ĐĂNG TRÊN TẠP CHÍ KHPL SỐ 2(33)/2006
SUY NGHĨ VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
TRẦN THÁI DƯƠNG *
* TS. Đại học Luật Hà Nội
1. Quan niệm chung về hệ thống chính trị - xã hội
Có
thể nói rằng, nếu không tiếp cận khái niệm hệ thống chính trị - xã hội,
không thể nhận thức được một cách đầy đủ và sâu sắc về vị trí, vai trò
của các thiết chế xã hội hiện đại.
Trong
thực tế đời sống chính trị - xã hội ở nước ta, thời gian qua có một số
tổ chức xã hội - nghề nghiệp đã phát triển thành tổ chức chính trị - xã
hội - nghề nghiệp. Nhưng cho đến nay, giới khoa học pháp lí và chính trị
nước ta mới chỉ đề cập tới hệ thống chính trị với ý nghĩa là hệ thống
các thiết chế chính trị và chính trị - xã hội gồm Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn thể quần chúng chứ chưa nghiên
cứu hệ thống chính trị - xã hội với ý nghĩa là một hệ thống rộng lớn
hơn, trong đó không chỉ có các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội mà còn có cả một số tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp và các
tổ chức xã hội khác.
Quan
niệm về hệ thống chính trị - xã hội như vậy có ý nghĩa rất quan trọng
trong điều kiện xây dựng và phát huy nền dân chủ, xây dựng nền kinh tế
thị trường và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Bởi lẽ,
quyền lực chính trị trong điều kiện hiện nay không chỉ thể hiện vai trò
của các thiết chế chính trị, chính trị - xã hội mà nó còn có xu hướng
chịu ảnh hưởng ngày càng lớn bởi các thiết chế xã hội. Sự tác động trực
tiếp, mạnh mẽ và nhiều chiều của các yếu tố kinh tế - xã hội đến kiến
trúc thượng tầng chính trị là một sự tác động mang tính quy luật trong
các xã hội hiện đại. Điều này có ảnh hưởng lớn đối với quá trình xây
dựng và củng cố nền dân chủ, muốn hay không, chúng ta cần phải nhận thức
được một cách đầy đủ.
Từ
suy nghĩ trên, trong phạm vi bài viết này, tôi xin nêu quan niệm của
mình về hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam hiện nay như sau: Hệ thống
chính trị - xã hội Việt Nam là hệ thống các thiết chế chính trị, chính
trị - xã hội và các thiết chế xã hội khác gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể quần chúng và các tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội rộng lớn của nhân dân; cơ chế vận hành các thiết chế
đó dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Quan niệm về hệ thống
chính trị - xã hội như thế được hình thành trên cơ sở gắn kết giữa hai
hệ thống thiết chế xã hội là hệ thống chính trị (hệ thống thiết chế trực
tiếp thực hiện quyền lực chính trị) và hệ thống xã hội. Trong điều kiện
xây dựng cơ chế thực hiện và đảm bảo quyền lực nhân dân ở nước ta hiện
nay, sự gắn kết của hai hệ thống ấy thành một hệ thống lớn là điều có ý
nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc và cần được chú trọng nghiên cứu cả về
lí luận và thực tiễn.
Từ
trước, chúng ta vẫn nhận thức chung rằng đặc điểm của hệ thống chính
trị nước ta là tính thống nhất cao dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam. Hệ thống chính trị nước ta không phải là hệ thống của các
thiết chế đối lập nhau về lợi ích. Đảng là một thành viên của hệ thống
đó nhưng Đảng giữ vai trò lãnh đạo. Vai trò lãnh đạo của Đảng là một tất
yếu lịch sử không thể phủ nhận... Trong điều kiện hiện nay, nhận thức
đó vẫn không sai nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ. Sự tham gia của các lực
lượng xã hội vào hoạt động chung của hệ thống chính trị - xã hội đã làm
thay đổi tính chất thuần nhất của hệ thống chính trị truyền thống. Kết
quả hoạt động của cả hệ thống này là sản phẩm của sự tương tác (tác động
qua lại) về chính trị - xã hội rất đa dạng. Trong tính thống nhất của
lợi ích quốc gia, dân tộc vẫn có sự đa dạng và phong phú về lợi ích của
những nhóm xã hội khác nhau. Nền chính trị hiện đại không thể là sản
phẩm của riêng hệ thống chính trị như quan niệm truyền thống mà tất yếu
phải là kết quả của cả hệ thống chính trị - xã hội, trong đó lợi ích vẫn
là động lực chính quy định và thúc đẩy hoạt động của mỗi nhóm xã hội.
Như thế, để phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, cần đổi mới mạnh mẽ
phương thức hoạt động của Đảng đồng thời nêu cao vai trò của tất cả các
thiết chế trong toàn bộ hệ thống chính trị - xã hội đó.
Đặc
trưng của hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam như vừa nêu phản ánh
tính riêng biệt và cả tính phổ biến của hệ thống chính trị - xã hội nước
ta trong mối liên hệ so sánh với hệ thống chính trị - xã hội các nước
trên thế giới. So với hệ thống chính trị trước đây, chúng ta đã ghi nhận
sự hiện diện của các thiết chế xã hội, của quyền lực xã hội trong một
hệ thống chung là hệ thống chính trị - xã hội (Việc khẳng định mối liên
hệ thống nhất hữu cơ giữa các thiết chế chính trị, chính trị - xã hội
với các thiết chế xã hội trong cùng một hệ thống như vậy có thể được coi
là điểm mới trong nhận thức về chính trị của chúng ta ở giai đoạn hiện
nay hay không, tác giả xin được tiếp tục trao đổi cùng bạn đọc trong
những nghiên cứu ở một phạm vi khác).
Với
cách nhận thức thống nhất giữa quyền lực chính trị và xã hội, chúng ta
có thể xác định được cấu trúc của hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam.
Hệ thống đó gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần
chúng và các tổ chức xã hội rộng lớn của nhân dân.
Trong
hệ thống chính trị - xã hội ngày nay, điểm mới đáng chú ý so với cấu
trúc của hệ thống chính trị như trước đây là sự hiện diện của các tổ
chức xã hội rộng lớn của nhân dân, đặc biệt là các hội đoàn trong lĩnh
vực kinh tế - xã hội, các tổ chức hiệp hội nghề nghiệp, kinh doanh, dịch
vụ xã hội... Tuy không trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ chính trị của
Đảng và Nhà nước nhưng trong điều kiện của nền dân chủ XHCN, để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên, các tổ chức này có tác động
ngày càng to lớn đến đời sống kinh tế - chính trị của đất nước. Đảng,
Nhà nước không quản lí trực tiếp đối với các tổ chức này nhưng có mối
liên hệ mật thiết với các tổ chức đó. Đường lối, chính sách, pháp luật
của Đảng, Nhà nước có được xây dựng và thực thi tốt hay không, nhất là
các vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của các thành
viên tổ chức hiệp hội, không thể không tính đến vai trò và sự tác động
tích cực của các tổ chức xã hội. Với ý nghĩa đó thì có thể quan niệm,
các tổ chức xã hội được coi là hệ thống phản biện của hệ thống chính
trị. Hoạt động tư vấn, giám định và phản biện xã hội đối với đường lối,
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước phải được coi là
hoạt động cơ bản và thể hiện sinh động nhất vai trò mới, rất tích cực
của các tổ chức hiệp hội kinh tế - xã hội. Do vậy, cơ chế chính trị -
pháp lí để vận hành mối liên hệ giữa hệ thống chính trị và hệ thống xã
hội như đã nêu cũng được xác định là thành tố cơ bản trong cấu trúc của
hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam hiện nay.
2. Các thiết chế trong hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam – Đặc điểm, vai trò
Trong cấu trúc của hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam hiện nay có thể phân biệt ba loại thiết chế là:
- Tổ chức chính trị (Đảng cộng sản Việt Nam), Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam;
-
Tổ chức chính trị - xã hội: Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng
như Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp phụ nữ, Công đoàn, Hội nông dân, Hội
cựu chiến binh; và một số tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp như
Liên hiệp các hội khoa học, kĩ thuật Việt Nam, Liên hiệp các hội hữu
nghị Việt Nam, Hội nhà báo Việt Nam...
- Tổ chức xã hội: Các hiệp hội kinh tế, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và các tổ chức xã hội khác...
Các
tổ chức chính trị - xã hội thống nhất giữa hai mặt chính trị và xã hội.
Điều này thể hiện sự tập hợp đoàn kết các lực lượng quần chúng đông đảo
để thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước. Phương thức
tổ chức và hoạt động của các tổ chức này tuy khác với tổ chức Đảng và
các cơ quan nhà nước nhưng đều gắn chặt với việc thực hiện các mục tiêu,
nhiệm vụ do Đảng và Nhà nước giao phó. Các tổ chức chính trị - xã hội
là hình thức tổ chức động viên, triển khai nguồn lực con người cho các
mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong công cuộc do Đảng
lãnh đạo, Nhà nước thống nhất quản lí. Cùng với Đảng, Nhà nước, các tổ
chức chính trị - xã hội hợp thành hệ thống chính trị Việt Nam, trong đó
Đảng giữ vai trò và trọng trách là người lãnh đạo trực tiếp. Trong hệ
thống chính trị - xã hội Việt Nam, với tính chất chính trị và tính chất
xã hội rộng lớn, các tổ chức chính trị - xã hội đóng vai trò là người tổ
chức, vận động đông đảo quần chúng nhân dân thực hiện các nhiệm vụ đặt
ra đối với cách mạng Việt Nam thông qua những hình thức phù hợp.
Mỗi
loại tổ chức chính trị - xã hội lại có vai trò riêng, chẳng hạn Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị - tổ chức liên hiệp tự
nguyện của các đoàn thể nhân dân và các cá nhân tiêu biểu của các giai
cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo; là tổ chức đại diện cho
ý chí đại đoàn kết và nguyện vọng chân chính của nhân dân; nơi tập hợp
trí tuệ của con người Việt Nam yêu nước, nơi thống nhất hành động giữa
các tổ chức thành viên, phối hợp với chính quyền thực hiện nền dân chủ,
chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân; giám sát,
bảo vệ, tham gia xây dựng nhà nước, quản lí xã hội. Mặt trận Tổ quốc có
chức năng tham chính, tham nghị và giám sát; đoàn kết nhân dân, chăm lo
đời sống, lợi ích của các thành viên, thực hiện dân chủ và đổi mới xã
hội, thực thi quyền và nghĩa vụ công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Tổng
Liên đoàn lao động Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của
giai cấp công nhân, đội ngũ trí thức và những người lao động tự nguyện
lập ra nhằm mục đích tập hợp, đoàn kết lực lượng, xây dựng giai cấp công
nhân Việt Nam lớn mạnh về mọi mặt; đại diện và bảo vệ các quyền, lợi
ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, phấn đấu xây dựng nước Việt
Nam độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tổng
Liên đoàn lao động Việt Nam có tính chất quần chúng và tính chất giai
cấp công nhân, có chức năng: Đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của công nhân viên chức lao động; tham gia quản lý Nhà
nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động
của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục, động viên công nhân
viên chức lao động phát huy quyền làm chủ đất nước, thực hiện nghĩa vụ
công dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đoàn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội tập hợp
tầng lớp thanh niên, là đoàn thể của các thanh niên ưu tú, đội hậu bị
của Đảng. Tổ chức Đoàn được thành lập trên phạm vi cả nước, có mặt ở hầu
hết các cơ quan, đơn vị, tổ chức từ trung ương đến cơ sở nhằm thu hút
thế hệ trẻ vào những hoạt động xã hội bổ ích, lành mạnh, qua đó giáo dục
ý thức tôn trọng pháp luật cho đoàn viên thanh niên.
Hội
Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giới nữ, có
chức năng đại diện cho quyền bình đẳng, dân chủ, lợi ích hợp pháp và
chính đáng của phụ nữ, tham gia quản lý Nhà nước, tham gia xây dựng
Đảng. Hội đoàn kết, vận động, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ thực hiện chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hội
Nông dân Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nông dân
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, cơ sở chính trị của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Hội nông dân Việt Nam vận động giáo dục hội viên, nông dân phát huy
quyền làm chủ, tích cực học tập nâng cao trình độ, năng lực về mọi mặt;
đại diện giai cấp nông dân tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước; chăm lo
bảo vệ các quyền và lợi ích của nông dân Việt Nam.
Hội
Cựu chiến binh Việt Nam là đoàn thể chính trị - xã hội, thành viên của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân,
một tổ chức trong hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo,
hoạt động theo đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Hiến pháp,
pháp luật của Nhà nước và Điều lệ của Hội. Mục đích của Hội là tập hợp,
đoàn kết, tổ chức, động viên các thế hệ cựu chiến binh giữ gìn và phát
huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tích cực tham gia xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng và bảo vệ Đảng,
chính quyền, chế độ, bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của cựu
chiến binh, chăm lo giúp đỡ nhau về tinh thần và vật chất trong cuộc
sống, gắn bó tình bạn chiến đấu.
Ngoài
các tổ chức trên đây, nhiều tổ chức xã hội khác cũng được coi là tổ
chức chính trị - xã hội như Liên hiệp các hội khoa học kĩ thuật Việt Nam
(VUSTA), Hội Nhà báo Việt Nam, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam,
Hội Chữ thập đỏ Việt Nam... Đây là điểm có ý nghĩa rất quan trọng đồng
thời cũng là một xu hướng phát triển của các thiết chế xã hội trong thời
kì đổi mới, nhất là ở giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Một số hội nghề nghiệp, hội của các nhà trí thức,
các nhà khoa học, không chỉ đơn thuần mang tính chất đoàn thể xã hội mà
các tổ chức này cũng đóng vai trò to lớn trong việc thực hiện các nhiệm
vụ chính trị của đất nước. Hơn bao giờ hết, hiện nay, Đảng và Nhà nước
ta đang động viên và phát huy cao độ vai trò của đội ngũ trí thức, các
nhà khoa học, các doanh nhân trong việc hoạch định và thực thi đường
lối, chính sách phát triển đất nước. Có thể nói rằng đó là xu hướng tất
yếu trong quá trình xây dựng và củng cố nền dân chủ XHCN ở Việt Nam mà
một trong những biểu hiện có tính đặc trưng là sự tác động tương hỗ dẫn
đến sự hài hòa hóa giữa các yếu tố chính trị và kinh tế - xã hội.
Như
vậy, có thể nhận thấy rõ rằng trong hệ thống chính trị - xã hội Việt
Nam, các tổ chức chính trị - xã hội đóng vai trò vừa là trung tâm đoàn
kết, tập hợp đông đảo các lực lượng quần chúng nhân dân (tính chất xã
hội), đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các
thành viên vừa thực hiện vai trò nền tảng chính trị của chính quyền nhân
dân, tổ chức động viên nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính
trị của Đảng và Nhà nước. So với các tổ chức xã hội khác, vai trò này
của các tổ chức chính trị - xã hội có tính trực tiếp hơn trong việc phục
vụ sự nghiệp cách mạng theo đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
Bên
cạnh các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội truyền thống và những tổ
chức xã hội đã và đang phát triển thành tổ chức chính trị - xã hội như
nêu trên, trong hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam còn có hàng trăm tổ
chức xã hội khác. Các tổ chức xã hội loại này đang ngày càng nhiều và
gồm các hình thức tổ chức phong phú như các hiệp hội kinh tế, hội nghề
nghiệp, các hội quần chúng tập hợp theo sở thích, ý nguyện, các tổ chức
hoạt động tương trợ xã hội không nhằm mục đích lợi nhuận... Đặc điểm
chung của các tổ chức xã hội là tính phi chính trị và phi lợi nhuận.
Điều này có nghĩa, các tổ chức này hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện,
dân chủ, bình đẳng, bảo vệ và phát triển lợi ích chung của các thành
viên. Các tổ chức này về bản chất sinh ra không phải để trực tiếp thực
hiện các nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước.
Bên
cạnh tính phong phú, đa dạng là đặc điểm lớn của các tổ chức xã hội,
các tổ chức xã hội còn có một đặc điểm khác là ngày càng xuất hiện sự
liên kết, tập hợp các lực lượng lớn hơn trên cơ sở những sự tương đồng
về lợi ích và ý nguyện. Đó cũng là xu thế khách quan của xã hội dân sự
mà chúng ta cần biết phát huy điểm tích cực và hạn chế mặt tiêu cực.
Ngày
nay, vai trò của các tổ chức xã hội đang dần được xác định một cách
đúng đắn hơn trong sự nghiệp xây dựng nền kinh tế thị trường, Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và một xã hội dân sự. Không phải chỉ bây giờ
mà từ rất xa xưa, việc quản lí xã hội trước hết và phần lớn vốn thuộc
về chức năng của các tổ chức xã hội (trong đó có cả gia đình). Trong xã
hội hiện đại cũng cần phải như vậy, với tư duy “nhà nước nhỏ, xã hội
lớn” thì vị trí của các tổ chức xã hội được mô hình hoá như một “cái bệ
đỡ” lớn, vững chắc cho sự tồn tại của các thiết chế chính trị là Đảng,
Nhà nước. Gốc có to, cây mới vững bền, đó là một triết lí đơn giản nhưng
đầy ý nghĩa đối với hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam.
Trong
điều kiện hiện nay, điều đáng chú ý là các hội nghề nghiệp, hiệp hội
kinh tế ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng. Và theo nguyên lí về
mối liên hệ giữa kinh tế với chính trị thì các tổ chức hội đoàn kinh tế
sẽ tác động mạnh mẽ đến đời sống chính trị, luật pháp của nước ta theo
cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Đó cũng là xu hướng có tính
khách quan trong sự phát triển của nền dân chủ hiện nay. Điều này dù
không trực tiếp quyết định thể chế chính trị, luật pháp nhưng việc ban
hành và thực thi chính sách, pháp luật không thể không tính đến nhu cầu,
lợi ích cũng như vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội hay sự
tham gia tích cực của các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các hiệp hội kinh
tế vào quá trình đó.
Như
vậy, trong hệ thống chính trị - xã hội ngày nay, các tổ chức xã hội
đóng vai trò năng động tích cực hơn so với nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung. Các tổ chức xã hội không phải là kênh biệt lập với hệ thống chính
trị mà ngày càng tham gia mạnh mẽ, tác động lớn lao đến kết quả hoạt
động của hệ thống chính trị. Vì thế có thể quan niệm rằng hệ thống xã
hội là hệ thống phản hồi với hệ thống chính trị, giám sát hoạt động của
hệ thống chính trị. Nếu nhìn từ góc độ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thì
cả hai hệ thống chính trị và hệ thống các tổ chức xã hội đều là những
kênh thực hiện quyền lực nhân dân. Hệ thống chính trị tác động đến xã
hội trên cơ sở quyền lực giai cấp - xã hội, đảm bảo sự định hướng và dẫn
dắt, điều hành sự phát triển của cả xã hội. Do đó, hệ thống chính trị
đảm bảo tính thống nhất của ý chí, nguyện vọng và quyền lực nhân dân. Hệ
thống xã hội đảm bảo tính nhân bản và tính đa dạng của đời sống xã hội.
Hệ thống xã hội không phải là hệ thống thụ động chịu sự tác động của hệ
thống chính trị, phụ thuộc hoàn toàn vào hệ thống chính trị mà cũng có
vai trò, trách nhiệm chung với sự phát triển toàn diện của đất nước. Cả
hai hệ thống đó không thể thiếu vắng và thay thế vai trò cho nhau. Nếu
hệ thống này không tốt thì tất yếu dẫn đến sự bấp cập của hệ thống kia
và ngược lại. Vì vậy, cả hai hệ thống chính trị và hệ thống xã hội hòa
hợp thành thể thống nhất được gọi là hệ thống chính trị - xã hội. Tuy
nhiên, điểm cần chú ý trong mối liên hệ biện chứng giữa hai hệ thống này
là nếu hệ thống chính trị không có mục đích tự thân thì ngược lại hệ
thống xã hội trong khi hoạt động vì mục tiêu cho chính hệ thống mình
(mang tính xã hội) có nhu cầu và mong muốn tác động đến hệ thống chính
trị một cách tự nhiên. Thành ra, dù khác nhau về phương thức, nguyên tắc
tổ chức và hoạt động nhưng nhìn tổng thể mục tiêu của cả hai hệ thống
cuối cùng đều thống nhất ở chỗ vì con người, vì một xã hội tốt đẹp.
Điều
có ý nghĩa quan trọng có thể rút ra qua những phân tích trên đây là vai
trò của các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội đối với sự
hình thành và phát triển của toàn bộ hệ thống chính trị - xã hội của
đất nước đã tạo cơ sở khách quan cho các hoạt động tham gia hay phản hồi
của các tổ chức này đến hệ thống chính trị: Đảng và Nhà nước. Đó có thể
là các loại hoạt động khác nhau như tư vấn, giám định, phản biện xã
hội...
0 comments:
Post a Comment