TÀI LIỆU (DỰ THẢO) CHÍNH THỨC TẠI HỘI NGHỊ TOÀN QUỐC TỔNG KẾT THI HÀNH LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000 – 16/4/2013
BỘ TƯ PHÁP
I. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG LUẬT
1. Mục tiêu
Xây dựng Luật hôn nhân và gia đình (Luật HN-GĐ) nhằm
đáp ứng được các yêu cầu khách quan của thực tiễn hôn nhân và gia đình
Việt Nam; công nhận, thực hiện và bảo vệ tốt hơn các quyền nhân thân và
tài sản của cá nhân về hôn nhân và gia đình; nâng cao trách nhiệm của cá
nhân đối với gia đình; vai trò của gia đình đối với xã hội; vai trò của
nhà nước và xã hội đối với gia đình.
2. Các quan điểm xây dựng Luật
- Thứ nhất, thể chế hóa yêu cầu của Nghị quyết
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam về
“xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành
mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống
và hình thành nhân cách”; cụ thể hoá Hiến pháp, Chiến lược của Chính phủ
về xây dựng và phát triển Gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn
2030;
- Thứ hai, tôn trọng và bảo đảm thực hiện
quyền con người trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình; bình đẳng giới; bảo
vệ bà mẹ, trẻ em và những người yếu thế khác; quyền, lợi ích của cá
nhân về hôn nhân và gia đình; lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích của
người khác;
- Thứ ba, kế thừa và phát triển các quy định
của pháp luật về hôn nhân và gia đình Việt Nam; các giá trị văn hóa, đạo
đức truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, đồng thời tiếp thu có
chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về hôn nhân và gia đình. Trên cơ sở đó, đảm
bảo cho pháp luật về hôn nhân và gia đình Việt Nam vừa thể hiện được
các giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam vừa phù hợp với các quy
định pháp luật và các giá trị chung về HN-GĐ ở các nước trên thế giới,
góp phần thúc đẩy hội nhập quốc tế của Việt Nam;
- Thứ tư, đảm bảo tính đồng bộ, khả thi của Luật HN-GĐ.
II. PHẠM VI SỬA ĐỔI VÀ MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG LỚN TRONG XÂY DỰNG LUẬT
1. Phạm vi sửa đổi Luật HN-GĐ năm 2000
Căn cứ vào thực trạng quy định của Luật HN-GĐ năm
2000 và các đề xuất, kiến nghị của các Bộ, ngành và địa phương, được thể
hiện trong các Báo cáo tổng kết về thi hành Luật HN-GĐ năm 2000, Ban
soạn thảo cho rằng việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật HN-GĐ sẽ
không đáp ứng được các yêu cầu khách quan về xây dựng và hoàn thiện chế
độ hôn nhân và gia đình Việt Nam trong giai đoạn phát triển kinh tế – xã
hội hiện nay và các giai đoạn phát triển tiếp theo. Do đó, Ban soạn
thảo đề xuất phạm vi sửa đổi, bổ sung Luật HN-GĐ lần này phải là cơ bản
và toàn diện. Trên cơ sở quan điểm này, đề nghị đổi tên Luật sửa đổi một
số điều của Luật HN-GĐ thành Luật HN-GĐ (sửa đổi).
2. Một số định hướng lớn trong xây dựng Luật
Căn cứ vào thực tiễn thi hành Luật HN-GĐ năm 2000; ý kiến đề xuất sửa đổi, bổ sung của các Bộ, ngành, địa phương và tổ chức có liên quan; ý kiến của các thành viên Ban soạn thảo, Tổ biên tập dự án Luật; kết quả của các tọa đàm, hội thảo khoa học, Bộ Tư pháp đưa ra một số định hướng lớn trong sửa đổi, bổ sung Luật HN-GĐ năm 2000 như sau:
2.1. Định hướng sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật HN-GĐ hiện hành
2.1.1. Về áp dụng tập quán trong hôn nhân và gia đình
a. Ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương và tổ chức liên quan
Đa số các các Bộ, ngành, địa phương và tổ chức liên quan đề nghị cần quy định cụ thể về việc áp dụng tập quán trong Luật HN-GĐ[1],
theo hướng chỉ áp dụng tập quán có nội dung không trái với các nguyên
tắc cơ bản của Luật HN-GĐ; tập quán đã thông dụng, được đông đảo mọi
người sinh sống trên cùng địa bàn, cùng dân tộc, cùng tôn giáo thừa
nhận. Tập quán được áp dụng chỉ có hiệu lực áp dụng trên địa bàn, trong
cộng đồng dân tộc, tôn giáo có tập quán đó.
Tuy nhiên, về phạm vi áp dụng tập quán cũng có hai
nhóm ý kiến khác nhau: (1) nên quy định theo hướng mở, tức là nếu tập
quán và pháp luật cùng quy định về một quan hệ hôn nhân và gia đình mà
tập quán đó thực sự tốt đẹp, bảo đảm tốt hơn quyền, lợi ích của người
dân thì việc áp dụng tập quán cần được thừa nhận;[2] (2) Tập quán chỉ nên áp dụng khi pháp luật không quy định.
Về thẩm quyền hướng dẫn áp dụng tập quán, có 3 nhóm ý
kiến: (1) Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền phối hợp với Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng tập quán về hôn nhân
và gia đình;[3] (2) nên quy định để Ủy ban Thường vụ Quốc hội hướng dẫn áp dụng tập quán;[4]
(3) để có sự thống nhất từ Trung ương đến địa phương về mặt thể chế
pháp luật và sát đúng với tình hình thực tế tại từng vùng miền khác nhau
trong cả nước, ngoài việc quy định “thẩm quyền xác định tập quán áp
dụng là Tòa án nhân dân tối cao, phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng tập quán về hôn nhân và gia đình”
nên bổ sung thêm Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. [5]
Bên cạnh ý kiến thừa nhận về việc áp dụng tập quán,
cũng có ý kiến cho rằng, việc áp dụng tập quán làm giảm tính nghiêm minh
của pháp luật. Việt Nam có tới 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc lại có
tập quán riêng của mình, vì vậy, việc áp dụng tập quán có thể phá vỡ
tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, vi phạm nguyên tắc pháp chế xã
hội chủ nghĩa.
b. Định hướng sửa đổi
Ban soạn thảo tán thành quan điểm thứ nhất, theo đó,
Nhà nước không chỉ thể hiện quan điểm tôn trọng và bảo đảm áp dụng các
tập quán trong quan hệ hôn nhân và gia đình mà còn phải quy định nguyên
tắc áp dụng tập quán và đề xuất nội dung phương án này như sau:
Phương án 1:
1. Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì tập quán về hôn nhân và gia đình được áp dụng.
2. Trong trường hợp pháp luật có quy định, nhưng các
bên tự nguyện thực hiện quyền, nghĩa vụ về hôn nhân và gia đình theo tập
quán, thì việc áp dụng tập quán đó được công nhận.
3. Việc áp dụng tập quán quy định ở khoản 1 và 2 của Điều này chỉ được công nhận khi đảm bảo các điều kiện sau:
a) Tập quán được áp dụng là tập quán không vi phạm các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình;
b) Tập quán được áp dụng là tập quán thông dụng, được
đông đảo người dân sinh sống trên cùng địa bàn, cùng dân tộc, cùng tôn
giáo thừa nhận và chỉ có hiệu lực áp dụng trên địa bàn, trong nội bộ
cộng đồng có tập quán đó.
4. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương ra Nghị quyết công nhận các tập quán về hôn nhân và gia đình có
thể được áp dụng tại địa phương.
Tòa án nhân dân tối cao phối hợp với Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng tập quán về hôn nhân và
gia đình.
Phương án 2: Không quy định cho phép áp dụng tập quán với những lý do như vừa nêu trên.
2.1.2. Về chung sống như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn
a. Ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương và tổ chức liên quan
Có nhiều ý kiến khác nhau của các Bộ, ngành, địa
phương, tổ chức có liên quan về việc quy định nam, nữ chung sống như vợ
chồng mà không có đăng ký kết hôn trong Luật HN-GĐ, trong đó có hai nhóm
ý kiến cơ bản:
(1) Cần giữ như quy định hiện hành về việc không thừa
nhận hôn nhân của nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không có đăng ký
kết hôn. Tuy nhiên pháp luật cần quy định cụ thể về đường lối giải quyết
đối với tình trạng nhân thân, con, tài sản, giao dịch giữa các bên
chung sống như vợ chồng và giữa họ với người thứ ba theo nguyên tắc:
tuyên bố không thừa nhận hôn nhân của đương sự; quyền và nghĩa vụ đối
với con giải quyết như ly hôn; tài sản và giao dịch giải quyết theo thỏa
thuận, nếu không có thỏa thuận thì áp dụng theo quy định về sở hữu
chung theo phần trong Bộ luật dân sự.[6]
(2) Trong một số trường hợp cần cân nhắc thừa
nhận hôn nhân của nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không có đăng ký
kết hôn. Trước khi Luật HN-GĐ có hiệu lực, hai người đã chung sống như
vợ chồng, có con chung, không vi phạm các điều cấm của pháp luật thì dù
không có đăng ký kết hôn nhưng cuộc hôn nhân đó cũng được luật pháp công
nhận là hôn nhân thực tế. Từ sự công nhận này, người phụ nữ và trẻ em
(thường là những người người yếu thế trong gia đình) có sự bảo hộ của
pháp luật khi người chồng, người cha có những nghĩa vụ theo luật định
đối với người vợ và những đứa trẻ sinh ra trong hôn nhân thực tế.
Việc Luật HN-GĐ hiện hành không tiếp tục thừa nhận
quan hệ chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn đã dẫn đến rất
nhiều hệ quả tiêu cực cho gia đình và cho xã hội. Nhiều trường hợp người
phụ nữ và trẻ em bị phụ bạc, ngược đãi và bỏ rơi một cách vô trách
nhiệm sau thời gian tự nguyện sống thử, sống chung. Từ đó, không bảo đảm
thực chất trong thực thi quyền của phụ nữ và trẻ em, cũng như sự ổn
định của các quan hệ gia đình và xã hội. Vì vậy, trong Luật nên quy định
một số trường hợp chung sống như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn
được công nhận và việc giải quyết các quyền về nhân thân, tài sản, quyền
giữa cha mẹ và con giữa các bên có chung sống như vợ chồng.[7]
Ví dụ: thừa nhận nam, nữ sống chung như vợ chồng không đăng ký kết hôn
có quan hệ hôn nhân nếu việc chung sống được gia đình, cộng đồng dân cư
nơi cư trú thừa nhận và đáp ứng được các điều kiện pháp lý để công nhận
hoặc đã có một thời gian chung sống nhất định. Việc thừa nhận hôn nhân
do Tòa án nhân dân quyết định.
b. Định hướng sửa đổi
Phương án 1:
Không thừa nhận hôn nhân giữa những người có quan hệ
chung sống như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn. Đồng thời, quy định
cụ thể về quyền, nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ chung sống (áp
dụng chung cho cả quan hệ chung sống giữa những người khác giới và giữa
những người cùng giới tính) như sau:
- Quyền và nghĩa vụ đối với con chung được áp dụng theo quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con được quy định trong Luật HN-GĐ;
- Quyền và nghĩa vụ về tài sản: cho phép các bên lập
thỏa thuận về quan hệ tài sản. Để bảo đảm tính công khai, minh bạch
trong giao dịch, thỏa thuận đó phải tuân thủ hình thức theo luật định.
Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận vô hiệu (vi
phạm điều kiện có hiệu lực của giao dịch hoặc việc chung sống vi phạm
các điều kiện về nội dung trong kết hôn, như tuổi kết hôn, có quan hệ họ
hàng…) thì quyền và nghĩa vụ về tài sản giữa các bên được xác định theo
các quy định về sở hữu trong Bộ luật dân sự.
Phương án 2:
Thừa nhận hôn nhân của nam, nữ chung sống như vợ
chồng mà không có đăng ký kết hôn nhưng được gia đình, cộng đồng công
nhận vì đây là một thực tế, mặt khác, việc thừa nhận hôn nhân này bảo
đảm tốt hơn quyền, lợi ích chính đáng của phụ nữ và trẻ em.
2.1.3. Về tuổi kết hôn
a. Ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương và tổ chức liên quan
Tuổi kết hôn là vấn đề được nhiều Bộ, ngành, địa
phương, tổ chức quan tâm. Đa số ý kiến yêu cầu cần quy định tuổi kết hôn
bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong quy định của các luật khác như Bộ
luật dân sự, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật nghĩa vụ quân sự… Tuy nhiên
quy định tuổi kết hôn ở độ tuổi nào còn nhiều ý kiến khác nhau:
(1) Căn cứ vào quy định về người đã thành niên trong
Bộ luật dân sự, điều kiện kinh tế – xã hội, chất lượng cuộc sống, sự
phát triển về thể chất, nhận thức xã hội và sự hiểu biết về giới tính
của công dân ngày càng được nâng cao thì cần nghiên cứu sửa đổi tuổi kết
hôn theo hướng nam, nữ được kết hôn khi từ đủ 18 tuổi;[8]
(2) Để thuận lợi và thống nhất trong áp dụng pháp luật, bảo đảm tính ổn định trong quy định về tuổi kết hôn, quy định về tuổi kết hôn cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng nam là từ đủ 20 tuổi, nữ từ đủ 18 tuổi được kết hôn[9];
(3) Quy định hiện hành về tuổi kết hôn đã phù hợp với
những đặc điểm tâm, sinh lý và xã hội của người Việt, không cần sửa
đổi, bổ sung; nếu có vướng mắc trong thi hành pháp luật thì có thể ra
văn bản hướng dẫn thi hành để khắc phục[10];
(4) Tuổi kết hôn của nam cần quy định như hiện hành
(từ 20 tuổi trở lên), tuổi kết hôn của nữ trong Luật HN-GĐ cần được quy
định lại, thống nhất với Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự là “từ
đủ 18 tuổi trở lên”[11].
Đối với một số vùng, miền đồng bào dân tộc thiểu số nên quy định tuổi
kết hôn ở vùng này là “nam từ đủ 18 tuổi trở lên, nữ từ đủ 16 tuổi trở
lên” để phù hợp với phong tục tập quán. Cùng với quy định về độ tuổi
trên, cũng cần có những văn bản, chính sách quy định, tuyên truyền rộng
rãi để thanh thiếu niên nắm bắt sớm hơn kiến thức về giới tính, quyền và
nghĩa vụ trong việc kết hôn cũng như ý thức trách nhiệm cá nhân của
mình trong việc chấp hành đúng quy định của Luật HN-GĐ[12].
(5) Cần bổ sung quy định về khoảng cách tuổi giữa các
bên kết hôn. Nếu chênh lệch về tuổi quá lớn (quan hệ tuổi giữa ông và
cháu, cha và con…) sẽ không phù hợp với tâm sinh lý, duy trì nòi giống
và văn hóa của người Việt[13].
b. Định hướng sửa đổi
Phương án 1: Nam từ đủ 20 tuổi, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên được kết hôn.
Phương án này được xây dựng dựa trên những lý do sau:
- Độ tuổi kết hôn 20 đối với nam, 18 đối với nữ đã
được quy định trong các Luật HN-GĐ trước đây (Luật năm 1959, năm 1986)
cũng như trong Luật HN-GĐ hiện hành và đã được thực hiện khá ổn định;
- Phương án này sẽ khắc phục được những khó khăn,
vướng mắc hiện nay đối với nữ khi họ kết hôn chưa đủ 18 tuổi. Ví dụ,
theo Luật HN-GĐ thì nữ chưa đủ 18 tuổi vẫn được kết hôn, nhưng theo pháp
luật hiện hành, nhiều giao dịch (về bất động sản, tín dụng…) đòi hỏi
chủ thể của giao dịch phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên. Như vậy, quy
định này của Luật HN-GĐ hiện hành gây ra những khó khăn khi vợ chồng
giao kết hợp đồng với người thứ ba. Hơn nữa, về tư cách tố tụng, khoản 3
Điều 57 Bộ luật TTDS quy định một cá nhân chỉ có thể tự mình tham gia
quan hệ tố tụng khi đã đủ 18 tuổi trở lên. Theo quy định của Luật HN-GĐ,
vợ chồng có quyền tự do yêu cầu ly hôn, trong đó có cả trường hợp người
vợ chưa đủ 18 tuổi. Tuy nhiên, quyền tự do ly hôn của người vợ không
thể thực hiện nếu đến thời điểm có yêu cầu ly hôn, họ chưa đủ 18 tuổi.
Phương án 2: Nam, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên được kết hôn.
Phương án này dựa trên 2 lý do. Thứ nhất, quyền kết
hôn của cá nhân phải được thừa nhận khi họ đến tuổi thành niên (18
tuổi). Thứ hai, cần bảo đảm bình đẳng giữa nam và nữ về quyền kết hôn.
2.1.4. Về cấm kết hôn đối với người mất năng lực hành vi dân sự
a. Ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương và tổ chức liên quan
Đã có nhiều ý kiến khác nhau về đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định về cấm kết hôn và hủy kết hôn trái pháp luật, trong đó:
(1) Quy định rõ và chi tiết đối với trường hợp
có dấu hiệu bị mất năng lực hành vi dân sự, chính quyền địa phương phải
có trách nhiệm kiểm tra, xem xét trước khi cho đăng ký kết hôn. Điều 10
cần quy định rõ, chi tiết hơn, ngoài Tòa án có thẩm quyền tuyên bố một
người bị mất năng lực hành vi dân sự, cần quy định thêm một số cơ quan
khác ở địa phương biết rõ tình trạng của người đó để công nhận hoặc căn
cứ vào bệnh án, tình hình thực tế để quyết định[14].
(2) Về điều kiện tình trạng sức khỏe, nên kế thừa
Điều 10 Luật HN-GĐ năm 1959 hoặc Điều 7 Luật HN-GĐ năm 1986 về việc cấm
kết hôn với người đang mắc bệnh tâm thần không có khả năng nhận thức
hành vi của mình hoặc đang mắc bệnh hoa liễu[15].
b. Định hướng sửa đổi
Phương án 1: Người mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không có khả năng nhận thức được hành vi của mình.
Phương án 2: Người mất năng lực hành vi dân sự (như quy định của Luật hiện hành).
Trên thực tế, quy định cấm kết hôn đối với người mất
năng lực hành vi dân sự không có tính khả thi. Theo quy định của Điều 22
BLDS, một người chỉ bị coi là mất năng lực hành vi dân sự khi có quyết
định của Tòa án tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự theo yêu
cầu của những người có quyền và lợi ích liên quan. Trong khi đó, thực tế
lại cho thấy không có trường nào hợp cha, mẹ của người bị bệnh tâm thần
lại yêu cầu Tòa án tuyên bố con mình bị mất năng lực hành vi dân sự để
người con này không được kết hôn. Do đó, trường hợp một người tuy mắc
bệnh tâm thần hoặc bệnh khác khác mà không thể nhận thức, điều khiển
được hành vi, nhưng do không có quyết định của Tòa án, người này vẫn
được xác định là có năng lực hành vi dân sự và không thuộc trường hợp bị
cấm kết hôn. Đây là điều bất hợp lý vì việc kết hôn trong các trường
hợp này không đảm bảo yếu tố tự nguyện.
Ngược lại, nếu quy định cấm kết hôn đối với người mắc
bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không có khả năng nhận thức và làm chủ
hành vi sẽ dễ dàng thực hiện hơn. Cán bộ hộ tịch, chỉ cần căn cứ vào
những biểu hiện bên ngoài, nếu thấy có nghi ngờ người kết hôn là không
có khả năng nhận thức, làm chủ hành vi, sẽ yêu cầu người kết hôn phải
xuất trình giấy chứng nhận sức khỏe. Thực tế, quy định cấm kết hôn giữa
những người đang mắc bệnh tâm thần không có khả năng nhận thức đã được
duy trì trong Luật HN-GĐ năm 1986.
2.1.5. Về nghĩa vụ của các bên kết hôn phải có Giấy chứng nhận sức khỏe
a. Ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương và tổ chức liên quan
Nhiều ý kiến đề nghị giữ nguyên quy định hiện hành,
tức là không nên đòi hỏi người kết hôn phải cung cấp giấy chứng nhận sức
khỏe. Tuy nhiên, có một số Bộ, ngành, địa phương cho rằng quy định việc
kiểm tra sức khỏe và có giấy chứng nhận sức khỏe của cơ quan y tế có
thẩm quyền trước khi kết hôn là điều kiện bắt buộc khi đăng ký kết hôn[16].
b. Định hướng sửa đổi
Phương án 1: Không quy định nghĩa vụ này.
Phương án này dựa trên những cơ sở sau: Pháp luật về
hôn nhân và gia đình của chúng ta từ trước đến nay đều không đặt ra yêu
cầu người kết hôn phải xuất trình giấy chứng nhận sức khỏe. Trước đây,
Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ
tịch quy định chỉ trong trường hợp có nghi ngờ người kết hôn mắc bệnh
tâm thần không có khả năng nhận thức được hành vi của mình, đang mắc
bệnh hoa liễu thì mới yêu cầu phải có giấy khám sức khỏe của cơ quan y
tế cấp huyện. Trên thực tế, việc đòi hỏi giấy chứng nhận sức khỏe sẽ gây
phiền hà, tốn kém cho người dân khi họ đi đăng ký kết hôn, nhất là ở
những vùng sâu, vùng xa mà việc đi lại đến cơ sở y tế có thẩm quyền rất
khó khăn. Trong xu hướng cải cách thủ tục hành chính hiện nay, chúng ta
lại càng không thể đặt ra yêu cầu về giấy chứng nhận sức khỏe.
Phương án 2: Các bên nam, nữ có yêu cầu đăng ký kết hôn phải có chứng nhận về sức khỏe của cơ sở y tế có thẩm quyền.
2.1.6. Về giới tính trong kết hôn
a. Ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương và tổ chức liên quan
Việc sửa đổi, bổ sung quy định về cấm kết hôn giữa
những người cùng giới tính đã và đang là vấn đề còn có rất nhiều ý kiến
khác nhau, cụ thể:
(1) Quyền con người của LGBT nói chung, người đồng
tính nói riêng phải được nhà nước, xã hội và gia đình tôn trọng và bảo
đảm thực hiện. Do đó, cần nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối xử, kỳ
thị đối với nhóm yếu thế này. Quy định về cấm kết hôn giữa những người
cùng giới tính cần được bãi bỏ. Tuy nhiên, việc thừa nhận hôn nhân đồng
tính ở thời điểm này là chưa phù hợp do tập quán, văn hóa gia đình Việt
Nam chưa kịp thích ứng với những thay đổi này. Để giảm thiểu các tác
động tiêu cực đến người đồng tính và đến xã hội, Luật cần bổ sung quy
định để tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết hậu quả về nhân thân, tài
sản và con cái (nếu có) từ việc chung sống giữa những người này[17];
(2) Cần chấp nhận hôn nhân đồng tính vì đồng tính
luyến ái đối với những người bẩm sinh là một nhu cầu thực tế, cũng như
bảo đảm quyền con người cơ bản của họ. Việc cấm kết hôn có thể tiếp tục
dẫn tới sự kỳ thị, người đồng tính dễ tìm tới những quyết định tiêu cực
cho chính bản thân họ, gia đình và xã hội[18];
(3) Quan hệ hôn nhân giữa những người cùng
giới tính là không phù hợp với chức năng xã hội của hôn nhân, đây cũng
là một trong những vấn đề xã hội nhạy cảm, liên quan đến quan niệm
truyền thống về hôn nhân và gia đình. Do đó, cần tiếp tục duy trì quy định về cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính như quy định hiện hành[19].
(4) Cần có thời gian nghiên cứu, đánh giá toàn diện
về loại quan hệ này và cần có đánh giá về mặt tác động xã hội, sau đó
cân nhắc, xin ý kiến các cơ quan chức năng có liên quan về việc nên hay
không nên đưa vấn đề này điều chỉnh trong Luật HN-GĐ[20].
b. Định hướng sửa đổi
Phương án 1:
- Không quy định theo hướng cấm việc kết hôn giữa
những người cùng giới tính như Luật hiện hành mà quy định theo hướng
không thừa nhận hôn nhân của những người cùng giới tính;
- Không can thiệp vào việc sống chung như vợ chồng giữa những người cùng giới tính.
Quy định về quyền và nghĩa vụ giữa các bên cùng giới
tính trong quan hệ chung sống như vợ chồng theo giải pháp quy định về
việc chung sống như vợ chồng giữa những người khác giới.
Phương án này được xây dựng căn cứ vào các lý do sau:
Thứ nhất, theo quan niệm truyền thống của
người Việt Nam, quan hệ vợ chồng phải thể hiện quan hệ tình cảm giữa hai
người nam và nữ (khác giới tính) có mục đích xây dựng gia đình, sinh đẻ
và nuôi dạy con cái. Do đó, rất khó chấp nhận hôn nhân giữa hai người
cùng giới tính.
Thứ hai, truyền thống lập pháp về hôn nhân và
gia đình từ trước đến nay ở Việt Nam đều coi kết hôn là sự liên kết giữa
hai người khác giới nhằm xây dựng gia đình.
Thứ ba, vấn đề hôn nhân đồng giới là vấn đề
nhạy cảm nên phải có sự nghiên cứu đầy đủ, nghiêm túc, cân nhắc mọi khía
cạnh, hậu quả phát sinh và đặc biệt phải có lộ trình, bước đi phù hợp.
Phương án 1 này bước đầu thể hiện sự quan tâm của Nhà nước ta đối với
những quan hệ của người đồng giới. Trong bối cảnh quốc tế và trong nước
hiện nay, hướng đi phù hợp của pháp luật Việt Nam là không cấm và không
can thiệp hành chính vào quan hệ chung sống của những người cùng giới
tính, đồng thời có quy định về việc giải quyết về hậu quả pháp lý phát
sinh từ việc chung sống này.
Thứ tư, qua nghiên cứu pháp luật nước ngoài
cho thấy, tuyệt đại đa số các nước chưa thừa nhận hôn nhân của hai người
đồng giới. Hiện nay, chỉ có hơn 10 quốc gia và vùng lãnh thổ cho phép
kết hôn giữa hai người cùng giới tính; riêng ở Châu Á, chưa có nước nào
thừa nhận hôn nhân đồng giới.
Phương án 2:
Thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.
Phương án 3:
Giữ nguyên như quy định hiện hành
2.1.7. Về quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng
a. Ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương và tổ chức liên quan
Đã có nhiều ý kiến đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định về quyền, nghĩa vụ giữa vợ chồng trong Luật HN-GĐ, cụ thể :
(1) Tiếp tục kế thừa và quy định cụ thể hơn về tình
nghĩa giữa vợ và chồng: vợ chồng có trách nhiệm chung thủy, thương yêu,
quý trọng chăm sóc giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình ấm no, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững[21].
Cần quy định cụ thể trách nhiệm của vợ, chồng có hành
vi vi phạm nghĩa vụ quy định trong Luật HN-GĐ và quyền của bên bị vi
phạm. Quy định hậu quả pháp lý của hành vi không sống chung với vợ,
chồng trong một thời gian dài mà không có lý do chính đáng, theo hướng:
Trong trường hợp một bên từ chối sống chung với vợ hoặc chồng của mình
mà không có lý do chính đáng và thời gian không chung sống đã từ 2 năm
trở lên, thì việc không sống chung có thể là căn cứ để tòa giải quyết ly
hôn nếu có yêu cầu của vợ hoặc chồng của họ.[22]
Tuy nhiên, trong quy định cũng cần phải bảo đảm tính khả thi, phù hợp
với thực tiễn. Ví dụ: khi quy định về trách nhiệm của vợ, chồng, cha,
mẹ, con… trong trường hợp những người này có hành vi vi phạm nghĩa vụ
được quy định trong Luật HN-GĐ thì cần tính tới cơ chế giám sát hiệu quả
việc thực hiện trách nhiệm đó.
(2) Cần sửa đổi, bổ sung các quy định về căn cứ xác
định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng cho phù hợp với thực tiễn
và trong các quan hệ có tính đặc thù; nên công nhận cả thỏa thuận bằng
miệng, bằng văn bản mà không tuân thủ quy định về hình thức; cần quy
định quyền sở hữu trí tuệ của vợ hoặc chồng làm phát sinh về tài sản
được coi là tài sản chung của vợ chồng. Các giao dịch về chứng khoán, về
góp vốn trong doanh nghiệp… cần được quy định cụ thể trong Luật HN-GĐ[23].
(3) Cần sửa đổi nguyên tắc đồ dùng, tư trang cá nhân
thuộc khối tài sản riêng của vợ, chồng, trong đó giới hạn trị giá của
mỗi loại đồ dùng, tư trang cá nhân được xem là tài sản riêng của vợ,
chồng, vì trên thực tế có một số loại đồ dùng, tư trang cá nhân giá trị
rất lớn, chiếm tỷ trọng đáng kể trong khối tài sản chung của vợ chồng.
Nếu giá trị của mỗi loại đồ dùng, tư trang cá nhân vượt quá giá trị cho
phép thì cần áp dụng những quy định chung để xem xét đồ dùng, tư trang
cá nhân đó có nguồn gốc là tài sản chung hay tài sản riêng. Nếu đồ dùng,
tư trang cá nhân có nguồn gốc từ tài sản chung của vợ chồng, ví dụ như
được mua từ tài sản chung của vợ chồng thì thừa nhận các tài sản này là
tài sản chung của vợ chồng. Đồ dùng, tư trang cá nhân có nguồn gốc từ
tài sản riêng như mua bằng tài sản riêng, được tặng cho riêng… thì thừa
nhận đó là tài sản riêng của vợ, chồng[24].
Ngoài ra, có ý kiến cho rằng, giới hạn cho phép của
giá trị tài sản là đồ dùng, tư trang cá nhân không nên đưa ra một con số
cụ thể mà nên đưa ra tỷ lệ nhất định đối với tổng khối tài sản chung
của vợ chồng[25].
(4) Đề nghị sửa đổi quy định về trách nhiệm liên đới của vợ, chồng đối với người thứ ba theo hướng: Vợ
chồng có trách nhiệm liên đới đối với những giao dịch hợp pháp phục vụ
phát triển kinh tế gia đình. Đối với giao dịch thoả thuận miệng thì vợ
chồng có trách nhiệm liên đới khi cả hai bên cùng biết về việc xác lập
giao dịch[26].
(5) Cần có quy định cụ thể về quyền yêu cầu của người
thứ ba đối với tài sản và giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng;
quy định cụ thể các thuật ngữ “tài sản chung có giá trị lớn”, “nguồn sống duy nhất”, “ảnh hưởng nghiêm trọng”[27].
b. Định hướng sửa đổi
- Quy định trách nhiệm của vợ, chồng khi có hành vi vi phạm các quyền, nghĩa vụ về hôn nhân và gia đình;
- Sửa đổi, bổ sung quy định về đại diện giữa vợ và chồng cho phù hợp với thực tiễn, hạn chế các nguy cơ vô hiệu của giao dịch;
- Sửa đổi, bổ sung các quy định về đăng ký tài sản
thuộc sở hữu chung của vợ chồng và các quy định khác về quyền sở hữu của
vợ chồng để đảm bảo sự minh bạch, công khai đối với các giao dịch liên
quan đến tài sản trong hôn nhân góp phần bảo vệ lợi ích của gia đình,
quyền, lợi ích của người thứ ba ngay tình.
2.1.8. Về quan hệ giữa các thành viên trong gia đình
a. Ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương và tổ chức liên quan
Nhiều ý kiến đề nghị cần sửa đổi, bổ sung các quy
định về quyền, nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình để nâng cao
trách nhiệm của các thành viên trong gia đình, vai trò của gia đình đối
với xã hội và của nhà nước, xã hội đối với gia đình; kế thừa, phát huy
truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam:
(1) Về quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ
chồng, các thành viên trong gia đình: Điều 36 Luật HN-GĐ chưa quy định
về trách nhiệm của cha, mẹ không thực hiện nghĩa vụ trông nom, chăm sóc,
nuôi dưỡng con chưa thành niên, hoặc con đã thành niên nhưng bị tàn
tật, mất năng lực hành vi dân sự hoặc con cái không thực hiện nghĩa vụ
chăm sóc, phụng dưỡng bố mẹ già yếu, cô đơn. Cần có quy định cụ thể về
vấn đề này trong Luật[28].
(2) Bổ sung quyền về tài sản của cha, mẹ, con và giữa
các thành viên trong gia đình vì có nhiều trường hợp con từ 15 tuổi trở
lên có công đóng góp tiền hoặc công sức vào việc hình thành hoặc cải
tạo, bồi bổ vào khối tài sản chung của cha mẹ nhưng khi xem xét giải
quyết chia tài sản trong hôn nhân thì công sức của con lại không được
nhìn nhận. Đối với con từ đủ 18 tuổi, Luật cần ghi nhận cụ thể quyền yêu
cầu chia tài sản riêng trong khối tài sản chung của cha mẹ hoặc của gia
đình khi họ cùng lao động, sản xuất, kinh doanh hoặc có đóng góp thu
nhập vào tài sản chung của cha mẹ, của gia đình.
(3) Cần quy định rõ nguyên tắc thực hiện quyền, nghĩa
vụ của các bên chung sống như vợ chồng với con chung theo các quy định
chung về quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ và con. Ngoài ra, xác định cha, mẹ,
con trong quan hệ chung sống như vợ chồng cũng cần áp dụng tương tự như
xác định con chung của vợ chồng.
(4) Cần quy định cụ thể về khái niệm “người thân thích” và phạm vi những người được xem là người thân thích[29].
Nên nghiên cứu đến cơ chế mở khi giải quyết ly hôn về việc giao con cho
người trực tiếp nuôi dưỡng có thể không phải là cha mẹ, nếu người nuôi
dưỡng hoàn toàn có đầy đủ điều kiện chăm sóc đứa trẻ đó.
(5) Cần có quy định rõ hơn về việc xác lập, thực hiện
quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế trong
thực tế để cơ quan có thẩm quyền có căn cứ xử lý khi thừa kế phát sinh[30].
b. Định hướng sửa đổi
- Quy định về công nhận quyền, lợi ích hợp pháp của
người nuôi dưỡng là người thân thích nhưng không phải là cha mẹ của
người được nuôi dưỡng.
- Quy định bổ sung trách nhiệm cấp dưỡng của người có
quan hệ họ hàng trong phạm vi 3 đời mà không phải là vợ chồng, cha mẹ
và con, ông bà và cháu, anh, chị, em ruột của người có yêu cầu được cấp
dưỡng.
- Bổ sung quy định về trường hợp con dâu, con rể sống
cùng với bố mẹ chồng, bố mẹ vợ và đã thực hiện việc chăm sóc, phụng
dưỡng bố mẹ chồng, bố mẹ vợ như cha mẹ đẻ thì được hưởng thừa kế như con
đẻ đối với di sản của bố mẹ chồng, bố mẹ vợ.
2.1.9. Về ly hôn
a. Ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương và tổ chức liên quan
Các ý kiến sửa đổi, bổ sung Luật HN-GĐ về vấn đề ly hôn tập trung ở những nội dung chính sau:
(1) Ly hôn là quyền nhân thân của vợ, chồng, do đó cần sửa đổi thuật ngữ “xin ly hôn” ở khoản 2 Điều 85, khoản 2 Điều 89 thành “yêu cầu ly hôn”[31].
Luật cần bổ sung quy định về người có quyền yêu cầu
ly hôn trong trường hợp người thân nộp đơn cho một bên vợ, chồng người
bị mất năng lực hành vi dân sự khi có căn cứ chứng minh được người vợ
(hoặc chồng) có hành vi ngược đãi, không thương yêu chăm sóc người đó.
Đối với điều kiện hạn chế quyền yêu cầu ly hôn, cần bổ sung trường hợp
người vợ mới sinh con chưa được 12 tháng nhưng con chết thì chồng cũng
không có quyền đề nghị Tòa án cho ly hôn[32].
Luật HN-GĐ nên quy định trong trường hợp người vợ đang mang thai mà
người chồng có đủ chứng cứ để chứng minh rằng đứa trẻ đó không phải là
con mình và chứng cứ đó được Tòa án công nhận thì người chồng sẽ không
bị hạn chế quyền ly hôn nữa[33].
(2) Luật cần quy định cụ thể căn cứ ly hôn, thủ tục
giải quyết ly hôn tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án khi giải quyết các
vụ án ly hôn:
- Điều 89 cần quy định cụ thể thế nào là tình trạng
hôn nhân trầm trọng. Các trường hợp có yêu cầu ly hôn khi một bên vợ,
chồng bị truy nã, bị mất năng lực hành vi dân sự cần được quy định là
các căn cứ ly hôn[34]-[35]. Nên quy định thêm chế định về ly thân là căn cứ để chứng minh mức độ trầm trọng của hôn nhân để xem xét ly hôn[36].
- Sửa đổi về căn cứ ly hôn, việc ly hôn nên quy định
hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các bên, Tòa án chỉ là nơi công nhận ý
chí của các bên và làm công tác giải quyết các tranh chấp về tài sản và
quyết định trách nhiệm của các bên đối với con cái còn ở độ tuổi vị
thành niên…[37]
- Cần quy định việc xác định yếu tố lỗi của bên gây
ra đổ vỡ hôn nhân để làm căn cứ cho cơ quan thẩm quyền giải quyết và xác
định mức trách nhiệm, quyền về nhân thân và quyền về tài sản của vợ
chồng khi ly hôn, quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đối với con, trách nhiệm
cấp dưỡng giữa các thành viên gia đình khi cha mẹ hoặc vợ chồng ly hôn.[38]
Bổ sung thêm nội dung: Khi ly hôn, nếu nguyên nhân ly hôn là do hành vi
bạo lực gia đình của người chồng (hoặc vợ), do một bên ngoại tình thì
cho phép Tòa án xem đó là một trong những tiêu chí làm căn cứ khấu trừ
một phần tài sản riêng của người có lỗi cho người không có lỗi, sau khi
đã phân chia khối tài sản chung của vợ, chồng. Phần tài sản bị khấu trừ
sẽ được bồi hoàn cho người vợ hoặc chồng hoặc con là nạn nhân của hành
vi bạo lực gia đình này[39].
(3) Việc quy định cho Tòa án thụ lý và ra quyết định
hoặc bản án không công nhận quan hệ vợ chồng đối với trường hợp nam nữ
không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng tại Điều 87 là
không cần thiết, vì trường hợp này đã mặc nhiên bị pháp luật không thừa
nhận[40].
(4) “Nguyên tắc con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi”
cần được thay bằng một quy định hoặc một cụm từ pháp lý khác phù hợp
hơn, vì thực tế có những vụ việc vợ bỏ đi, con dưới ba tuổi do cha chăm
sóc. Khi phát sinh tranh chấp hai bên không tự thỏa thuận được giao con
cho bên nào trong khi Tòa án lại căn cứ vào khoản 2 Điều 92 để giao con
cho người mẹ nuôi dưỡng[41].
Luật cần quy định rõ những trường hợp nào sẽ bị Toà
án hạn chế quyền thăm nom con. Việc cấp dưỡng cho con cần được quy định
là nghĩa vụ bắt buộc và thể hiện trách nhiệm của cha mẹ đối với con[42].
Bổ sung quy định về việc được xác định lại quốc tịch
Việt Nam cho con khi các cặp vợ chồng ly hôn mà một bên là người Việt
Nam, một bên là người nước ngoài mà trước đó đã xác định quốc tịch nước
ngoài khi đăng ký khai sinh cho con[43].
Pháp luật nên quy định luật sư hoặc trợ giúp viên
pháp lý đại diện cho con chưa thành niên (đối với người con từ đủ 9 tuổi
trở lên khi được hỏi ý nguyện ở với cha hay mẹ) trong vụ án ly hôn.
Đồng thời, cần quy định cho phép tòa án hạn chế quyền thăm nom con của
người cha hoặc mẹ sau khi ly hôn, nếu người này từng có hành vi bạo lực
gia đình[44].
(5) Cần bổ sung những quy định về chia tài sản khi ly
hôn đối với tài khoản chứng khoán, tài khoản trong doanh nghiệp hay tài
sản là những quyền thuê đối với tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Đề nghị
cần quy định cụ thể về vấn đề hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản
riêng của vợ, chồng[45].
Bổ sung quy định về chia quyền sử dụng đất của vợ
chồng khi ly hôn tại Điều 97 đối với trường hợp nếu chia quyền sử dụng
đất thì sẽ không bảo đảm diện tích tối thiểu để được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai năm 2003. Khi đó Tòa
án sẽ quyết định trên cơ sở nhu cầu, điều kiện của các bên nhận quyền sử
dụng. Bên được giao đất sử dụng phải thanh toán cho bên kia phần chênh
lệch theo giá thị trường tại thời điểm xét xử[46].
(6) Thủ tục hòa giải ở cơ sở quy định tại Điều 86 nên quy định là thủ tục bắt buộc khi ly hôn[47].
b. Định hướng sửa đổi
- Về căn cứ ly hôn: Quy định căn cứ ly hôn một cách
cụ thể và phù hợp với thực tiễn hơn, đảm bảo tôn trọng quyền tự do ly
hôn của vợ chồng. Chẳng hạn, cần quy định việc một bên vợ, chồng phạm
lỗi nghiêm trọng và tái diễn (ngoại tình, bỏ nhà đi lâu ngày không có lý
do chính đáng…) là căn cứ để Tòa án giải quyết ly hôn.
- Về thuận tình ly hôn:
Phương án 1:
Trong trường hợp vợ chồng thuận tình trong ly hôn và
không có tranh chấp về tài sản và về con thì việc ly hôn được công nhận
tại UBND. Nếu thuận tình ly hôn nhưng không thỏa thuận được về tài sản
và các vấn đề liên quan đến con hoặc tuy có thỏa thuận nhưng không bảo
đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án quyết định.
- Bổ sung quy định về quyền đại diện của cha, mẹ cho
con chưa thành niên trong trường hợp cha mẹ ly hôn và một bên cha, mẹ
trực tiếp trông nom, chăm sóc và nuôi dưỡng con;
- Quy định nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng trong
đầu tư, sản xuất, kinh doanh, tài sản chưa được cơ quan có thẩm quyền
cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc tài sản mà giấy tờ
chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng chỉ ghi tên một bên vợ, chồng;
- Nghiên cứu quy định cụ thể các hậu quả pháp lý khác của ly hôn.
Phương án 2:
Trong trường hợp vợ chồng thuận tình ly hôn, nếu xét
thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài
sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Tòa án công
nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận về tài sản và con trên cơ sở bảo
đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con;
Nếu không thỏa thuận được về tài sản và các vấn đề
khác hoặc tuy có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của
vợ và con thì Tòa án quyết định.
2.1.10. Về quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài
a. Ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương và tổ chức liên quan
Có nhiều ý kiến về việc sửa đổi, bổ sung các quy định về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài:
(1) Cần quy định chi tiết hơn về mục đích kết hôn,
tuổi kết hôn (ví dụ: khoảng cách tuổi tối đa giữa các bên kết hôn), thủ
tục kết hôn, hợp thức hóa lãnh sự, về ly hôn có yếu tố nước ngoài trong
Luật HN-GĐ. Đối với trường hợp công dân Việt Nam đang định cư tại nước
ngoài trước khi xuất cảnh đã đủ tuổi kết hôn thì phải có xác nhận tình
trạng hôn nhân tại UBND xã nơi họ có hộ khẩu thường trú để đảm bảo tính
chặt chẽ trong các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình có yếu
tố nước ngoài[48].
(2) Cần quy định cụ thể về phỏng vấn kết hôn, hỗ trợ
tư vấn về kết hôn có yếu tố nước ngoài như là điều kiện để đăng ký kết
hôn có yếu tố nước ngoài; Nên quy định rõ vai trò của đoàn thể, tổ chức
xã hội và có chế tài xử lý nghiêm đối với hoạt động kinh doanh môi giới
kết hôn nhằm mục đích trục lợi[49]; Cần quy định cụ thể về cơ sở để từ chối đăng ký kết hôn[50].
(3) Sửa đổi, bổ sung quy định về việc cả hai bên là
công dân Việt Nam, không thường trú tại Việt Nam nhưng có cùng nguyện
vọng ly hôn tại Việt Nam; trường hợp vợ (chồng) có chứng cứ cho rằng
chồng (vợ) của mình cố tình trốn ở nước ngoài, không cung cấp địa chỉ
cho gia đình khi có yêu cầu ly hôn thì Tòa án có quyền cho ly hôn theo
thủ tục chung, còn vấn đề tài sản Tòa án không giải quyết. Nếu sau này
đương sự có tranh chấp về tài sản sẽ được giải quyết bằng vụ án dân sự.
(4) Bổ sung trường hợp vợ chồng là người Việt
Nam có quyền lựa chọn pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp là bất
động sản ở nước ngoài[51].
(5) Cần quy định về quyền lợi của người nước ngoài đối với tài sản chung như bất động sản khi ly hôn.
(6) Cần có giải pháp giải quyết đối với những trường
hợp đơn phương xin ly hôn có yếu tố nước ngoài. Trên thực tế, rất nhiều
trường hợp đơn yêu cầu xin ly hôn của một bên là người trong nước đã
không được giải quyết với lý do không thực hiện được việc ủy thác tư
pháp để lấy ý kiến, lời trình bày… của một bên là người ở nước ngoài và
những trường hợp trên, đa phần là phụ nữ, đã không thể kết hôn trở lại
được vì cuộc hôn nhân trên giấy của họ vẫn còn tồn tại[52].
b. Định hướng sửa đổi
Phương án 1: quy định như hiện hành
Phương án 2: Bổ sung các điều kiện kết hôn cho các quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, cụ thể là:
- Quy định mức chênh lệch tuổi tối đa giữa nam và nữ;
- Quy định người nước ngoài phải có chứng chỉ đã qua
lớp tập huấn về pháp luật và phong tục tập quán của Việt Nam về hôn nhân
và gia đình;
- Quy định người nước ngoài phải có hiểu biết nhất định về tiếng việt…
2.2. Định hướng bổ sung các quy định mới nhằm điều chỉnh các vấn đề phát sinh trong thực tiễn mà chưa được Luật hiện hành quy định
2.2.1. Bổ sung chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận (chế độ tài sản ước định)
a. Ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương và tổ chức liên quan
- Hầu hết các ý kiến cho rằng, cần quy định chế độ
tài sản của vợ chồng theo nguyên tắc: khi hai bên kết hôn lựa chọn chế
độ tài sản theo thỏa thuận thì chế độ tài sản của vợ chồng sẽ được xác
định theo thỏa thuận của họ. Chế độ tài sản theo luật định được áp dụng
khi hai bên kết hôn không có thỏa thuận về tài sản hoặc có thỏa thuận
nhưng vô hiệu.
Việc xác lập chế độ tài sản theo thỏa thuận là cần thiết[53] vì chế độ tài sản này có tác dụng :
+ Bảo đảm thực hiện quyền định đoạt về tài sản của vợ và chồng;
+ Bảo đảm sự minh bạch, công khai trong các giao dịch do họ thực hiện;
+ Góp phần khắc phục những khó khăn, vướng mắc cho Tòa án khi phân chia tài sản giữa vợ và chồng;
+ Đây không phải là chế định mới ở Việt Nam. Pháp
luật về gia đình của Việt Nam từ thời Pháp thuộc cho đến năm 1959 và ở
miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 (Luật gia đình năm 1959, Bộ dân
luật năm 1972) cũng đã quy định về chế độ tài sản này.
- Bên cạnh ý kiến trên, cũng có ý kiến khác cho rằng, không cần thiết phải xác lập chế độ tài sản ước định vì:
+ Theo quy định của Luật HN-GĐ (Điều 32) thì “vợ
chồng có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ chồng gồm tài sản
mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng
cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân và đồ dùng, tư trang cá nhân”. Đồng thời, vợ chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung;
+ Chế độ tài sản ước định tuy có ưu điểm nhưng cũng
có nhiều hạn chế, nhược điểm. Điều này thể hiện ở chỗ, trước khi kết hôn
những cặp vợ chồng tương lai này đã quan tâm quá nhiều đến vấn đề tài
sản riêng, tài sản chung thì chứng tỏ họ đã không tin tưởng nhau, không
có ý thức xây dựng cuộc sống gia đình bền vững và điều đó là trái với
mục đích của hôn nhân tiến bộ mà chúng ta đang xây dựng.
b. Định hướng sửa đổi
Pháp luật hiện hành chỉ thừa nhận một chế độ tài sản
của vợ chồng duy nhất áp dụng chung cho tất cả các cặp vợ chồng (chế độ
hôn sản pháp định). Đây là sự bất hợp lý rất lớn của Luật hiện hành. Quy
định như vậy, một mặt, không phù hợp với nguyên tắc được ghi nhận trong
Hiến pháp và BLDS về quyền tự định đoạt của cá nhân về tài sản của
mình, mặt khác, không đáp ứng được những nhu cầu của các cặp vợ chồng có
tình trạng tài sản khác nhau. Vì vậy, nay cần bổ sung chế định mới về
chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận (chế độ hôn sản ước định),
với những nội dung chủ yếu sau đây :
- Vợ chồng có quyền thỏa thuận về việc áp dụng chế độ
tài sản của vợ chồng. Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định được
áp dụng trong trường hợp vợ chồng không thỏa thuận xác lập chế độ tài
sản trong hôn nhân theo thỏa thuận hoặc thỏa thuận đó bị tòa án tuyên bố
vô hiệu.
- Đối với thỏa thuận về chế độ hôn sản ước định:
+ Thỏa thuận phải được lập trước khi kết hôn và có hiệu lực tại thời điểm đăng ký kết hôn;
+ Hình thức của thỏa thuận:
Phương án 1: Thỏa thuận phải được lập thành
văn bản có công chứng và được cơ quan có thẩm quyền về đăng ký kết hôn
ghi chú vào Sổ bộ hộ tịch và Giấy chứng nhận kết hôn hoặc sổ hộ tịch cá
nhân.
Phương án 2: Thỏa thuận phải được lập thành văn bản có chữ ký của hai bên (không phải công chứng) và được cơ quan có thẩm quyền về đăng ký kết hôn ghi chú vào Sổ bộ hộ tịch và Giấy chứng nhận kết hôn hoặc sổ hộ tịch cá nhân.
- Sửa đổi, bổ sung chế độ tài sản trong thời kỳ hôn
nhân: Trong thời kỳ hôn nhân, thỏa thuận về chế độ tài sản ước định có
thể được sửa đổi, bổ sung khi có lý do chính đáng; hình thức của việc
sửa đổi, bổ sung phải tuân theo những thể thức như khi lập hôn ước trước
khi kết hôn.
2.2.2. Về ly thân
a. Ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương và tổ chức liên quan
Hiện có hai ý kiến khác nhau về quy định ly thân trong Luật HN-GĐ.
- Ý kiến thứ nhất cho rằng cần bổ sung chế định ly thân vào Luật HN-GĐ vì các lý do sau đây:
(1) Ly thân là vấn đề thực tiễn và không thể không
quy định trong Luật vì đây là giải pháp được nhiều cặp vợ chồng lựa chọn
để giải quyết mâu thuẫn, mà không muốn ly hôn. Đặc biệt, đây là giải
pháp tối ưu cho cộng đồng người Công giáo vì theo giáo lý, họ không được
phép ly hôn;
(2) Ly thân là một biện pháp giúp các bên vợ, chồng tránh tình trạng bạo lực gia đình;
(3) Ly thân tạo điều kiện cho vợ chồng có thời gian
cân nhắc kỹ lưỡng trước khi đi tới quyết định cuối cùng trong giải quyết
mâu thuẫn của mình là ly hôn;
(4) Quy định về ly thân còn giúp làm minh bạch hóa
các giao dịch dân sự, kinh tế do một bên vợ, chồng thực hiện trong thời
kỳ ly thân, bảo đảm tốt hơn quyền lợi của các con, các thành viên khác
trong gia đình[54].
- Ý kiến thứ hai cho rằng, trong bối cảnh hiện nay,
Luật HN-GĐ không nên quy định chế định ly thân, vì dưới góc độ pháp lý,
Luật HN-GĐ không có quy định nào buộc vợ chồng nhất thiết phải sống
chung cùng nhau, mặt khác bản chất của ly thân không làm chấm dứt quan
hệ hôn nhân và không phù hợp với thuần phong mỹ tục của gia đình Việt
Nam[55].
b. Định hướng sửa đổi
Phương án 1: Ly thân là một hiện tượng tồn tại
khách quan trong thực tiễn đời sống và vì vậy, pháp luật không thể
không đề ra các quy định để giải quyết các vấn đề liên quan. Khi vợ
chồng có mâu thuẫn lớn mà thấy rằng việc tiếp tục chung sống có thể gây
ra những hậu quả xấu đối với họ hoặc con thì nhiều cặp vợ, chồng đã lựa
chọn giải pháp ly thân. Khi ly thân, vợ chồng có nhu cầu giải quyết
những vấn đề về tài sản giữa họ và về con chung. Tuy nhiên, do Luật
HN-GĐ hiện hành không quy định về vấn đề này, nên các Tòa án không thể
thụ lý giải quyết theo yêu cầu của vợ chồng. Điều này kéo theo nhiều hậu
quả, chẳng hạn khi vợ chồng không sống chung nhưng không phân định được
người trực tiếp chăm sóc, giáo dục con, không xác định rõ trách nhiệm
của vợ chồng đối với các giao dịch do một bên vợ, chồng thực hiện… Vì
vậy, cần thiết bổ sung chế định ly thân vào Luật HN-GĐ. Chế định này gồm
có những quy định về các vấn đề chủ yếu sau đây :
- Về quyền yêu cầu giải quyết ly thân: Một bên vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng đều có quyền yêu cầu giải quyết ly thân.
- Về căn cứ và thủ tục giải quyết ly thân: Yêu cầu về
ly thân chỉ được chấp nhận khi có căn cứ theo luật định. Căn cứ ly thân
và thủ tục giải quyết ly thân được quy định giống như giải quyết việc
ly hôn.
- Về thẩm quyền cho phép ly thân:
+ Trong trường hợp vợ chồng thuận tình ly thân và
không có tranh chấp về tài sản và con thì việc ly thân được thuộc thẩm
quyền của UBND cấp xã nơi cư trú của vợ chồng. Việc ly thân phải được
ghi chú vào Sổ bộ hộ tịch và Sổ hộ tịch cá nhân.
+ Trong trường hợp một bên vợ, chồng có yêu cầu ly
thân hoặc hai vợ chồng có yêu cầu ly thân nhưng không thỏa thuận được về
tài sản hoặc về con thì việc giải quyết ly thân thuộc thẩm quyền của
Tòa án.
+ Trong trường hợp một bên vợ, chồng yêu cầu ly hôn
nhưng bên kia lại yêu cầu ly thân thì Tòa án ưu tiên giải quyết yêu cầu
ly hôn.
- Về hậu quả pháp lý của việc ly thân: vợ, chồng tuy
sống riêng nhưng về mặt pháp lý thì quan hệ hôn nhân không chấm dứt. Các
bên vẫn có các quyền, nghĩa vụ về nhân thân của vợ chồng theo quy định
chung của Luật HN-GĐ (nghĩa vụ chung thủy, nghĩa vụ giúp đỡ, cấp
dưỡng…). Quyền, nghĩa vụ của họ đối với con được giải quyết như trong
trường hợp ly hôn. Chế độ tài sản chung của vợ chồng sẽ chấm dứt và tài
sản chung được phân chia theo các nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn.
- Trong trường hợp vợ chồng đang ly thân có yêu cầu
ly hôn thì UBND cấp xã hoặc Tòa án hoán cải quyết định, bản án cho ly
thân thành quyết định, bản án cho ly hôn.
Phương án 2: Không quy định ly thân trong Luật HN-GĐ
2.2.3. Về mang thai hộ
a. Ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương và tổ chức liên quan
Hiện còn có 3 ý kiến khác nhau về vấn đề mang thai hộ:
(1) Pháp luật cần cho phép mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo vì nó tạo điều kiện cho những cặp vợ chồng không có khả
năng sinh con được quyền làm cha, mẹ theo nguyện vọng. Tuy nhiên, để
tránh bị lạm dụng, Luật HN-GĐ phải quy định cụ thể trường hợp nào được
phép mang thai hộ, trường hợp nào không, căn cứ xác định quan hệ cha mẹ
và con, quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên, trách nhiệm, mục đích của
việc mang thai hộ… [56].
(2) Chưa nên quy định mang thai hộ vào trong
Luật HN-GĐ. Đề nghị thực hiện như quy định tại Nghị định số
12/2003/NĐ-CP ngày 12/02/2003, theo đó Nhà nước nghiêm cấm các hành vi
mang thai hộ và sinh sản vô tính. Trẻ ra đời do thực hiện hỗ trợ sinh
sản phải được sinh ra từ người mẹ trong cặp vợ chồng vô sinh hoặc người
phụ nữ sống độc thân và họ là cha, mẹ đối với đứa trẻ sinh ra do thực
hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
(3) Đề nghị quy định trong Luật về việc cấm việc mang
thai hộ vì đây là vấn đề phức tạp, có thể mang lại hậu quả khó lường
cho đứa trẻ sau này, mặt khác đây là thỏa thuận trái thuần phong mỹ tục,
tập quán của người Việt Nam.
b. Định hướng sửa đổi
Phương án 1: Cấm mang thai hộ vì mục đích
thương mại, đồng thời cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo với
những quy định chặt chẽ, cụ thể về các vấn đề sau đây:
+ Điều kiện đối với người nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ;
+ Hình thức pháp lý của việc mang thai hộ;
+ Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mang thai hộ;
+ Xác lập quan hệ cha, mẹ và con và quyền, nghĩa vụ với đứa trẻ được mang thai và sinh ra.
Phương án 2: cấm mang thai hộ dưới bất kỳ mục đích nào.
III Định hướng sửa đổi các quy định của Luật bảo đảm sự đồng bộ với các luật liên quan
1. Về nuôi con nuôi
Không kết cấu chương Nuôi con nuôi trong Luật HN-GĐ vì đã được quy định trong Luật nuôi con nuôi
2. Về giám hộ giữa các thành viên trong gia đình
Không quy định lại các quy định về giám hộ đã được quy định trong BLDS năm 2005.
3. Thủ tục đăng ký hộ tịch
Không quy định thủ tục đăng ký hộ tịch trong Luật HN-GĐ (đã được đưa vào trong dự thảo Luật Hộ tịch).
IV. Dự kiến kết cấu của Luật:
Chương I. Những quy định chung
Chương II. Kết hôn
Mục 1. Điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn
Tiểu mục 1. Điều kiện kết hôn
Tiểu mục 2. Đăng ký kết hôn
Mục 2. Hủy kết hôn trái pháp luật
Mục 3. Chung sống với nhau như vợ chồng không có đăng ký kết hôn
Chương III. Quan hệ giữa vợ và chồng
Mục 1. Quyền, nghĩa vụ về nhân thân
Mục 2. Đại diện giữa vợ và chồng
Mục 3. Quan hệ hôn nhân khi một bên vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết mà trở về
Mục 4. Tài sản trong hôn nhân
Tiểu mục 1. Những quy định chung
Tiểu mục 2. Tài sản trong hôn nhân theo thỏa thuận
Tiểu mục 3. Tài sản trong hôn nhân theo luật định
Chương IV. Ly hôn và Ly thân
Mục 1. Ly hôn
Tiểu mục 1. Quy định chung
Tiểu mục 2. Căn cứ lý hôn và các trường hợp ly hôn
Tiểu mục 3. Hậu quả pháp lý của ly hôn
Mục 2. Ly thân
Tiểu mục 1. Căn cứ ly thân và thủ tục ly thân
Tiểu mục 2. Quan hệ vợ chồng và tài sản trong ly thân
Tiểu mục 3. Chấm dứt ly thân
Chương V. Quan hệ cha, mẹ, con
Mục 1. Xác định cha, mẹ, con
Tiểu mục 1. Quy định chung
Tiểu mục 2. Nhận cha, mẹ, con
Tiểu mục 3. Xác định cha, mẹ cho con sinh ra theo phương pháp khoa học
Tiểu mục 4. Thẩm quyền về xác định cha, mẹ, con
Mục 2. Quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ và con
Tiểu mục 1. Quy định chung
Tiểu mục 2. Quyền, nghĩa vụ của cha nuôi, mẹ nuôi và con nuôi
Tiểu mục 3. Quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con khi ly thân và ly hôn
Tiểu mục 4. Quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con trong trường hợp cha mẹ không có hôn nhân
Tiểu mục 5. Hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên
Tiểu mục 6. Quyền, nghĩa vụ giữa những người thực hiện việc nuôi dưỡng nhau nhưng không phải là cha, mẹ, con
Chương VI. Quan hệ giữa các thành viên khác trong gia đình
Chương VII. Cấp dưỡng
Mục 1. Các trường hợp cấp dưỡng
Mục 2. Mức, hình thức và phương thức cấp dưỡng
Mục 3. Thay đổi, chấm dứt việc cấp dưỡng
Mục 4. Quyền yêu cầu về cấp dưỡng
Chương VIII. Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
Chương IX. Điều khoản chuyển tiếp và Điều khoản thi hành
[1]
Ủy ban Dân tộc,Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao,
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, UBND tỉnh Thanh Hóa, Cao
Bằng, Vĩnh Phúc, Kiên Giang, Gia Lai, Cà Mau, Bình Thuận…
[2] Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Y tế, UBND tỉnh Ninh Bình, Lào Cai, Hà Nam…
[3]
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, UBND tỉnh Hòa Bình, Hà Nam, Tiền
Giang, Thanh Hóa, Sơn La, Điện Biên, Bình Thuận, Đồng Nai, Trà Vinh,
Đồng Tháp, Long An, Lào Cai, Phú Thọ, Bắc Ninh, Bắc Giang…
[4] UBND tỉnh Sơn La, Quảng Bình, Khánh Hòa, Đà Nẵng, Kon Tum, Yên Bái, An Giang…
[5] UBND tỉnh Đăk Nông
[6]
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, 33 Tòa án nhân dân cấp tỉnh, UBND tỉnh
Đồng Tháp, Tây Ninh, Lào Cai, Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam, Vĩnh Phúc, Hà
Tĩnh, Bến Tre, Bà Rịa – Vũng Tàu, Lạng Sơn, Đà Nẵng, Hòa Bình, Tiền
Giang, Thanh Hóa, Sơn La, Quảng Bình, Điện Biên, Bình Thuận, Đồng Nai,
Bình Dương, Long An, Trà Vinh, Yên Bái, Đăk Nông, Kiên Giang, Bắc Ninh,
An Giang, Bắc Giang, Hòa Bình…
[7] Bộ Y Tế, Ủy ban dân tộc, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, UBND tỉnh Thanh Hóa, Cao Bằng , Gia Lai, Khánh Hòa …
[8]
Ủy ban dân tộc, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Lao động – Thương
binh và Xã hội, UBND thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, tỉnh Cao
Bằng, Tiền Giang, Bà Rịa – Vũng Tàu, Long An, Đồng Tháp, Trà Vinh, Đồng
Nai, Bình Thuận, Điện Biên, Thanh Hóa, Hòa Bình, Yên Bái, Đăk Nông…
[9]
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Y tế, UBND thành phố Hà Nội, Cần
Thơ, tỉnh Lào Cai, Hà Nam, Sơn La, Quảng Bình, Khánh Hòa, Kon Tum, Kiên
Giang, Gia Lai, Bắc Ninh, Bắc Giang…
[10] UBND tỉnh An Giang
[11] UBND tỉnh Ninh Bình, Hải Dương, Thái Bình, Hà Nam, Lạng Sơn, Bến Tre, Quảng Trị, Quảng Ninh…
[12] UBND tỉnh Quảng Ninh
[13] UBND thành phố Hà Nội
[14] Tòa án nhân dân tối cao; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
[15] UBND thành phố Hà Nội
[16] UBND tỉnh Thanh Hóa, Nam Định, Lạng Sơn, Gia Lai, thành phố Hà Nội
[17]
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội,
UBND tỉnh Hòa Bình, Thanh Hóa, Tây Ninh, Đồng Tháp, Hải Dương, Lào Cai,
Thái Bình, Tiền Giang, Kon Tum, Đăk Nông, Phú Thọ, Kiên Giang, An Giang,
Bắc Giang, thành phố Đà Nẵng…
[18]
Bộ Y tế, Viện Nghiên cứu thanh niên (Đại diện Trung ương Đoàn TNCSHCM),
UNBD tỉnh Hà Nam, Quảng Bình, Yên Bái, Gia Lai, Bình Thuận
[19] UBND tỉnh An Giang, UBND thành phố Hà Nội, Hải Phòng
[20] Đa số ý kiến của TAND cấp tỉnh
[21] UBND tỉnh Tây Ninh
[22] Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, UBND tỉnh Kiên Giang, An Giang, Yên Bái, Phú Thọ, Bắc Giang
[23] Tòa án nhân dân tối cao, UBND tỉnh Quảng Trị
[24] Tòa án nhân dân tối cao
[25] UBND thành phố Cần Thơ
[26] UBND tỉnh Tây Ninh
[27] UBND tỉnh Thái Bình, Đồng Tháp, Ninh Bình…
[28] Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng
[29] UBND tỉnh Quảng Bình. Phú Thọ, thành phố Hồ Chí Minh
[30] UBND tỉnh Ninh Bình, Lâm Đồng, Hà Nam, Quảng Trị…
[31] Tòa án nhân dân tối cao
[32] Tòa án nhân dân tối cao, UBND tỉnh Cao Bằng
[33] UBND tỉnh Yên Bái, Cà Mau, Bình Thuận
[34] Tòa án nhân dân tối cao, UBND tỉnh Hà Tĩnh, Hải Phòng, Ninh Bình, Thái Bình, Hà Nam
[35]
Thực tiễn xét xử cho thấy đa số các vụ ly hôn là do vi phạm chế độ một
vợ, một chồng hoặc do bạo hành gia đình. Luật Hình sự cũng có quy định
về các tội như tội vi phạm chế độ một vợ một chồng (Điều 147 BLHS), tội
hành hạ người khác (Điều 110 BLHS), tội cố ý gấy thương tích (Điều 104
BLHS) nhưng tâm lý chung của người phụ nữ Việt Nam rất ít khi yêu cầu xử
lý hình sự nếu chồng có hành vi cấu thành các tội nêu trên. Do đó, đề
nghị bổ sung quy định nếu một bên vợ hoặc chồng có các hành vi như ngoại
tình, bạo hành thì phải chịu trách nhiệm vật chất khi ly hôn đối với
bên kia (UBND tỉnh Tây Ninh).
[36] UBND tỉnh Thái Bình
[37] UBND tỉnh Yên Bái
[38] UBND tỉnh Lâm Đồng, Cao Bằng, Thái Bình
[39] Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, UBND tỉnh Kiên Giang
[40] UBND thành phố Hà Nội, tỉnh Nam Định
[41] UBND tỉnh An Giang
[42] UBND thành phố Hải Phòng, Hà Nội
[43] UBND tỉnh Lâm Đồng
[44] UBND tỉnh Hải Dương, Hà Nam
[45] UBND thành phố Hà Nội
[46] UBND tỉnh An Giang
[47]
UBND tỉnh Ninh Bình, Đồng Tháp, Lâm Đồng, Thanh Hóa, Tây Ninh, Hải
Dương, Cao Bằng, Thái Bình, Hà Nam, Vĩnh Phúc, Bến Tre, Lạng Sơn, Yên
Bái, Kiên Giang, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Quảng Nam, Bình Thuận, thành phố
Hà Nội…
[48] UBND tỉnh Đăk Nông, Gia Lai
[49] UBND tỉnh Ninh Bình, Quảng Trị, Gia Lai
[50] UBND tỉnh Thanh Hóa, Hà Tĩnh
[51] UBND tỉnh Phú Thọ
[52] UBND tỉnh Quảng Nam
[53]Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, UBND
tỉnh Ninh Bình, Thanh Hóa, Hòa Bình, Tây Ninh, Hà Nam, Hà Tĩnh, Bà Rịa –
Vũng Tàu, Yên Bái, Quảng Bình, Đăk Nông, Kiên Giang, thành phố Hồ Chí
Minh, Hà Nội, Đà Nẵng…
[54]
Đa số ý kiến của các cơ quan, tổ chức có công văn gửi về Bộ Tư pháp và
đa số Tòa án nhân dân các cấp khi được Tòa án nhân dân tối cao lấy ý
kiến về vấn đề này đều nhất trí theo quan điểm này.
[55] UBND tỉnh Đăk Nông, Kiên Giang, Cà Mau, Quảng Ninh
[56]
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Y tế, Bộ Lao động – Thương binh và
Xã hội, Ủy ban dân tộc, UBND tỉnh Lâm Đồng, Hòa Bình, Vĩnh Phúc, Tiền
Giang, Cao Bằng, Thanh Hóa, Thái Bình, An Giang, Nam Định, Kon Tum,
Quảng Bình, Long An, Đăk Nông, Quảng Trị, thành phố Đà Nẵng, Hà Nội…
0 comments:
Post a Comment