Trong triết học, chính trị học và luật học, nhà nước pháp quyền không
phải là vấn đề mới. Tuy nhiên, xung quanh vấn đề nhà nước pháp quyền còn
rất nhiều câu hỏi được đặt ra như: Nhà nước pháp quyền là học
thuyết, tư tưởng hay khái niệm? nội hàm của nó gồm những yếu tố nào? nhà
nước pháp quyền có phải là kiểu nhà nước hiện đại, là mô hình khả dụng
cho các nước đương đại hay chỉ là hình thức, phương pháp, nguyên tắc hay
biện pháp tổ chức quyền lực nhà nước? nhà nước pháp quyền xC hội chủ
nghĩa có những đặc trưng gì khác với nhà nước pháp quyền nói chung? để
xây dựng nhà nước pháp quyền xC hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay cần phải có những điều kiện gì?...
Đó là những câu hỏi lớn, đòi hỏi phải được triển khai nghiên cứu một
cách cơ bản, toàn diện mới có thể tìm được câu trả lời. Nhằm góp một
phần vào việc giải quyết những vấn đề trên, bài viết này phân tích và
đưa ra một số ý kiến về tư tưởng nhà nước pháp quyền và khái niệm nhà
nước pháp quyền.
1. Về tư tưởng nhà nước pháp quyền
Nhìn một cách khái quát có thể thấy, tư tưởng về nhà nước pháp quyền
được hình thành cách đây hơn hai nghìn năm. Lúc đầu đó chỉ là những ý
tưởng, những quan niệm của các nhà tư tưởng về những yếu tố, những khía
cạnh có tính đơn biệt của việc tổ chức quyền lực nhà nước, phát huy vai
trò của pháp luật và giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và pháp
luật..., sau đó những ý tưởng, quan niệm này được công nhận, bổ sung dần
và phát triển thành tư tưởng có giá trị phổ biến của nhân loại. Nội
dung chủ yếu của tư tưởng nhà nước pháp quyền là đề cao vai trò của pháp
luật nhằm bảo vệ các giá trị xã hội lớn như tự do, công bằng, an toàn
và phát triển.
Nhìn một cách sâu hơn, sự hình thành và phát triển của tư tưởng nhà nước
pháp quyền gắn với quá trình đấu tranh nhằm phát huy vai trò của pháp
luật trong việc bảo vệ những giá trị xC hội cơ bản và giải quyết đúng
mối quan hệ khách quan giữa nhà nước và pháp luật. Điều này có những
nguyên do của nó. Xét về nguồn gốc và bản chất, nhà nước và pháp luật là
hai hiện tượng xC hội đặc biệt, giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với
nhau: Nhà nước không thể tồn tại và thực hiện được sứ mệnh của mình nếu
không có pháp luật; ngược lại, pháp luật được hình thành bằng con đường
"nhà nước hoá" và nó chỉ phát huy được hiệu lực của mình với sự bảo đảm
bằng sức mạnh của nhà nước. Xét về mặt lí thuyết, đó là mối quan hệ
khách quan và ngang bằng.
Tuy nhiên, trong suốt chiều dài của lịch sử nhân loại, thực tiễn tổ chức
và thực thi quyền lực nhà nước, thực tiễn xây dựng và thực thi pháp
luật lại cho thấy một bức tranh khác, mối quan hệ giữa nhà nước và pháp
luật dường như đC bị làm cho biến dạng đi dưới sự tác động mạnh mẽ của
các yếu tố chủ quan vì những mục đích khác nhau và từ đó cũng xuất hiện
nhiều cách giải thích khác nhau về mối quan hệ giữa nhà nước và pháp
luật. Nhà nước vốn là "lực lượng nảy sinh trong xC hội" và trong mối
quan hệ với pháp luật, nó cũng phụ thuộc vào pháp luật, đC được đề cao
thành lực lượng "tựa hồ như đứng trên xC hội",(1) còn pháp luật vốn có
quan hệ ngang bằng với nhà nước dường như chỉ được coi là công cụ mà nhà
nước sử dụng để thực thi quyền lực của mình.
Theo đó, xu hướng lạm dụng quyền lực đC diễn ra một cách phổ biến. Nhà
nước dường như đứng trên pháp luật, còn người dân (nhân dân nói chung)
dường như phải phục tùng quyền lực nhà nước và pháp luật do quyền lực đó
đặt ra. Tính giai cấp của pháp luật đC được đề cao tối đa, còn tính xC
hội của pháp luật, vai trò và những giá trị giá trị xC hội của pháp luật
với ý nghĩa là công cụ để bảo đảm tự do, công bằng, an ninh và tiến bộ
xC hội... bị xem nhẹ thậm chí bị xâm hại nghiêm trọng, nhất là trong xC
hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến.
Trong tình hình đó, đC xuất hiện nhu cầu đấu tranh chống lại tình trạng
cực quyền, lạm quyền, nhằm đề cao vai trò của pháp luật và giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước và pháp quyền. Đây là cuộc đấu tranh
rất lâu dài vì những vấn đề về nhà nước và pháp luật vốn tự thân đC phức
tạp và chúng lại càng trở nên phức tạp hơn khi trở thành tâm điểm của
các tranh luận chính trị, triết học và luật học. Nhiều nhà tư tưởng lớn
đC tham gia vào những cuộc tranh luận này và những ý tưởng mới đC xuất
hiện hình thành nên tư tưởng nhà nước pháp quyền.
Có thể coi Xôlông (638-559 TCN) là người đầu tiên nêu ý tưởng về nhà
nước pháp quyền khi ông chủ trương cải cách nhà nước bằng việc đề cao
vai trò của pháp luật. Theo ông: "Chỉ có pháp luật mới thiết lập được
trật tự và tạo nên sự thống nhất";(2) nhà nước và pháp luật là hai công
cụ để thực hiện dân chủ, tự do và công bằng, vì vậy, "hãy kết hợp sức
mạnh (quyền lực nhà nước) với pháp luật".(3)
Tiếp sau Xôlông, Hêraclít (520-460 TCN) đC có sự bổ sung quan trọng, coi
pháp quyền là phương tiện quan trọng để chống lại cực quyền, vì vậy ông
kêu gọi: “Nhân dân phải đấu tranh để bảo vệ pháp luật như bảo vệ chốn
nương thân của mình”.(4) Xôcrát (469-399 TCN) quan niệm về công lí trong
sự tuân thủ pháp luật. Theo ông, xã hội không thể vững mạnh và phồn
vinh nếu các pháp luật hiện hành không được tuân thủ, giá trị của công
lí (pháp luật) chỉ có được trong sự tôn trọng pháp luật.
Platon (427-374 TCN) phát triển ý tưởng về sự tôn trọng pháp luật ở một
góc độ khác - từ phía nhà nước. Theo ông, tinh thần thượng tôn pháp luật
phải là nguyên tắc, bản thân nhà nước và các nhân viên nhà nước phải
tôn trọng pháp luật; nhà nước sẽ suy vong nếu pháp luật không còn hiệu
lực hoặc chỉ phụ thuộc vào chính quyền; ngược lại, nhà nước sẽ hồi sinh
nếu có sự ngự trị của pháp luật và những nhà chức trách coi trọng nguyên
tắc thượng tôn pháp luật.(5)
Aristote (384-322 TCN) bổ sung khía cạnh mới về mối quan hệ giữa chính
trị và pháp luật (chính trị được hiểu theo nghĩa là nhà nước - L.M.T).
Theo ông, cần thiết phải có sự phù hợp giữa chính trị và pháp luật, vì
vậy, việc đề cao pháp luật phải gắn với cơ chế, hệ thống các cơ quan
thực thi quyền lực nhà nước. Tuy Aristốt chưa đưa ra được lí thuyết về
phân quyền nhưng ông đC là người nêu ý tưởng về sự cần thiết phải tổ
chức nhà nước một cách quy củ để bảo đảm sự công bằng của pháp luật:
“Nhà nước nào cũng phải có cơ quan làm ra luật, cơ quan thực thi pháp
luật và toà án”.(6)
Xixêrôn (106-43 TCN) tiếp tục phát triển ý tưởng của Aristote đến trình
độ cao hơn, ông đC đưa ra quan niệm mới về nhà nước, coi nhà nước là
"một cộng đồng pháp lí", "một cộng đồng được liên kết với nhau bằng sự
nhất trí về pháp luật và quyền lợi chung"(7) và ông đC đề xuất nguyên
tắc: "Sự phục tùng pháp luật là bắt buộc đối với tất cả mọi người".(8)
Những ý tưởng, quan niệm của các nhà tư tưởng thời kì cổ đại tuy được
nêu ở những góc độ khác nhau nhưng tựu trung đều cổ vũ cho việc đề cao
pháp luật và xây dựng nhà nước hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật
công bằng. Những ý tưởng đó có ảnh hưởng rất lớn tới việc hình thành và
phát triển các lí thuyết về tính tối cao của pháp luật, về phân chia
quyền lực nhà nước và về nhà nước pháp quyền nói chung. Tuy nhiên, do
nhiều nguyên nhân khác nhau, bên cạnh những yếu tố được gạn chắt ở trên,
các ý tưởng và quan niệm đó cũng còn có nhiều hạn chế, chưa toàn diện
và chưa có đủ cơ sở lí luận khoa học.
Trong thời kì trung cổ, những ý tưởng và quan niệm nói trên vẫn được vận
dụng và có những ảnh hưởng quan trọng. Tuy nhiên, nếu xét theo quan
điểm phát triển thì trong thời kì này, tư tưởng nhà nước pháp quyền
không có những bước phát triển lớn. Phải đến thế kỉ XVII trở đi, nó mới
được phục hưng và tiếp tục phát triển, trở thành tư tưởng có giá trị
nhân loại phổ biến.
Với tư tưởng của J. Locke (1632-1704), nguyên tắc về tính tối cao của
pháp luật đC được phát triển tới trình độ mới. J. Locke không những
khẳng định tính tất yếu phải đề cao pháp luật trong mỗi quốc gia mà còn
chỉ ra mặt thứ hai của vấn đề là muốn cho pháp luật có được tính tối cao
thì các đạo luật phải khách quan, phải thừa nhận các quyền và tự do cá
nhân, phải bảo đảm tính công khai và phải thừa nhận sự phân chia quyền
lực nhà nước để tránh sự lạm quyền và tuỳ tiện. Pháp luật "phải có
(những) quy tắc xử sự chung cho cuộc sống, quy tắc đó là giống nhau với
mọi người và từng người, quy tắc đó được đặt ra bởi các cơ quan lập
pháp. Tự do của tôi, có nghĩa là tôi được hành động theo ý nguyện của
mình, nếu hành động đó không bị pháp luật cấm. Tôi không phụ thuộc vào ý
chí - một ý chí không định trước, không rõ ràng của người khác".(9)
Như vậy, J. Locke đC đặt nền móng cho việc hình thành hai nguyên tắc
mới: Cá nhân công dân "được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm"
và các cơ quan nhà nước, công chức nhà nước "chỉ được làm những điều mà
pháp luật cho phép". Tiếp sau J. Locke, Montesquieu (1698 - 1755) trong
tác phẩm "Tinh thần pháp luật" đC đề ra lí thuyết phân chia quyền lực,
một trong những nội dung chủ yếu của nhà nước pháp quyền tư sản.
Montesquieu cho rằng trong mỗi quốc gia đều có ba thứ quyền lực là:
Quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.(10))
Để chống độc đoán, lạm quyền thì ba thứ quyền này phải được tổ chức sao
cho chúng có tính độc lập và kiềm chế lẫn nhau, bởi vì: "Khi mà quyền
lập pháp và quyền hành pháp nhập lại trong tay một người hay một viện
Nguyên l o, thì sẽ không còn gì là tự do nữa; vì... chính người đó hay
viện ấy chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành một cách độc tài... Nếu
quyền tư pháp nhập với quyền lập pháp thì người ta sẽ độc đoán... quan
toà sẽ là người đặt ra luật.
Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì quan toà sẽ có cả sức
mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người, một tổ chức, hoặc của quý tộc hoặc
của dân chúng nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất
hết”.(11) Cùng với lí thuyết về phân chia quyền lực, Montesquieu cũng bổ
sung thêm những quan điểm lí luận quan trọng về quyền tự do chính trị,
về giải quyết vấn đề công bằng và bảo đảm tính tối cao của pháp luật.
J. Rousseau (1712-1778) trong tác phẩm "Bàn về khế ước xC hội", bên cạnh
việc phân tích những vấn đề mang tính nguyên tắc chung của việc cai trị
theo pháp luật, đC bàn một cách khá cặn kẽ về các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp theo lí thuyết của Montesquieu. Nhưng J. Rousseau lại có
tư tưởng và cách tiếp cận mới hết sức độc đáo đó là khẳng định tính tất
yếu khách quan của khế ước xC hội và coi khế ước xC hội là cơ sở để
giải quyết các vấn đề về nhà nước, pháp luật và công dân.
Với tư tưởng đó, J. Rousseau viết: "Trật tự x hội là một thứ quyền
thiêng liêng làm nền tảng cho mọi thứ quyền khác. Nhưng trật tự x hội
không tự nhiên mà có, nó được xác lập trên cơ sở những công ước (khế ước
x hội)";(12) Khế ước xC hội là hình thức mà ở đó mỗi thành viên tự đặt
mình và quyền lực của mình dưới sự điều khiển của ý chí chung và tiếp
nhận mọi thành viên như một bộ phận không thể tách rời của toàn thể;(13)
quyền lực tối cao được thiết lập từ những cá thể thành viên hợp lại,
nên tự nó luôn luôn là tất cả những gì tạo ra nó; ý chí chung chỉ có thể
điều khiển các lực lượng nhà nước theo mục đích của cơ chế nhằm mục
đích phục vụ ý chí chung; ý chí chung là của toàn thể dân chúng, vì vậy,
khi được công bố nó trở thành luật và do đó chủ quyền tối cao là không
thể phân chia.(14)
Xét trên phương diện thực tế, quyền lực nhà nước phải trao cho các cơ
quan, con người cụ thể, do đó phải có sự phân lập tương đối, chứ không
thể thoát li khỏi sự ràng buộc của ý chí chung. Do đó, "những bộ phận
quyền hành được chia tách ra đều phụ thuộc vào quyền lực tối cao, đều
giả định phải có quyền lực tối cao, mỗi bộ phận đều chỉ nhằm thực hiện ý
chí tối cao đó".(15)
I. Kant (1724-1804) là người có đóng góp quan trọng trong việc phát
triển tư tưởng nhà nước pháp quyền, đC đưa ra những lập luận có tính
triết lí về nhà nước pháp quyền. I. Kant cho rằng, con người là chủ thể
có ý thức về phẩm giá; con người trong hành vi của mình phải tuân thủ
những đạo luật đạo đức; thực chất của tự do là cái bên trong của nhân
cách con người; con người có khả năng ứng xử theo mục đích với những
cách thức phù hợp. Tuy nhiên, không phải ai cũng sử dụng được tự do cá
nhân một cách đúng mức, do đó dễ dẫn đến chuyên quyền. Pháp luật có hiệu
lực bắt buộc các cá nhân phải phục tùng ý chí chung.
Nhà nước là liên minh của nhiều người cùng phục tùng các đạo luật. Phúc
lợi của nhà nước nằm trong việc đặt các cơ cấu nhà nước phù hợp với các
nguyên tắc pháp luật theo nguyên lí: HCy hành động để biểu hiện tự do
của anh thích ứng với tự do của người khác, thích ứng với các đạo luật
chung.(16) Nhà nước pháp quyền, vì vậy, theo quan niệm của Cantơ là nhà
nước có sự phân chia quyền lực và pháp luật trong nhà nước đó có sự phân
biệt rõ ba loại: Pháp luật tự nhiên, pháp luật thực tiễn và pháp luật
công lí, trong đó pháp luật tự nhiên lại chia thành luật công và luật tư
và chế định trung tâm của luật công là quyền của nhân dân được tham gia
vào việc thiết lập trật tự pháp luật bằng cách thông qua hiến pháp thể
hiện ý chí của họ.
Khác với Cantơ, Hêghen (1770 -1831) cho rằng pháp luật thể hiện (một
cách hạn chế) ý chí tự do; sự phát triển của tư tưởng pháp quyền trải
qua nhiều cấp độ, mỗi cấp độ có hình thức riêng và khởi điểm của sự phát
triển pháp quyền là ý chí tự do; pháp luật là mối quan hệ của con
người, có tính trừu tượng và "là phương thức tồn tại của lí trí tự
do”.(17) Ph. Hegel coi nhà nước cũng chính là pháp luật; nhà nước là
pháp luật phát triển, sự biểu hiện cao nhất của pháp luật cụ thể, đứng
trên đỉnh cao của hình chóp pháp luật. Với cách lập luận đó, Heghen đC
đi đến kết luận rằng "chỉ có nhà nước là sự thể hiện của tự do"; “nhờ có
nhà nước mà gia đình, x hội công dân được bảo tồn và những mâu thuẫn
đẳng cấp được điều hoà”(18).
Có thể nói, đến nửa cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, về mặt lí thuyết,
tư tưởng nhà nước pháp quyền được phát triển tương đối toàn diện, trở
thành một trong những tư tưởng chính trị - pháp lí có tính phổ biến và
trong sách báo chính trị, pháp lí cũng bắt đầu xuất hiện các ý kiến coi
tư tưởng này như học thuyết về nhà nước pháp quyền. Từ đây, có trào lưu
mới đã xuất hiện - trào lưu nghiên cứu ứng dụng học thuyết nhà nước pháp
quyền vào việc xác lập các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước, xây dựng, thực thi pháp luật và xã hội công dân.
Tuy nhiên, nếu hiểu học thuyết với nghĩa là toàn thể nói chung những
quan niệm có hệ thống dùng để lí giải các hiện tượng và hướng hoạt động
của con người trong lĩnh vực nhất định (mà ở đây là lĩnh vực nhà nước,
pháp luật và xC hội công dân) thì học thuyết nhà nước pháp quyền vẫn còn
chưa có được một cách đầy đủ tính hệ thống của các quan niệm về nhà
nước pháp quyền và khó có thể nói ai (những ai) là tác giả của học
thuyết này. Đó là cái khó đối với việc nghiên cứu về nhà nước pháp quyền
nhưng đồng thời, đó cũng là cái thuận, là hướng mở cho những tư duy
sáng tạo để tiếp cận những vấn đề về nhà nước pháp quyền trong giai đoạn
hiện nay.
2. Về khái niệm nhà nước pháp quyền
Khái niệm nói chung được hiểu là hình thức phản ánh thế giới vào tư duy,
nhờ nó mà người ta nhận thức được bản chất của các hiện tượng, các quá
trình... khái quát được những dấu hiệu cơ bản của nó.
Khái niệm là sản phẩm của nhận thức đang phát triển trong lịch sử; nhận
thức này được hình thành từ giai đoạn thấp đến giai đoạn cao hơn, tóm
tắt những kết quả đC thu được từ thực tiễn để hình thành nên nội dung
của khái niệm ngày càng sâu hơn. Kết quả của tư duy thể hiện trong khái
niệm luôn có tính kế thừa và phát triển; khái niệm mới thường được hình
thành trên cơ sở làm rõ khái niệm cũ, bổ sung và hoàn thiện những nội
dung mới. Vì vậy, các khái niệm không có tính chất tĩnh và tính tuyệt
đối; mọi khái niệm đều có nguồn gốc phát sinh và đang trong trạng thái
phát triển, luôn là sự tiệm tiến để phản ánh ngày càng đầy đủ hơn thực
tế vận động và phát triển của sự vật (hiện tượng, quá trình, vấn đề).
Theo V.I.Lênin, mọi khái niệm đều cần "được mài sắc, gọt rũa, mềm dẻo,
năng động, tương đối, liên hệ với nhau, thống nhất trong những đối
lập".(19)
Mặc dù tư tưởng nhà nước pháp quyền đC xuất hiện từ rất sớm nhưng phải
đến thế kỉ XIX, khái niệm nhà nước pháp quyền mới có được cách biểu hiện
với ý nghĩa là khái niệm(20) và theo quy luật chung, khái niệm nhà nước
pháp quyền là khái niệm có tính lịch sử.
Tính lịch sử của nó thể hiện ở chỗ, nó bắt đầu bằng sự khái quát những
thuộc tính còn ở mức giản đơn của nhà nước pháp quyền. Trong quá trình
vận động tiệm tiến, những cái ban đầu giản đơn trở thành cái phổ biến,
được dung hợp, mở rộng và nâng nội dung của nó đến mức độ cao hơn và đậm
đặc hơn.
Vì thế, nó "không phải chỉ là cái phổ biến trừu tượng, mà là cái phổ
biến bao hàm cả sự phong phú của cái đặc thù, cái cá thể"(21), gắn liền
với từng bước phát triển của hiện thực được nó phản ánh. Quan niệm về
tính lịch sử của khái niệm nhà nước pháp quyền cho phép chúng ta có thể
rút ra một số kết luận:
Thứ nhất, mặc dù tư tưởng nhà nước pháp quyền đã có mầm mống từ rất sớm nhưng
khái niệm nhà nước pháp quyền chỉ xuất hiện khi những yếu tố của nhà
nước pháp quyền đã được nhận thức và trở thành những dấu hiệu có tính
đặc trưng.
Thứ hai, nhà nước pháp quyền là khái niệm chung, nhờ sự phản ánh
khái quát lí luận về những đặc tính của các nhà nước pháp quyền cụ thể
tồn tại trong thực tiễn, vì vậy, có nhà nước pháp quyền ở trình độ thấp
và nhà nước pháp quyền ở trình độ cao; có nhà nước pháp quyền tư sản và
có nhà nước pháp quyền XHCN.
Thứ ba, phải có quan điểm biện chứng khi nghiên cứu về nhà nước pháp quyền, phải đặt những vấn đề nhà nước pháp quyền trong sự vận động, phát triển và gắn với những điều kiện lịch sử cụ thể trong
mỗi giai đoạn quá trình để tìm ra những yếu tố có tính bản chất và gạt
bỏ những yếu tố ngẫu nhiên, tạm thời, rời rạc ra khỏi khái niệm.
Thứ tư, trong xã hội hiện đại, khái niệm nhà nước pháp quyền lại có thêm những nội dung mới; nhà nước pháp quyền phải có đủ năng lực giải quyết những vấn đề quốc gia và quốc tế.
Như vậy, vấn đề quan trọng là phải căn cứ vào điều kiện cụ thể, trong
mỗi thời kì cụ thể để tìm ra mức độ hợp lí của các yếu tố để xây dựng
được mô hình nhà nước pháp quyền phù hợp. Nhà nước pháp quyền xC hội chủ
nghĩa sẽ được xây dựng theo quy luật từ thấp đến cao, từ hoàn thiện ít
đến hoàn thiện nhiều.
Vậy, nội hàm của khái niệm nhà nước pháp quyền gồm những yếu tố gì? Có
rất nhiều ý kiến khác nhau về nội hàm của khái niệm này, theo chúng tôi,
khái niệm nhà nước pháp quyền cần được hiểu trên cả hai bình diện:
Thứ nhất, khái niệm nhà nước pháp quyền phản ánh những đặc điểm chung của nhà nước, với tư cách là tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, thành tố đặc biệt của hệ thống chính trị.
Thứ hai, khái niệm nhà nước pháp quyền phản ánh những đặc điểm riêng của nhà nước đặt trong mối quan hệ khách quan giữa nhà nước - pháp luật - xC hội công dân.
Quan niệm đó cho chúng ta một cách nhìn toàn diện về nhà nước pháp
quyền, phân biệt nhà nước pháp quyền với các tổ chức chính trị, xC hội
khác đồng thời phân biệt nhà nước pháp quyền với nhà nước nói chung.
Theo đó, ngoài những đặc điểm của nhà nước nói chung, nhà nước pháp
quyền còn có những đặc trưng khác đó là: Sự phân công quyền lực một cách
hợp lí; sự hiện diện của hiến pháp và nền pháp chế thống nhất, công
bằng và sự hiện diện của chế độ dân chủ.
Để bảo đảm cho nhà nước có được những đặc điểm đó thì cần có những điều
kiện như: Có bộ máy nhà nước gọn nhẹ, có hiệu lực và hiệu quả, có sự
phân công rõ ràng để thực hiện tốt các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp...; có hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ và hoàn thiện, phản
ánh đúng ý chí, lợi ích nhân dân và cộng đồng xC hội; bảo đảm các quyền
và tự do của công dân; sự rõ ràng về nghĩa vụ của công dân với nhà nước
và nhà nước với công dân; ý thức chính trị, ý thức pháp luật và trình độ
văn hoá cao...
Như vậy, nhà nước pháp quyền không phải là kiểu nhà nước mà là một mô
hình nhà nước mà ở đó bên cạnh những đặc điểm chung nó còn có những đặc
điểm riêng. Để xây dựng được nhà nước pháp quyền thì đòi hỏi phải xuất
phát từ những đặc điểm chung và riêng của nhà nước pháp quyền và căn cứ
vào điều kiện cụ thể về chính trị, kinh tế, văn hoá, xC hội để có những
phương hướng và giải pháp cụ thể và có bước đi phù hợp./.
(1).Xem: Mác-Ănghen, Tuyển tập, tập 6, Nxb. Sự thật, H. 1984, tr.260.
(2), (3). Xem: Giáo trình lịch sử các học thuyết chính trị, Khoa luật ĐHQGHN, H. 1995, tr. 48.
(4).Xem: Thuyết "Tam quyền phân lập" và bộ máy nhà nước tư sản hiện đại", Viện TTKHXH, H.1992, tr.6.
(5).Xem: Platon, Toàn tập, tập 3, phần 2, Nxb. Tư tưởng, M.1972 (tiếng Nga), tr.188.
(6).Xem: Thuyết "Tam quyền phân lập" và...Sđd, tr.7.
(7), (8).Xem: Xixêrôn, "Đối thoại", Nxb. Khoa học, M.1966 (tiếng Nga),
trích theo TS. Nguyễn Văn Niên, "Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam -
Một số vấn đề lí luận và thực tiễn", Nxb. CTQG, H.1966, tr.15 -16 &
17.
(9).Xem: J. Locke, Tuyển tập triết học, Nxb. Tư tưởng, M.1960 (tiếng Nga), trích theo TS. Nguyễn Văn niên, Sđd. tr.19-20.
(10), (11).Xem: Montesquieu, Tinh thần pháp luật, Nxb. Giáo dục, H.1996, tr. 100 -101.
(12).Xem: Jean Jacques Rousseau, Bàn về khế ước xC hội, Nxb. Thành phố HCM, 1992, tr..29.
(13), (14).Xem: Jean Jacques Rousseau, Sđd. tr.42& 55.
(15). Xem: Jean Jacques Rousseau, Sđd. tr. 56.
(16), (17). Xem: TS. Nguyễn Văn Niên, Sđd. tr. 22-23 & 24.
(18).Xem: TS. Đinh Văn Mậu, TS. Phạm Hồng Thái, “Lịch sử các học thuyết chính trị-pháp lí”, Nxb. Thành phố HCM, 1997, tr.108.
(19).Xem: V.I.Lênin, Toàn tập (tiếng Việt), Nxb. Tiến bộ, Mascova, tập 29, tr.155 -156.
(20).Xem: R.F.Môn (Robert Fon Mohn) và K.T.Vancơ (Karl Teodor Valker)
hai nhà triết học Đức lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ nhà nước pháp quyền
(Rechtsstat - tiếng Đức).
(21).Xem: V.I.Lênin, Toàn tập (tiếng Việt), Nxb. Tiến bộ Mascova, tập 1, tr.55.
Lê Minh Tâm, Tạp chí luật học, số 2/2002, tr. 32 - 39.



11:06 PM
Hoàng Phong Nhã
Posted in:
0 comments:
Post a Comment