lai Châu, Cao Bằng, Sơn La, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Quảng Ninh 
hiện nay vẫn còn tồn tại một số phong tục ở những thôn bản vùng cao, 
vùng sâu, vùng xa như: hiện tượng đặt dâu trước, tục ở rể (mặc dù các 
phong tục này chỉ mang tính hình thức); tình trạng tảo hôn và hôn nhân 
cận huyết; do ảnh hưởng tâm lý trọng nam, khinh nữ nên còn sinh đẻ không
 có kế hoạch (đối xử với các thành viên trong gia đình chưa công bằng); 
việc đăng ký kết hôn không do UBND cấp xã thực hiện; cấm kết hôn giữa 
những người có họ trong phạm vi từ bốn đời trở lên; bắt buộc người phụ 
nữ góa chồng hoặc người đàn ông góa vợ, nếu kết hôn với người khác thì 
phải trả lại tiền cưới cho nhà chồng cũ hoặc nhà vợ cũ; đòi lại của cải,
 phạt vạ khi vợ, chồng ly hôn. 
[20] Về sính lễ, của hồi môn, Hội đồng Thẩm phán Tòa 
án nhân dân tối cao đã có hướng dẫn tại mục 3 Nghị quyết số 
01/1988/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 hướng dẫn áp dụng một số quy định của 
Luật HN-GĐ năm 1986. Tuy nhiên, hướng dẫn này không còn được áp dụng bởi
 Luật HN-GĐ năm 1986 đã hết hiệu lực thi hành, trong khi Luật HN-GĐ năm 
2000 không quy định. Tỉnh Quảng Ninh có đến một nửa số bản án, quyết 
định của Tòa án cấp dưới khi áp dụng tập quán giải quyết các tranh chấp 
không được Tòa án và Viện kiểm sát cấp trên chấp nhận…
[21] Nhiều Luật liên quan cũng đã thừa nhận năng lực 
chủ thể đã thành niên của cả nam, nữ đã đủ 18 tuổi. Ví dụ: Điều 12 Luật 
Nghĩa vụ quân sự quy định công dân nam giới đủ 18 tuổi được gọi nhập 
ngũ; lứa tuổi gọi nhập ngũ từ đủ 18 tuổi đến hết 27 tuổi.
[22] Lai Châu (từ năm 2009 – 2011 có 166 người), 
Thanh Hóa (năm 2010 và 2011 có 267 cặp vợ chồng), Sơn La (từ năm 2000 – 
2005 có 577 cặp vợ chồng)
[23] Tòa án nhân dân tối cao, Ủy ban Dân tộc, UBND tỉnh Ninh Bình, Lâm Đồng, Hải Dương, Hòa Bình, Đồng Tháp, thành phố Hà Nội…
[24] Từ năm 2009 – 2011, tại tỉnh Lai Châu có 39 trường hợp kết hôn là những người có quan hệ họ hàng thân thích.
[25] Ủy ban Dân tộc, UBND tỉnh Hải Dương, Lâm Đồng, Hòa Bình, Bắc Giang, Kon Tum, Hà Nam…
[26] Tòa án nhân dân tối cao, UBND tỉnh Vĩnh Phúc, Ninh Bình, Sóc Trăng, An Giang, Yên Bái…
[27] Theo kết quả nghiên cứu 
của Viện Nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường (iSEE) thì kỳ thị với 
người đồng tính còn phổ biến, đặc biệt là qua lời nói với 95% người đồng
 tính nam được hỏi đã từng nghe người khác nói người đồng tính là không 
bình thường. Bên cạnh đó, khi bị phát hiện là người đồng tính 20% mất 
bạn, 15% bị gia đình chửI mắng hoặc đánh đập; Nghiêm trọng hơn, 4,5% đã 
từng bị tấn công vì là người đồng tính, 1,5% nói bị đuổi học, 4,1% đã 
từng bị đuổi ra khỏi chỗ ở và 6,5% bị mất việc vì là người đồng tính.
[28] Bộ Y tế, UBND tỉnh Lào Cai, Gia Lai, Đồng Nai, Hải Dương, Tây Ninh, thành phố Cần Thơ…
[29] Theo số liệu thống kê của Ủy ban dân tộc: tỉnh 
Thanh Hóa năm 2004 có hơn 40.101 chung sống với nhau như vợ chồng từ 
ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 nhưng không đăng ký kết hôn (đã đăng
 ký được 33.728 trường hợp), trong đó có 1298 trường hợp không đủ điều 
kiện kết hôn; tỉnh Cao Bằng từ năm 2001 – 2012, Tòa án đã thụ lý và giải
 quyết 371 vụ không công nhận là vợ chồng; Tỉnh Lai Châu từ năm 2009 – 
2011 có 722 trường hợp.
[30] Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban Dân tộc, 
UBND tỉnh Thanh Hóa, Lâm Đồng, Vĩnh Phúc, Kon Tum, Quảng Ninh, Bắc 
Giang, thành phố Hồ Chí Minh…
[31] Theo Tòa án nhân dân tối cao: Thực tế trong công
 tác xét xử cho thấy, việc xác định lợi ích thu được phục vụ cho nhu cầu
 chung của gia đình (như tiền thu được từ chơi hụi – họ) được dùng để 
mua nhà, đất cho gia đình còn nhiều bất cập. Nguyên đơn thường không đủ 
chứng cứ để có thể chứng minh khoản tiền mà họ cho vay đã được bị đơn sử
 dụng để “đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình”. Vì 
vậy, thông thường Tòa án chỉ buộc được một bên (vợ hoặc chồng) phải trả 
nợ cho nguyên đơn. Điều này dẫn đến việc thi hành án sẽ không thể thực 
hiện được vì người vợ (hoặc chồng) không chấp nhận bán tài sản chung để 
người kia thi hành án. Trong những trường hợp này, cơ quan thi hành án 
thường phải để vợ chồng tự phân chia tài sản hoặc phải chờ bản án của 
Tòa án xét xử phân chia tài sản chung của vợ chồng để có căn cứ thi hành
 án. Nếu họ không tự phân chia hoặc không yêu cầu Tòa án phân chia thì 
việc thi hành án sẽ bị kéo dài, gây thiệt hại cho nguyên đơn.
[32] Tòa án nhân dân tối cao, UBND tỉnh Lạng Sơn, Hòa
 Bình, Tiền Giang, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Bình Thuận, Đồng Nai, Sóc Trăng,
 thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ…;
[33] UBND tỉnh Thanh Hóa, Tây Ninh, Bến Tre, Bình Thuận, thành phố Đà Nẵng, Cần Thơ… 
[34] Ví dụ: khoản 1 Điều 41 của Luật tố tụng hành 
chính quy định người tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng 
hoặc bị thay đổi trong trường hợp họ là người thân thích của các đương 
sự; khoản 2 Điều 75 BLDS quy định Tòa án chỉ định một người trong số 
những người thân thích của người vắng mặt tại nơi cư trú quản lý tài 
sản…;
[35] Trên thực tiễn xét xử, khi giải quyết ly hôn, 
Tòa án đã giao con cho vợ hoặc chồng nuôi dưỡng, chăm sóc con chung theo
 đúng quy định của pháp luật, nhưng thực tế từ lúc sinh ra cho đến khi 
bố mẹ ly hôn đứa trẻ chủ yếu sống cùng ông bà, bản thân đứa trẻ mong 
muốn được tiếp tục sống cùng ông bà. Do đó, ông bà đã có đơn đề nghị Tòa
 án giải quyết cho mình được nuôi dưỡng cháu thì Tòa án không có căn cứ 
để thụ lý giải quyết.
[36] Ví dụ: Gia đình theo chế độ phụ hệ thì khi người
 cha chết chỉ con trai mới có quyền hưởng phần di sản của người cha quá 
cố để lại mà con gái không có quyền hưởng di sản thừa kế. Tương tự như 
vậy, đối với gia đình theo chế độ mẫu hệ, chỉ con gái mới có quyền hưởng
 phần di sản của người mẹ quá cố để lại mà con trai không có quyền hưởng
 phần di sản thừa kế, vì họ quan niệm thành viên trong gia đình là những
 người phải chung sống cùng một gia đình, khi không còn chung sống với 
gia đình (đi lấy chồng hoặc ở rể) thì không có quyền và nghĩa vụ đối với
 gia đình nữa.
[37] Ủy ban Dân tộc, UBND tỉnh Đồng Tháp, Lạng Sơn, 
Quảng Trị, Đăk Nông, An Giang, Hà Nam, Hà Tĩnh, thành phố Hồ Chí Minh, 
Hải Phòng…
[38] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Viện kiểm sát 
nhân dân tối cao, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, UBND tỉnh Thanh 
Hóa, Hà Tĩnh, Bến Tre, An Giang, Cà Mau…
[39] UBND tỉnh Ninh Bình, Đồng Tháp, Bến Tre, Kon Tum, Hà Tĩnh, An Giang, Đăk Nông, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội…
[40] Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Lao động, Thương 
binh và Xã hội, UBND tình Hà Tĩnh, Bình Thuận, Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh
 Phúc, Cà Mau, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội…
[41] Căn cứ ly hôn theo quy định tại Điều 89 Luật 
HN-GĐ: Một bên bị Tòa án tuyên bố mất tích hoặc quan hệ vợ chồng ở tình 
trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn 
nhân không đạt được.
[42] Hiện nay ngành Tòa án nhân dân nhận được rất 
nhiều đơn yêu cầu ly hôn của một bên đề nghị ly hôn với người đang bị 
truy nã do vi phạm pháp luật, nhưng Luật HNGĐ không có quy định cho ly 
hôn trong trường hợp này nên Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện hoặc đình
 chỉ giải quyết vụ án. Điều đó đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp 
pháp của người đề nghị giải quyết cho ly hôn (Tòa án nhân dân tối cao).
[43] Công tác quản lý nhà nước đối với quan hệ hôn 
nhân có yếu tố nước ngoài đã từng bước được nâng cao hiệu lực, hiệu quả;
 công tác giáo dục, tuyên truyền, phối hợp giữa các cơ quan, giữa trung 
ương và địa phương được triển khai thường xuyên, đồng bộ hơn; việc đăng 
ký kết hôn, công nhận việc kết hôn, giải quyết những vấn đề liên quan 
đến quốc tịch của cô dâu Việt Nam, bảo vệ và hỗ trợ cô dâu Việt Nam ở 
nước ngoài về cơ bản đã đi vào nền nếp, bảo đảm nguyên tắc hôn nhân tự 
nguyện, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam 
trong quan hệ hôn nhân và gia đình với người nước ngoài (Thông báo số 
133/TB-VPCP ngày 6 tháng 6 năm 2011 của Văn phòng Chính phủ về ý kiến 
của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân tại Hội nghị toàn quốc về quan hệ 
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài).
[44] Ở một số địa phương, nhiều
 trường hợp kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với nam giới người nước ngoài, 
phổ biến là với nam giới Hàn Quốc, Đài Loan, còn mang nặng mục đích kinh
 tế, hoặc mang tính trào lưu, còn nhiều trường hợp thông qua môi giới 
bất hợp pháp. Tại các tỉnh biên giới, nhiều trường hợp kết hôn giữa phụ 
nữ Việt Nam và nam giới nước ngoài thường trú ở khu vực biên giới không 
đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của hai nước; một số trường 
hợp phụ nữ Việt Nam chung sống như vợ chồng với chuyên gia, công nhân 
nước ngoài mà không đăng ký kết hôn tại một số địa phương có dự án đầu 
tư của nước ngoài; tại một số tỉnh phía Nam, đã xuất hiện một số nam 
giới gốc Phi không có giấy tờ, lý lịch rõ ràng, kết hôn hoặc chung sống 
như vợ chồng với phụ nữ Việt Nam. Hoạt động kinh doanh môi giới kết hôn 
bất hợp pháp của một số tổ chức, cá nhân vẫn tiếp tục diễn ra dưới nhiều
 hình thức không lành mạnh, trái thuần phong mỹ tục của dân tộc, xúc 
phạm danh dự, nhân phẩm của phụ nữ Việt Nam, gây phản cảm, bức xúc trong
 dư luận. Nhiều trường hợp phụ nữ Việt Nam kết hôn với nam giới người 
nước ngoài vì mục đích kinh tế, mang tính trào lưu hoặc thông qua môi 
giới trái phép nên gia đình không hạnh phúc phải tìm cách quay trở lại 
Việt Nam, phải mang hoặc gửi con về cho gia đình ở Việt Nam nuôi, làm 
tăng nguy cơ mất cân bằng giới tính (thừa nam, thiếu nữ) ở Việt Nam 
(Thông báo số 133/TB-VPCP ngày 6 tháng 6 năm 2011 của Văn phòng Chính 
phủ về ý kiến của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân tại Hội nghị toàn quốc
 về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài). 
[45] Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Văn hóa, Thể 
thao và Du lịch, UBND tỉnh Trà Vinh, Bến Tre, Lạng Sơn, An Giang, Bà Rịa
 – Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng…
[46] UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, Hà Tĩnh, Bình Thuẫn, 
Bà Rịa – Vũng Tàu, Lạng Sơn, Quảng Ninh, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, 
Hải Phòng…
[47] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, UBND tỉnh Hòa 
Bình, Lào Cai, Bắc Giang, Hà Nam, Quảng Ninh, Phú Thọ, Bà Rịa – Vũng 
Tàu, Bình Phước…
[48] Mang thai hộ được hiểu là dùng biện pháp kỹ 
thuật lấy trứng của người phụ nữ và tinh trùng của người đàn ông để thụ 
tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của một phụ nữ khác để nhờ
 người này mang thai hộ.
[49] Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Y tế, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, UBND tỉnh Quảng Ninh, Quảng Trị, Lào Cai, Yên Bái, Hà Nam, thành phố Hà Nội, Đà Nẵng…



7:30 PM
Hoàng Phong Nhã 
 Posted in:  
0 comments:
Post a Comment