Tuesday, August 13, 2013

Chế định chủ tịch nước ở việt nam qua các bản hiến pháp

1. Mô hình nguyên thủ quốc gia ở Việt Nam qua các bản Hiến pháp trước đây (1946, 1959, 1980).

Từ khi Cách mạng tháng Tám thành công với sự ra đời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vào ngày 2/9/1945, nước ta đã là một nước cộng hòa mang chính thể cộng hòa xã hội chủ nghĩa. Từ đó cho đến nay, Bộ máy Nhà nước nói chung và chế định nguyên thủ quốc gia nói riêng cũng được tổ chức theo mô hình đó. Nguyên thủ quốc gia ở nước ta là chủ tịch nước. Tuy nhiên qua các thời kì khác nhau, chế định nguyên thủ quốc gia cũng được tổ chức khác nhau. Điều này được thể hiện cụ thể qua các bản Hiến pháp. Trong phần này, chúng tôi sẽ sơ lược đôi nét về chế định nguyên thủ quốc gia qua các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp 1946, 1959 và hiến pháp 1980.

Đối với Hiến pháp 1946 :

Chưa có chương riêng về CTN . CTN do Nghị viện nhân dân bầu ra trong số các thành viên của NV (không quy định độ tuổi tối thiểu của CTN). Nhiệm kì 5 năm (Điều 45), độc lập với NV là 3 năm (Điều 24). CTN vừa đứng đầu Nhà nước, vừa đứng đầu chính phủ (Điều 44, Điều 49). Quyền hạn của CTN rất rộng lớn (Điều 49): Thay mặt cho Nhà nước, là tổng chỉ huy quân đội toàn quốc, có quyền chủ trì các phiên họp của Chính phủ, có quyền ban hành các sắc lệnh có giá trị như luật, có quyền phủ quyết tương đối (Điều 31), thảo luận và biểu quyết lại về sự bất tín nhiệm với Nội các (Điều 54).CTN không chịu một trách nhiệm nào trừ tội phản bội Tổ quốc (Điều 50). Như vậy, quyền hạn của Chủ tịch nước rất rộng lớn và khá giống với mô hình NTQG trong chính thể cộng hòa tổng thống và cộng hòa đại nghị.

Đối với Hiến pháp 1959 :

Chế định nguyên thủ quốc gia được quy định tại chương V. Nguyên thủ quốc gia do Quốc hội bầu nhưng không nhất thiết là đại biểu Quốc hội và phải từ 35 tuổi trở lên. Nhiệm kì bằng nhiệm kì Quốc hội là 4 năm. Nguyên thủ quốc gia là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại, CTN là khâu phối hợp giữa Quốc hộiChính phủ. Quyền hạn của CTN vẫn khá lớn : Căn cứ vào quyết định của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội mà công bố pháp luật, pháp lệnh; bổ nhiệm, bãi miễn Thủ tướng, phó Thủ tướng và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ; công bố lệnh đại xá và đặc xá ; tặng thưởng huân chương và danh hiệu vinh dự của Nhà nước; tuyên bố tình trạng chiến tranh;công bố lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố lệnh giới nghiêm (Điều 63). CTN căn cứ vào quyết định của Quốc hội hoặc của Ủy ban thường vụ Quốc hội mà phê chuẩn Hiệp ước kí với nước ngoài (Điều 64). Khi cần thiết được tham dự và chủ tọa các phiên họp của Hội đồng chính phủ (Điều 66). CTN cũng có quyền triệu tập và chủ tọa Hội nghị chính trị đặc biệt khi xét thấy cần thiết (Điều 67). CTN chịu trách nhiệm trước Quốc hội.

Đối với Hiến pháp 1980 :

Chế độ Nguyên thủ tập thể, là Hội đồng Nhà nước (HĐNN), quy định tại chương VII. Do QH bầu ra trong số các đại biểu của QH: Chủ tịch HĐNN, Phó chủ tịch HĐNN, tổng thư kí và các Ủy viên HĐNN. HĐNN cùng nhiệm kì với QH là 5 năm. HĐNN là chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại; là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của QH (Điều 98). Quyền hạn của HĐNN rất lớn (Điều 100): Công bố luật, ra pháp lệnh, giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh; đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ những Nghị quyết, nghị định, Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng trái Hiên pháp, Luật và pháp lệnh.

Trong thời gian QH không họp, cử và bãi miễn các Phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, Bộ trưởng…(Tuy nhiên không có quyền tham dự vào các phiên họp của Hội đồng bộ trưởng). HĐNN phê chuẩn hoặc bãi bỏ những hiệp ước quốc tế, trừ trường hợp xét thấy cần trình Quốc hội quyết định; có quyền quyết định đặc xá; trong thời gian Quốc hội không họp, tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược (nhưng phải trình Quốc hội phê chuẩn trong kì họp gần nhất của Quốc hội)… Như vậy, HĐNN vừa thực hiện chức năng của CTN (NTQG), vừa thực hiện chức năng của UBTVQH.

2. Mô hình nguyên thủ quốc gia theo Hiến pháp hiện hành (Hiến pháp 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001)

Chê định nguyên thủ quốc gia (CTN) được quy định tại Chương VII.

Về cơ chế lựa chọn, QH bầu ra trong số các đại biểu QH. CTN cùng nhiệm kì với QH là 5 năm.

Về vai trò, vị trí: Đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại; có mối quan hệ gắn bó mật thiết với các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, hỗ trợ, điều phối hoạt động với các cơ quan đó.

Về thẩm quyền của CTN,

Trong lĩnh vực hành pháp, CTN tham gia thành lập CP : đề nghị QH bầu, bổ nhiệm,miễn nhiệm thủ tướng CP; căn cứ vào Nghị quyết của QH bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; chấp thuận việc từ chức đối với các Phó thủ tướng, bộ trưởng, và các thành viên khác của CP. Trong thời gian QH không họp, theo đề nghị của Thủ tướng, CTN quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ.

Trong lĩnh vực lập pháp, CTN có quyền trình dự án luật ra QH, kiến nghị về luật thông qua việc kiến nghị ban hành luật mới hoặc sửa đổi, bổ sung luật hiện hành (Điều 71, Luật tổ chức QH 2001). CTN có quyền công bố Hiến pháp, luật và pháp lệnh (chậm nhất 15 ngày kể từ ngày QH thông qua). Đối với pháp lệnh, CTN có quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn 10 ngày, nếu pháp lệnh đó vẫn được Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà CTN vẫn không nhất trí thì CTN trình Quốc hội tại kì họp gần nhất.

Trong lĩnh vực tư pháp và giám sát, CTN giới thiệu để QH bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC. Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó chánh án, thẩm phán TANDTC, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên VKSNDTC. CTN có quyền quyết định đặc xá. CTN giám sát hoạt động của CP, Thủ tướng, Bộ trưởng, thành viên khác của CP; nghe báo cáo công tác của CP, Thủ tướng. Trong thời gian QH không họp, Chánh án TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC chịu trách nhiệm, báo cáo trước UBTVQH và CTN.

Một số quyền hạn khác: Có quyền tham dự các phiên họp của UBTVQH, hoặc CP (khi cần thiết-Điều105), CTN thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh; CTN căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội hoặc của UBTVQH, công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, công bố quyết định đại xá; căn cứ vào Nghị quyết của UBTVQH, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp UBTVQH không thể họp được, ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương; tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác; trình Quốc hội phê chuẩn điều ước đã trực tiếp ký; quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định; quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, cho thôi quốc tịch Việt Nam hoặc tước quốc tịch Việt Nam…

Nguồn : http://sinhvienluathn.com/diendan/re...-ban-hien-phap

Chế định nguyên thủ quốc gia là một chế định quan trọng trong thể chế chính trị. Nhưng mỗi nước nguyên thủ quốc gia có tên gọi, vị trí, chức năng khác nhau tuỳ thuộc vào thể chế chính trị và cách thức tổ chức nhà nước. Ngay ở trong một nước thể chế nguyên thủ quốc gia cũng có những thay đổi theo từng thời kỳ nhất định. . Để hiểu rõ vị trí, tính chất pháp lý, chức năng thẩm quyền của nguyên thủ quốc gia cần nghiên cứu chế định nguyên thủ quốc gia gắn liền với lịch sử Hiến pháp 1980Hiến pháp 1992.

1. Chế định nguyên thủ quốc gia trong Hiến pháp 1946.

Hiến pháp 1946 là Hiến pháp đầu tiên mở đầu lịch sử lập hiến Việt Nam được Hiến pháp 1946 ra đời đánh dấu sự thay đổi căn bản các thể chế chính trị ở Việt Nam sau Cách mạng Tháng tám năm 1945.


Hiến pháp 1946 gọi nguyên thủ quốc giaChủ tịch nước. Theo quy định của Hiến pháp 1946 do Nghị viện (Quốc hội) bầu ra và phải được 2/3 tổng số nghị viên bỏ phiếu thuận. Chỉ tịch nước được bầu trong 5 năm và có thể bầu lại. Nội dung này được thể hiện tại điều 45 - Hiến pháp 1946.

Chủ tịch nước được Hiến pháp 1946 ghi nhận quyền hạn rất lớn: Thay mặt cho nhà nước; giữ quyền tổng chỉ huy quân đội toàn quốc; chỉ định hoặc cách chức các tướng soái trong lục quân, hải quân, không quân; ký sắc lệnh bổ nhiệm thủ tướng, nhân viên nội các và nhân viên cao cấp thuộc các cơ quan Chính phủ; chủ tọa Hội đồng Chính phủ; ban bố các đạo luật đã được Nghị viện quyết nghị; thưởng huy chương và các bằng cấp danh dự; đặc xá; ký hiệp ước với các nước; phái đại biểu Việt Nam đến nước ngoài và tiếp nhận đại biểu ngoại giao của các nước; tuyên chiến hay đình chiến khi Nghị viện không họp được.

Vai trò của Chủ tịch nước thực sự là một tư tưởng mềm dẻo về sự phân công quyền lực. Tuy nhiên việc quy định này chỉ phù hợp trong điều kiện lúc đó.

2. Chế định nguyên thủ quốc gia trong Hiến pháp 1959.

Hiến pháp 1959 được Hiến pháp 1959 được coi là bản Hiến pháp của thời kỳ cách mạng mới, bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên ở nước ta.

Hiến pháp 1959 ghi nhận chế định nguyên thủ quốc gia tại chương V gồm 10 điều (từ điều 61 đến điều 70). Xét về hình thức, việc ghi nhận chế định nguyên thủ quốc gia thành một chương riêng trong Hiến pháp chứng tỏ Chủ tịch nướcChính phủ là hai chế định khác nhau, lúc này Chủ tịch nước không còn là người đứng đầu Chính phủ nữa mà chỉ là người thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại.

Tuy nhiên, trong Chủ tịch nước vẫn rất lớn như thống lĩnh các lực lượng vũ trang toàn quốc, giữ chức vụ chủ tịch Hội đồng quốc phòng (điều 65); Chủ tịch nước khi xét thấy có quyền tham dự và chủ toạ các phiên họp của Hội đồng chính phủ (điều 66); Chủ tịch nước khi xét thấy cần thiết thì triệu tập và chủ toạ hội nghị chính trị đặc biệt (điều 67).

Hiến pháp 1959 với mục đích đề cao vai trò của tập thể đã chuyển một số quyền hạn của Chủ tịch nước được ghi nhận tại Chủ tịch nước mang tính chất thủ tục như công bố luật, pháp lệnh, công bố các lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố lệnh giới nghiêm (điều 63). Nhìn chung, Hiếp pháp 1959 không quy định Chủ tịch nước có quyền giải quyết những vấn đề cụ thể mà Chủ tịch nước chỉ có quyền công bố các quyết định được thông qua bởi cơ quan khác.

Tại điều 62 Hiếp pháp 1959 quy định hiến pháp được xây dựng theo mô hình hiến pháp xã hội chủ nghĩa, thể hiện được bản chất nhà nước ta là nhà nước của nhân dân lao động, do dân lao động và vì nhân dân, quyền lực thuộc về nhân dân.

3. Chế định nguyên thủ quốc gia quy định trong Hiến pháp 1980.

Hiến pháp 1980 được Quốc hội khoá VI, kỳ họp thứ 7 thông qua đánh dấu một bước quan trọng đối với sự phát triển các thể chế nhà nước ở Việt Nam.

Hiến pháp 1980 đã “ sáp nhập “ chế định Ủy ban thường vụ Quốc hội và chế định Quốc hội thay mặt quốc hội giám sát hoạt động của Hội đồng bộ trưởng, toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.Tuy nhiên, Quốc hội và thẩm quyền của Chủ tịch đã thể hiện một số nhược điểm như giữa hai kỳ họp của Quốc hội thì quyền hạn của Hội đồng nhà nước rất lớn nhưng trong kỳ họp của Quốc hội thì quyền hạn của Hội đồng nhà nước hầu như không được thể hiện đồng thời làm nảy sinh vấn đề trùng lặp, chồng chéo liên quan đến quyền lập pháp của Quốc hội. Hơn nữa, trong khi giải quyết công việc nhà nước, mọi vấn đề đều phải đưa ra tập thể bàn bạc nên tiến trình giải quyết công việc chậm chạp, chế độ trách nhiệm lại không rõ ràng.

4. Chế định nguyên thủ quốc gia trong Hiến pháp 1992.

Hiến pháp 1992 được Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 11 thông qua là một bước phát triển quan trọng trong việc xây dựng Hiến pháp.

Dựa trên quan điểm phân biệt rành mạch giữa quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, Chủ tịch nước với vai trò to lớn vừa là nhân vật chính trị, vừa mang nhiều thuộc tính của cơ quan quản lý nhà nước.

Hiến pháp 1992, quyền hạn của Quốc hội ban hành.

Về trách nhiệm của Chủ tịch nước, Hiến pháp 1992 cũng quy định chặt chẽ hơn các Quốc hội (điều 102). Hiến pháp 1992 quy định cụ thể quyền ban hành văn bản của Chủ tịch nước, vấn đề này Quốc hội bầu ra trong số đại biểu Quốc hội và bị Quốc hội miễn nhiệm, bãi nhiệm.

Như vậy qua nghiên cứu chế định nguyên thủ quốc gia qua 4 bản hiến pháp, chúng ta đều nhận thấy dù hiến pháp nước ta qua các giai đoạn có những đặc điểm, tính chất và vị trí không giống bất kỳ một nguyên thủ quốc gia nào. Có sự đặc thù như vậy vì ở nước ta do cơ chế tổ chức quyền lực theo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Tài liệu tham khảo
1. Hiến pháp Việt Nam từ 1946 đến 2001- Luật gia Trần Mộng Lang

2. 55 năm xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân
3. Hiến pháp và luật tổ chức bộ máy - Học viện Hành chính Quốc gia

Nguyễn Hiếu Hạnh - Khoa QLNN - Trích Nội San Trường Chính trị năm 2006

I. LỜI MỞ ĐẦU

Trong hệ thống bộ máy nhà nước của các nước trên thế giới hiện nay hầu như đều có một thiết chế đặc biệt với tên gọi như: vua, hoàng đế, tổng thống, đoàn chủ tịch, hội đồng liên bang, hội đồng nhà nước, chủ tịch nước... Những cơ cấu này có vị trí khác nhau trong bộ máy nhà nước của từng nước gọi chung là nguyên thủ quốc gia. Ở Việt Nam từ cách mạng tháng tám năm 1945 nhân dân ta giành được chính quyền, nước ta đã có nguyên thủ quốc gia gọi là Chủ tịch nước (được quy định trong bản hiến pháp đầu tiên ( Hiến pháp 1946).

Trải qua sự phát triển của đất nước với sự ra đời của các bản pháp luật liên quan thì chế định Chủ tịch nước đã có nhiều đổi mới quan trọng về vị trí của Chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước, về mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước khác ở trung ương và về nhiệm vụ quyền hạn của Chủ tịch nước.

II. NỘI DUNG


1. Vị trí tính chất của Chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước theo pháp luật hiện hành.

Tại Hiến pháp năm 1946 Chủ tịch nước tuy không được định nghĩa song theo các quy định về thẩm quyền thì Chủ tịch nước là người vừa đứng đầu Nhà nước vừa đứng đầu Chính phủ.Tại bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1959, Chủ tịch nước được tổ chức thành một chế định độc lập với tính chất là người đứng đầu Nhà nước và không còn đồng thời là người đứng đầu Chính phủ nữa tuy nhiên chế định Chủ tịch nước vẫn nghiêng nhiều về Chính phủ. Hiến pháp 1980 xác lập chế độ Chủ tịch nước tâp thể không phân định rõ hoạt động tập thể của cơ quan thường trực Quốc hội và chức trách cá nhân trong việc thực hiện các hoạt động nhất là hoạt động đại diện nhà nước.

Theo Hiến pháp 1992 chế định Chủ tịch nước được xây dựng trên cơ sở tiếp thu những ưu điểm của hiến 1946 và Quốc hộiChủ tịch nước trong việc thực các chức năng nguyên thủ quốc gia trong thể chế Hội đồng Nhà nước. Đảm bảo sự phân công và phối hợp giữa các cơ cấu trong bộ máy nhà nước. Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối ngoại và đối nội (điều 101 Hiến pháp 1992). Sự hiện diện trở lại của thiết chế Chủ tịch nước cá nhân góp phần tăng cường tính phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc tực hiện quyền lực nhà nước trong thời kì đổi mới.

2. Mối quan hệ giữa chủ tịch nước và các cơ quan nhà nước khác theo pháp luật hiện hành.

a. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Khác hẳn với Hiến pháp 1980 Chủ tịch tập thể của nước ta là Hội đồng nhà nước ( sự kết hợp giữa Chủ tịch nước trong Hiến 1959 và Uỷ ban thường vụ Quốc hội ) Hiến pháp 1992 quy định Chủ tịch nước là một chế định độc lập

Trong mối quan hệ với Quốc hội Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung 2001 và Luật tổ chức Quốc hội năm 2001 có những quy định cơ bản sau:


  1. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu (trong số đại biểu Quốc hội do Uỷ ban thường vụ Quốc hội giới thiệu ) miễn nhiệm và bãi nhiệm (khoản 7 điều 84 Hiến pháp 1992). Nhiệm kì của Chủ tịch nước được quy định theo nhiệm kì của Quốc hội. Điều này đảm bảo sự gắn bó và tính chịu trách nhiệm của Chủ tịch nước trước Quốc hội.
  2. Quốc hội quy định tổ chức và hoạt động của Chủ tịch nước (khoản 6 điều 84 Hiến pháp 1992).
  3. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội (điều 102 Hiến pháp 1992).
  4. Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước trái với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội (khoản 9 điều 84 Hiến pháp 1992).
  5. Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch nước phải trả lời trước Quốc hội tại kì họp; trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc tại kì họp sau của Quốc hội hoặc cho trả lời băng văn bản (điều 98 Hiến pháp 1992)
  6. Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Uỷ ban thường vụ Quốc hội triệu tập kì họp bất thường của Quốc hội
  7. Trong mối quan hệ với Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hiến pháp quy định Chủ tịch nước có quyền tham dự phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Quy định nay nhằm mục đích tạo điều kiện để Chủ tịch nước theo sát được ý kiến của tập thể Uỷ ban thường Quốc hội khi thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước đồng thời để Chủ tịch nước có thể đóng góp kịp thời ý kiến của mình (điều 105 Hiến pháp 1992).
  8. Pháp lệnh , nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội phải đươc công bố trậm nhất là mười lăm ngày kể từ ngày được thông qua (điều 93).

Tuy nhiên Chủ tịch nước có quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày kể từ ngày pháp lệnh được thông qua (khoản 7 điều 103 Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001).

Nếu pháp lệnh đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kì họp gần nhất.

b. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nướcchính phủ.

Mối quan hệ này được Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 và Luật tổ chức Chính phủ sửa đổi bổ sung 2001 quy định như sau:



c. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với toà án nhân dân tối cao.

Theo hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 và Luật tổ chức toà án nhân dân 2002 có những quy định sau:


  • Chánh án toà án nhân dân tối cao do Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm.
  • Phó chánh án và thẩm phán toà án nhân dân tối cao, chánh án , phó chánh án, thẩm phán toà quân sự trung ương do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Trước đây, theo quy định của Luật tổ chức toà án nhân dân cũ, Chủ tịch nước còn bổ nhiệm cả chánh án, phó chánh án và thẩm phán toà án các cấp. Nay Luật tổ chức toá án nhân dân năm 2002 đã bãi bỏ điểm này, giao về cho Chánh án tào án nhân dân tối cao thực hiện.
  • Trong thời gian Quốc hội không họp thì Chánh án Toà án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
  • Chánh án Toà án nhân dân tối cao trình ý kiến của mình về trường hợp người bị kết án tử hình xin ân giảm.

d. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Theo Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001và Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân 2002 có những quy định sau:


  • Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao.
  • Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân tối cao.
  • Trong thời gian Quốc hội không họp, Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
  • Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao trình Chủ tịch nước ý kiến của mình về những trường hợp người bị kết án tử hình xin ân giảm.
  • Qua các quy định trên của Hiến pháp và các luật tổ chức Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân,Viện kiểm sát nhân dân có thể rút ra một số nhận xét về tính chất, vị trí của Chủ tịch nước và mối quan hệ của Chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước khác.
  • Trong tổ chức các bộ máy nhà nước theo thuyết phân quyền thường Tổng thống đứng đầu hệ thống cơ quan hành pháp và có vị trí ngang với Quốc hội nhiều khi còn cao hơn cả Quốc hội.
  • Song ở nước ta chế định Chủ tịch nước theo các hiến pháp năm 1946, 1959,thể chế Hội đồng Nhà nước với Chủ tịch Hội đồng nhà nước theo Hiến pháp 1980 đến Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1992 có sự khác biệt không giống với chế định nguyên thủ quốc gia nào trên thế giới.
  • Ở nước ta Nghị viện theo Quốc hội theo các bản Hiến pháp tiếp sau luôn luôn là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất và Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước.
  • Quyền lực nhà nước luôn luôn tập trung thống nhất vào Quốc hội, có sự phân công phân nhiệm theo 4 chức năng lập pháp, hành pháp, xét xử, kiểm sát.
  • Quốc hội trực tiếp thực hiện chức năng lập pháp và phân công chức năng hành pháp cho Chính phủ, chức năng xét xử cho Tòa án nhân dân, chức năng kiểm sát cho Viên kiểm sát nhân dân.
  • Quốc hội bầu ra những người đứng đầu các cơ quan này, giám sát hoạt động của họ, khi cần thì miễn nhiệm, bãi nhiệm. Như vậy về nguyên tắc, Quốc hội nắm cả các chức năng lập pháp, hành pháp, xét xử, kiểm sát tyệt đối không có vấn đề phân quyền.
  • Theo pháp luật hiện hành Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước cũng do pháp luật quy định.


3. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước theo pháp luật hiện hành.

a. Nhóm các nhiệm vụ quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt nước về đối ngoại:

  • Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam, tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài.
  • Tiến hành đàm phán, kí kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Viêt Nam với người đứng đầu nhà nước khác.
  • Trình Quốc hội phê chuẩn hoặc gia nhập điều ước quốc tế trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định.Ở đây tuỳ mức độ quan trọng của điều ước hoặc theo quy định về điều ước mà quyết định Chủ tịch nước hay Quốc hội phê chuẩn.
  • Quyết định cho nhập, thôi hoặc tước quốc tịch Việt Nam.
  • Thống lĩnh các lực lượng vũ trong nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch hội đồng quốc phòng và an ninh.
  • Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội công bố tình trạng chiến tranh, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc từng địa phương, trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không họp được thì ban bố tình trạng khẩn cấp.
  • Quyết định phong hàm cấp sĩ quan cao cấp trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm cấp ngoại giao và những hàm cấp nhà nước khác.
  • Quyết định tặng thưởng huân, huy trương và các danh hiệu vinh dự nhà nước khác.
  • Công bố quyết định đại xá và ra quyết định đặc xá. Đại xá là việc tha miễn truy tố đố với một số loại tội phạm nhân một dịp long trọng nào đó. Đại xá do Quốc hội quyết định,Chủ tịch nước công bố. Còn đặc xá là việc Chủ tịch nước tha tù hoặc miễn hình phạt tù còn lại đối với những phạm nhân có hoàn cảnh đặc biệt như ốm đau nặng, già cả, có công lao lớn hoặc có hoàn cảnh gia đình khó khăn…

b. Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc phối hợp các thiết chế quyền lực nhà nước trong các lĩnh vực lập pháp, tư pháp, hành pháp.

Trong lĩnh vực lập pháp Chủ tịch nước có quyền:

  • Trình dự án luật ra trước Quốc hội, kiến nghị về luật thông qua việc kiến nghị ban hành luật mới hoặc sửa đổi bổ sung luật hiện hành ( điều 62 Luật tổ chức Quốc hội ).
  • Công bố hiến pháp, luât và pháp lệnh. Việc công bố các văn này là một phần của quá trình lập pháp. Đối với Hiến pháp, luật do Quốc hội thông qua thì Chủ tịch nước công bố để thực hiện.
  • Thời gian công bố trậm nhất là mười lăm ngày kể từ ngày thông qua ( điều 50 Luât ban hành văn bản quy phạm Quốc hội sửa đổi năm 2001). Văn bản có hiệu lực kể từ khi công bố hoặc theo quy định tại văn bản. Đối với pháp lệnh do Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua thì Chủ tịch nước công bố trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày được thông qua. Chủ tịch nước có quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày. Nếu pháp lệnh đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không đồng ý thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kì họp gần nhất.
  • Trong trường hợp này thời hạn công công bố chậm nhất là mười ngày kể từ ngày được Uỷ ban thường vụ pháp luật ).
  • Có một điểm ta cần chú ý ở vấn đề này đó là :
    • Hiến pháp 1946 dùng từ “ban bố” còn Hiến pháp 1959, 1980,1992 dùng từ “công bố”.”
    • Ban bố” đươc hiểu là điều kiện bắt buộc phải có để một văn bản đã được thông qua có hiệu lực pháp luật.
    • Còn “công bố” chỉ có ý nghĩa là để nhân dân biết, còn văn bản có hiệu lực pháp luật từ ngày được thông báo nếu văn bản không quy định khác.Như vậy là quyền hạn của chủ tịch nước 1992 đã hẹp hơn so với Hiến pháp 1946 để phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của giai đoạn cách mạng mới.
  • Ta cần xét thêm một điều nữa đó là việc quy định cho Chủ tịch nước có quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh đã được thông qua có vẻ như quyền phủ quyết của một số nguyên thủ quốc gia trên thế giới.
  • Tuy nhiên về bản chất thì không hẳn như vậy. Quyền phủ quyết thường nảy sinh trong cơ chế nhà nước có sự đối trọng (phân quyền) còn ở nước ta giữa Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc và Chủ tịch nước là thống nhất không có sự đối trọng do vậy không có sự phủ quyết lẫn nhau ở đây.
  • Thực chất vấn đề là ở chỗ, do Hiến pháp quy định cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội được ban hành một loại văn bản - pháp lệnh mang tính chất luật lẽ ra phải do Quốc hội ban hành dưới hình thức luật nên cần phải cẩn trọng. Sự tham gia của Chủ tịch nước nhằm phối hợp giải quyết các vấn đề quan trọng đó một cách chính xác.
  • Một vấn đề nữa lại phát sinh, tại khoản 1 điều 103 của Hiến pháp ghi rõ ba văn bản phải do Chủ tịch nước công bố: Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Như vậy một văn bản quan trọng khác của Quốc hội đó là nghị quyết của Quốc hội thì Hiến pháp lại không quy định do Chủ tịch nước công bố tuy nhiên điều 91 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001 lại quy định là do Chủ tịch nước công bố. Về nguyên tắc luật không đuợc trái với Hiến pháp. Chúng ta có thể hiểu rằng đoạn 2 của điều 91 Luật tổ chức Quốc hội đã bổ sung cho điều 103 của Hiến pháp. Tuy nhiên Hiến pháp cần ghi rõ cả điểm này để tạo sự thống nhất.

Trong lĩnh vực hành pháp:

  • Chủ tịch nước tham gia thành lập chính phủ, giám sát hoạt động của chính phủ, Thủ tướng chính phủ, các bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, nghe báo cáo công tác của chính phủ, Thủ tướng chính phủ.Miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, bộ trưởng và các thành viên khác của chính phủ căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội (khoản 4 điều 103 Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ xung năm 2001).
  • Ban bố tình trạng khẩn cấp khi Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp.Trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ tướng, bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan ngang bộ theo đề nghị của Thủ tướng (điều 20 Luât tổ chức Chính phủ năm2001).
  • Trước đây, Hiến pháp quy định cho Chủ tịch nước thẩm quyền lớn đối với hai vấn đề (thuộc lĩnh vực hành pháp) được Hiến pháp quy định cho Uỷ ban thưòng vụ Quốc hội giải quyết trong thời gian Quốc hội không họp là:
    • Phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, bộ truởng, các thành viên khác của Chính phủ và quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nuớc nhà bị xâm lược thì Chủ tịch nước có quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại các nghị quyết về vấn đề đó (trong thời hạn mười ngày );
    • Nếu nghị quyết đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kì họp gần nhất (khoản 7 điều 103).
    • Nay nghị quyết sửa đổi bổ sung một số điều của Quốc hội về phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng về bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Chính phủ cũng như quyền quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược (Uỷ ban thường vụ Quốc hội chỉ thực hiện quyền này khi Quốc hội không thể họp và sau đó phải đưa ra Quốc hội xem xét, quyết định tại kì họp gần nhất), do đó Chủ tịch nước không còn thưc hiện quyền này nữa.

Trong lĩnh vực tư pháp và giám sát :

  • Chủ tịch nước giới thiệu để Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm, Chánh án toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao; bổ nhiệm Phó chánh án và thẩm phán toà án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó chánh án, Thẩm phán toà quân sự trung ương, Phó viện trưởng và kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trước đây theo quy định của Luật tổ chức toà án nhân dân cũ, Chủ tịch nước còn bổ nhiệm cả chánh án, phó chánh án và thẩm phán toà án nhân dân các cấp. Nay Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 đã bãi bỏ điểm này, giao về cho Chánh án toà án nhân dân tối cao thực hiện
  • Chủ tịch nước xem xét và quyết định việc ân xá (giảm án tử hình).
  • Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyêt định để đảm bảo việc thưc hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

c. Hội đồng quốc phòng và an ninh:

  • Với tư cách là người đứng đầu nhà nước, Chủ tịch nước là biểu tượng cho sự thống nhất bền vững của quốc gia, thống lĩnh các lực lượng vũ trang giữ gìn và bảo vệ tổ quốc.
  • Để thực hiện chức năng này, Chủ tịch nước có Hội đồng an ninh quốc gia và Chủ tịch nước là người đứng đầu Hội đồng.
  • Hiến pháp 1992 quy định thành lập Hội đồng quốc phòng và an ninh thuộc Chủ tịch nước do Chủ tịch nước là Chủ tịch hội đồng. Hội đồng có Phó chủ tịch và các uỷ viên do Chủ tịch nước đề nghị danh sách thành viên trình Quốc hội phê chuẩn. Thành viên hội đồng không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội. Hội đồng quốc phòng an ninh động viên mọi lực lượng và khả năng của nước nhà để bảo vệ tổ quốc.Trong điều kiện hoà bình hoạt động của Hội đồng quốc phòng an ninh không nổi bật thậm chí không hoạt động chỉ khi chiến tranh hoặc tình trạng khẩn cấp thì Hội đồng đươc trao nhiêu quyền hạn đặc biệt.

III. KẾT LUẬN

Trong bối cảnh đất nước đang có nhưng đổi mới sâu sắc, tình hình thế giới có nhiều biến động lớn. Chế định Chủ tịch nước theo pháp luật hiện hành đã có nhiều thay đổi trên cơ sở kế thừa sáng tạo những mô hình trước đây để phù hợp với tình hình thực tế, thể hiện được quan điểm cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng đề ra.

Sự đổi mới đó quán triệt nguyên tắc: quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công phối hợp. Và vấn đề đặt ra là cần có sự nghiên cứu một cách toàn diện, đi từng bước vững chắc, vừa làm vừa làm vừa rút kinh ngiệm sao cho thể chế Chủ tịch nước ngày càng phát huy được vị trí, chức năng quan trọng của mình trong bộ máy nhà nước và đời sống xã hội. Qua đó phát huy được sức mạnh góp phần làm cho đất nước phát triển.  

0 comments:

Post a Comment

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | LunarPages Coupon Code