GS. Yu Insun, Đại học Quốc gia Seoul
Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt nam học lần thứ ba,
tháng 12/2008, tr. 323 - 344
1. Lời nói đầu
Lịch sử Việt Nam trong giai đoạn hai
nghìn năm trước cận đại không thể lí giải chính xác nếu không gắn với
quan hệ về mặt chính trị với Trung Quốc. Chúng ta có thể hiểu về điều
này một cách dễ dàng từ quan hệ hai nước được trình bày dưới đây.
Từ cuối thế kỷ thứ II trước Công nguyên
đến nửa đầu thế kỷ thứ X sau CN, Việt Nam chịu sự thống trị trực tiếp
của Trung Quốc trong một nghìn năm cho đến khi giành được độc lập. Một
nghìn năm này trong lịch sử Việt Nam thường được gọi là “thời kì Bắc thuộc”.
Từ sau khi thoát khỏi ách thống trị của Trung Quốc giành độc lập vào
nửa đầu thế kỷ thứ X đến trước khi rơi vào ách thống trị của thực dân
Pháp vào nửa sau thế kỷ XIX, trong một nghìn năm, Việt Nam đã thiết lập
quan hệ triều cống dưới hình thái nước phiên thuộc của Trung Quốc, vừa
duy trì quan hệ thân thiện về chính trị vừa đồng thời tiếp nhận văn hóa
Trung Quốc trong “trật tự thế giới kiểu Trung Hoa”, theo cách nói của người Trung Quốc. Chúng ta có thể gọi giai đoạn này là “giai đoạn quan hệ triều cống”.
Tất nhiên, ở giai đoạn này, Việt Nam đã bị Trung Quốc xâm lược nhiều
lần, nhưng ngay sau khi đẩy lùi các cuộc xâm lược này, triều đình Việt
Nam đã gửi ngay sứ giả sang Trung Quốc nhằm nỗ lực khôi phục quan hệ
hữu hảo và tránh xung đột.
Nội dung nghiên cứu này lấy trọng tâm là “giai đoạn quan hệ triều cống” mà
Việt Nam triều cống Trung Quốc, đặc biệt là dưới triều Nguyễn
(1802-1945) được lập nên đầu thế kỷ XIX, nhằm xem xét quan hệ của Việt
Nam với Trung Quốc trên quan điểm của Việt Nam.
Thực tế, nhiều nước phương Tây được biết
rằng, quan hệ quốc tế của Đông Á giai đoạn trước cận đại, trước khi
tiến lên chủ nghĩa đế quốc, tồn tại trật tự quốc tế được thiết lập bởi
quan hệ triều cống giữa Trung Quốc và các nước xung quanh, lấy Trung
Quốc làm trung tâm. Quan hệ triều cống, không cần nói cũng có thể thấy,
được hình thành trên nền tảng ưu việt về chính trị, văn hóa của Trung
Quốc. Các nước xung quanh công nhận tính ưu việt này của Trung Quốc và
bằng việc đáp ứng những yêu cầu của Trung Quốc đã tạo nên trật tự thế
giới truyền thống lấy Trung Quốc làm trung tâm.
Tuy nhiên, có một vấn đề mà chúng ta
không thể bỏ qua, đó là, trật tự thế giới kiểu Trung Hoa, trên phương
diện nào đó, chẳng qua chỉ là tư tưởng đơn phương của người Trung Quốc,
lấy bản thân mình là trung tâm. Vì để điều đó trở thành “sự thật chính trị mang tính khách quan”
thì các nước triều cống phải có cùng suy nghĩ với người Trung Quốc,
nhưng trên thực tế lại không như vậy.1 Người Trung Quốc nói rằng, do họ
có nền văn hóa ưu việt và sản vật phong phú nên các nước nhỏ xung quanh
đã phải tự đến chầu. Nhận định này không phải là không có lí, nhưng trên
thực tế điều này có quan hệ mật thiết hơn với sức mạnh quân sự của
Trung Quốc.2 Có thể nói rằng, nếu Trung Quốc yếu đi thì thể chế triều
cống đã khó có thể duy trì. Trong trường hợp đó, cái gọi là trật tự thế
giới kiểu Trung Hoa chỉ là hư cấu. Xin dẫn ra một ví dụ: trong cuộc
chiến Thanh – Pháp năm 1884 – 1885 và cuộc chiến Thanh – Nhật năm 1894,
triều đình nhà Thanh bại trận đã phải kí hiệp ước với Pháp và Nhật, biến
Việt Nam thành nước bảo hộ của Pháp và công nhận nền độc lập hoàn toàn
của Triều Tiên. Mặc dầu vậy, trong Đại Thanh hội điển, bản năm
1899, ghi lại rằng hai nước vẫn là nước triều cống của nhà Thanh3, cho
thấy rõ ràng tính hư cấu của trật tự thế giới kiểu Trung Hoa nói trên.
Như vậy, để lí giải tính chất của trật
tự thế giới Đông Á giai đoạn trước cận đại, việc khảo sát quan hệ triều
cống của Việt Nam đối với Trung Quốc trên thực tế như thế nào, theo tôi,
là điều hết sức cần thiết. Thực tế, các vị vua nhà Nguyễn Việt Nam
chính thức công nhận mình là nước triều cống của nhà Thanh, xưng là hạ
thần, còn ở trong nước thì tự xưng là hoàng đế. Có lúc đi xa hơn, họ coi
nhà Thanh là vương triều dị tộc, thậm chí chỉ trích tính di địch của
chế độ ấy. Không những thế còn mô phỏng tư tưởng thiên hạ kiểu Trung
Quốc, về mặt đối ngoại, với tư cách là nước bá chủ, thống trị các nước
nhỏ xung quanh, hình thành nên trật tự thế giới của riêng mình.
Ngay cả với thực tế như vậy, song do có
rất nhiều nghiên cứu từ trước đến nay lấy Trung Quốc làm trung tâm,4 nên
có không ít khuynh hướng lí giải không đúng về nước bá chủ và nước
thuộc địa nói đến trong chế độ triều cống, rằng mối quan hệ này tương tự
như quan hệ của nước bá chủ thực dân và nước thuộc địa thực dân trong
thời hiện đại. Nội dung nghiên cứu này đề cập đến vấn đề quan hệ triều
cống giữa Việt Nam và Trung Quốc thế kỷ XIX, nhưng tôi tin rằng cũng sẽ
có ích trong việc lí giải đúng đắn về quan hệ chính trị giữa Hàn Quốc và
Trung Quốc ở cùng thời đại với bối cảnh tương đồng.
2. Sự tiếp nhận thể chế triều cống nhà Thanh của triều đình nhà Nguyễn
Lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX bắt đầu bằng
việc Nguyễn Phúc Ánh dập tắt phong trào Tây Sơn, phong trào nông dân có
quy mô lớn nhất trong lịch sử Việt Nam, năm 1802, lập nên triều Nguyễn.
Chỉ đến khi ấy, Việt Nam mới là đất nước có lãnh thổ như chúng ta thấy
ngày hôm nay.
Sau khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê
(1428 – 1789) năm 1527 rồi bị đánh đuổi bởi thế lực phù Lê năm 1592,
Việt Nam bước ngay vào thời kỳ Nam – Bắc phân tranh của hai nhà họ Trịnh
và họ Nguyễn, vốn là hai thế lực lớn của phong trào phù Lê. Tấm màn Nam
– Bắc phân tranh này được kéo xuống bởi ba anh em họ Nguyễn, những
người đã gây dựng phong trào nông dân ở Tây Sơn, một vùng đất ở Nam
trung bộ Việt Nam năm 1771. Người của nhà Nguyễn còn sống sót ở Phú Xuân
(nay là Huế), sau vụ thảm sát bởi phong trào nông dân lúc bấy giờ, là
Nguyễn Phúc Ánh đã chạy đến vùng Mê Kông lánh nạn và đã bền bỉ xây dựng
lực lượng trong suốt hai mươi năm gian khổ. Đến tháng 6 năm 1801, cuối
cùng, ông cũng đánh chiếm được thành Phú Xuân là cố đô của tổ tiên.
Tháng 6 năm sau ông tiến ra Bắc, chỉ trong vòng một tháng, đến ngày 20
tháng 7, đã hoàn thành việc thống nhất đất nước bằng việc chiếm thành
Thăng Long.
Trước khi ra Bắc, tháng 5 năm 1802,
Nguyễn Phúc Ánh đã lên ngôi vua ở Phú Xuân, lấy niên hiệu là Gia Long.5
Gia Long là chỉ từ Gia Định (vùng đất bao gồm thành phố Hồ Chí Minh
hiện nay và khu vực lân cận) đến Thăng Long, mang ý nghĩa là toàn bộ
Việt Nam.6 Việc lấy niên hiệu này cho thấy ý chí quyết tâm thống nhất
đất nước từ trước đó của ông.
Một mặt xưng đế, lập niên hiệu, mặt khác
vào tháng 5, Nguyễn Phúc Ánh đã cử Trịnh Hoài Đức làm chánh sứ sang
Quảng Đông để cầu nhà Thanh giúp đỡ trong vấn đề Tây Sơn còn chưa giải
quyết xong. Khi ấy, Trịnh Hoài Đức đã mang theo quốc thư của Nguyễn Phúc
Ánh và vật phẩm, bao gồm cả sắc thư và kim ấn được nhận từ triều Thanh
mà Nguyễn Văn Toản của triều đình Tây Sơn bỏ lại khi rút lui, đồng thời
giải theo ba hải tặc của nhà Thanh bị bắt làm tù binh. Họ đặt chân đến
Quảng Đông vào tháng 7.7 Đây là lần tiếp xúc chính thức đầu tiên giữa
triều Nguyễn và triều Thanh.
Nội dung quốc thư gửi lúc bấy giờ được dịch ra tiếng Pháp. Theo nội dung này, Nguyễn Phúc Ánh tự xưng là “Nam Việt quốc vương” (roi du royaume de Nam-Viet).8 Suzuki Chusei cho rằng, dịch là “vương”
là sai và có lẽ trong nguyên văn được viết là Nam Việt quốc chúa hay
Nam Việt quốc trưởng.9 Vì khi ấy Nguyễn Phúc Ánh chưa chính thức được
nhà Thanh sắc phong nên chưa thể xưng là vương, nên tôi nghĩ rằng nhận
định của Suzuki Chusei có lí.
Một vấn đề nữa là về quốc hiệu Nam Việt.
Việc gọi là Nam Việt bao quát cả vương triều mới An Nam (là cách gọi
Việt Nam của Trung Quốc, nói đến khu vực chịu ảnh hưởng của họ Trịnh lúc
bấy giờ) và Việt Thường (là lãnh thổ của nhà Nguyễn, bao gồm từ phía
Bắc của Huế hiện nay kéo dài tới vùng Nam Bộ) có từ ý nghĩa sẽ thống trị
khu vực rộng lớn hơn nhiều so với nhà Trần (1225 – 1400) hay nhà Lê
trước đó.10
Thế nhưng, khi Trịnh Hoài Đức đến Quảng
Đông, triều đình nhà Thanh không đề cập đến vấn đề quốc hiệu,11 chỉ cho
biết rằng họ Nguyễn chưa thống nhất đất nước, cũng không thuộc nước
phiên thuộc nên không thể nhận cống vật. Vì vậy, Nguyễn Phúc Ánh lại cử
Nguyễn Quang Định với tư cách là sứ cầu phong xin nhà Thanh phong quốc
hiệu là Nam Việt và phong vương cho mình. Đối với triều đình nhà Thanh,
việc sắc phong không thành vấn đề, nhưng tuyệt đối không thể chấp nhận
được tên nước Nam Việt. Lí do là, Nam Việt trùng với tên Nam Việt mà
Triệu Đà dựng nước trước đó (B.C. 207~B.C.111), ngầm hiểu là khu vực bao
gồm tỉnh Quảng Đông đến tỉnh Quảng Tây nên mang nghĩa không lành. Sau
khi bàn bạc, nhà Thanh đổi chỗ hai chữ và đề nghị tên Việt Nam. Bằng
việc này, nhà Thanh muốn thể hiện uy quyền là nước bá chủ. Phía nhà
Nguyễn hài lòng với cái tên này vì chữ “Việt” của Việt Thường là đất của tổ tiên truyền lại đứng trước, chữ “Nam” đứng sau nên chấp thuận. Vấn đề quốc hiệu đã được giải quyết xong.12
Vấn đề quốc hiệu được giải quyết cũng là lúc quan hệ hữu hảo giữa hai nước được chính thức hóa. Theo Đại Nam thực lục thì từ khi đó (năm 1803), “Lễ bang giao”
đã được hình thành.13 Triều đình nhà Thanh ngay lập tức đã cử sứ giả đi
tuyên phong. Nguyễn Phúc Ánh đã tiến hành nghi thức tuyên phong tại Hà
Nội ngày nay vào tháng 1 năm 1804 và lên ngôi “Việt Nam quốc vương”.14
Mặc dù thủ đô của triều Nguyễn khi đó là Huế nhưng việc sắc phong được
tiến hành ở Hà Nội, sau này trở thành thông lệ. Đến thời vua Tự Đức
(1848-1883), theo thỉnh cầu của vua Tự Đức, nghi lễ sắc phong được nhà
Thanh chấp nhận cho cử hành tại Huế.
Quan hệ giữa triều đình nhà Nguyễn và triều Thanh được giải quyết ổn thỏa, “bang giao”
được quy định rằng: Việt Nam phải triều cống hai năm một lần, 4 năm
phải cử sứ giả sang chầu một lần hoặc gộp hai lần triều cồng làm
một. Điều này cũng giống như đối với triều Tây Sơn.15 Tất nhiên, ngoài
sứ thần chính quy, các sứ giả lâm thời phụ trách việc chúc mừng, cầu
phong, tạ ân, điếu vấn, v.v… cũng được cử sang. Nhà Thanh đã yêu cầu nhà
Nguyễn cử sứ thần và bắt đầu triều cống từ năm 1803. Theo yêu cầu của
nhà Thanh, năm 1803 và 1805, sứ tạ ân được thay thế bằng sứ triều
cống năm 1804. Nhà Nguyễn đã theo đó mà làm.16 Song có lúc sứ triều
cống kiêm luôn sứ tạ ân, khi số lượng sứ giả lâm thời không nhiều do có
khi nhà Thanh yêu cầu ngừng cử sứ chúc mừng và sứ điếu vấn. Cho đến năm
1839, năm cuối đời Minh Mạng (1820-1840), do triều cống được quy định
thành bốn năm một lần giống như đối với Lưu Cầu và Xiêm La nên con số
này càng giảm. Mặt khác, đối với các vật phẩm triều cống, triều Thanh đã
cắt giảm rất nhiều cho vương triều Tây Sơn và nhà Nguyễn so với nhà Lê,
chỉ bằng nửa giá trị trước đây, nên giá trị vật chất của triều cống
càng trở nên mờ nhạt.17
Số lượng sứ giả và giá trị vật phẩm
triều cống của nhà Nguyễn với nhà Thanh đã giảm so với thời kì đầu, song
quan hệ triều cống bình thường giữa hai nước không thay đổi. Nhưng khi
vụ loạn Thái Bình thiên quốc nổ ra (1851-1864), nhà Thanh đã yêu cầu
ngừng triều cống và trong vòng mười sáu năm sau đó không có sứ giả nào
được cử đi.18 Cụ thể, quan hệ triều cống tạm ngừng sau khi nhà Nguyễn cử
sứ giả sang theo quy định vào năm 1852, năm ngay sau vụ loạn xảy ra,
đến năm 1868 thì được nối lại.19 Từ sau đó, nhà Nguyễn cử sứ thần sang
nhà Thanh bốn lần vào các năm 1870, 1872, 1876 và 1880.20 Sau này, vào
năm 1883, giữa lúc nội cung Huế có biến, Hiệp Hòa (7~11/1883) định cử sứ
giả sang nhà Thanh cầu phong để củng cố địa vị của mình. Vấn đề là,
vùng Đông Kinh lúc bấy giờ bị quân đội Pháp chiếm giữ nên đã không thể
sử dụng đường bộ như trước đây. Vì vậy, Hiệp Hòa đã thỉnh cầu nhà Thanh
cho đi bằng đường biển và được chấp thuận. Song ngay sau đó ông đã bị
quyền thần là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường hạ độc nên không thực
hiện được.21 Sứ giả cuối cùng của nhà Nguyễn sang nhà Thanh là sứ giả
sang xin sắc phong cho Kiến Phúc (1883-1884), ngay sau đời vua Hiệp
Hòa.22 Tuy nhiên, Kiến Phúc cũng không được sắc phong vì chỉ sau khoảng
nửa năm trên ngôi vị đã chết vì bệnh tật. Kết cục, quan hệ triều cống
giữa nhà Nguyễn và nhà Thanh được tiến hành liên tục trong tám mươi năm,
từ năm 1803, đã chấm dứt khi Việt Nam hoàn toàn trở thành thuộc địa của
thực dân Pháp theo hiệp ước Pa-tơ-nốt (còn gọi là hiệp ước Huế lần thứ
hai hoặc hiệp ước Giáp Thân) ký vào năm 1884.
Vậy, tại sao vua nhà Nguyễn lại công
nhận quyền lực của hoàng đế nhà Thanh, tự xưng là hạ thần và duy trì
quan hệ triều cống?23 Như tôi đã trình bày ở trên, vì người Trung Quốc
cho rằng họ có nền văn hóa ưu việt và sản vật phong phú. Thế nhưng, đứng
trên lập trường của Việt Nam thì nhận định này không có căn cứ. Đương
nhiên không thể phủ nhận hoàn toàn về mặt văn hóa.
Các vị vua trong đó có vua Gia Long và
cả tầng lớp trí thức, đều thích Nho học, nghĩ rằng Trung Quốc là ngọn
nguồn của tri thức. Xin đơn cử một dẫn chứng. Vua Gia Long vào buổi chầu
sáng thường bàn luận với các quan trong triều về sự tích quân thần đời
Hán, Đường và chế độ các triều đại. Sau buổi chầu thì cho xem Minh sử và
bàn luận đến khuya.24 Còn việc vua Minh Mạng chú trọng đến việc Nho học
hơn bất cứ vị vua nào của nhà Nguyễn thì ai cũng biết.25 Sau đời vua
Minh Mạng, vua Thiệu Trị (1841-1847) cũng coi trọng Nho học và văn sĩ,
thậm chí còn tự ra đề thi khoa cử. Cho nên, một trong những nhiệm vụ
quan trọng sứ thần khi đi sang nhà Thanh là mang về các thư tịch Trung
Quốc, nhất là thư tịch mới phát hành. Điều này có thể thấy qua chỉ dụ
của vua Minh Mạng đối với sứ giả đi sứ nhà Thanh năm 1829. Ông yêu cầu
tìm mua cổ thi, cổ họa và cổ nhân kỳ thư. Đồng thời, nếu có thể tìm được
thực lục của nhà Thanh thì dù chỉ là bản thảo cũng bằng mọi giá phải
mua về.26
Việc mua thư tịch Trung Quốc không phải
chỉ để làm giàu vốn tri thức. Những thư tịch này còn là tài liệu tham
khảo quan trọng của triều đình nhà Nguyễn để xây dựng các chế độ pháp
luật hay chế độ chính trị, v.v…. Xin lấy một ví dụ. Vua Gia Long đã biên
soạn và ban hành bộ luật Quốc triều luật lệ, được biết đến nhiều hơn với cái tên Hoàng Việt luật lệ vào năm 1815. Bộ luật này tuy nói là tham khảo Hồng Đức luật lệ và Đại Thanh điều luật27 nhưng trên thực tế trừ một phần rất nhỏ, nội dung hầu như nguyên mẫu của Đại Thanh luật.
Về mặt văn hóa, nhiệm vụ chính khác của
sứ thần đi sứ nhà Thanh là truyền bá nước mình là một nước văn hóa. Vì
vậy khi tuyển chọn sứ thần đi sứ nhà Thanh, nhà Nguyễn đề cao tài ngoại
giao cũng như tri thức về văn hóa. Chúng ta có thể thấy điều này qua một
sắc lệnh mà vua Minh Mạng ban năm 1840.28 Theo vua Minh Mạng, sứ thần
đi sứ nhà Thanh phải là người giỏi văn học và ngôn ngữ, nếu là người kém
cỏi thì chỉ chuốc lấy sự khinh miệt của nước khác. Bởi vì, những người
này không chỉ phải đối đáp thơ văn một cách bình đẳng với các quan lại
nhà Thanh mà họ còn phải thi thố văn chương với các sứ thần đến từ Triều
Tiên.29 Việc cân nhắc tài văn chương của sứ giả đi sứ Trung Quốc không
chỉ ở triều Nguyễn mà các triều đại trước đây cũng thế.30
Mặt khác, các vua nhà Nguyễn cũng lo
lắng không biết sứ giả được cử đi sứ nhà Thanh có làm xấu thể diện quốc
gia hay không. Năm 1809 và 1817, khi sứ thần đi sứ nhà Thanh chuẩn bị
đi, đích thân vua Gia Long đã vời các sứ thần vào và ra nghiêm lệnh
rằng, các ngươi phải giữ gìn quốc thể và làm sao cho mối bang giao được vững chắc.
Việc chú trọng đến sứ giả bang giao, theo nhận định của Takeda Ryoji,
không phải xuất phát từ lòng tôn kính đối với nhà Thanh mà là để không
bị chuốc lấy sự ghét bỏ hay khinh miệt của nhà Thanh.31 Những điều sau
đây sẽ cho thấy, vua nhà Nguyễn có xu hướng không những không kính trọng
nhà Thanh, mà ngược lại còn coi nhà Thanh là di địch.
Nhà Nguyễn đã tự coi mình là nước văn
hóa nên nếu nhà Thanh không đối đãi tương xứng thì nhà Nguyễn thể hiện
thái độ bất mãn. Năm 1840, Bộ Lễ báo cáo với nhà vua về việc sứ thần đi
sứ nhà Thanh năm trước đã bị nhà Thanh xếp hàng sau sứ thần các nước Cao
Ly (Triều Tiên), Nam Chưởng (Lào), Xiêm La (Xiêm), Lưu Cầu và hỏi rằng
phải đối ứng thế nào. Vua Minh Mạng trả lời rằng, việc này do sơ
suất của bộ Lễ nhà Thanh, Cao Ly là nước văn hiến thì đã đành, Nam
Chưởng là nước triều cống của chúng ta, Xiêm La và Lưu Cầu là nước Di
địch nên không thể như vậy được. Ông nói thêm rằng, sau này còn có chuyện như vậy, các ngươi hãy ra khỏi hàng, thà bị trách phạt còn đỡ hơn.
32 Bởi thế, tôi cho rằng, với vua Minh Mạng, hơn bất cứ vị vua nào của
Việt Nam tin rằng Việt Nam là đất nước văn minh thì không có sự sỉ nhục
nào lớn hơn thế. Không biết nguyên do vì đâu mà bộ Lễ nhà Thanh đã xếp
sứ giả nhà Nguyễn thấp hơn so với Nam Chưởng, nhưng đúng như lời vua
Minh Mạng đây rõ ràng là sự nhầm lẫn. Vì theo danh sách các nước phụ
thuộc trong Thanh sử cảo, thứ tự các nước được ghi là Triều
Tiên, Lưu Cầu, Việt Nam, Miến Điện (Mianma), Xiêm La, Nam Chưởng, v.v…
Một sự thật rất thú vị ở đây là, trong Ngoại quốc truyện của Minh sử,
thứ tự các nước là Triều Tiên, An Nam (Việt Nam), Nhật Bản, Lưu Cầu, Lã
Tống (Phi-lip-pin), v.v… , An Nam được đặt trước Lưu Cầu nhưng nhà
Thanh lại đặt Việt Nam sau Lưu Cầu. Điều này khiến tôi nghĩ rằng, quan
hệ giữa nhà Thanh và triều đình nhà Nguyễn không gần gũi như chúng ta
tưởng.
Điều mà chúng ta phải chú ý ở đây là,
phương diện văn hóa nói trên chỉ là một phần của lí do khiến triều đình
nhà Nguyễn tiếp nhận thể chế triều cống của nhà Thanh. Lí do quan trọng
hơn là nhà Nguyễn muốn duy trì sự an toàn của vương triều bằng cách
tránh đối đầu về mặt quân sự và xây dựng quan hệ thân thiện với nhà
Thanh. Theo giáo sư Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội khoa học lịch sử Việt Nam,
Việt Nam đã mười lăm lần bị ngoại quốc xâm lược.33 Trong số 11 lần bị
ngoại xâm tính cho đến trước thế kỷ XIX thì trừ lần bị Xiêm xâm lược năm
1785, mười lần còn lại đều là các cuộc chiến tranh với Trung Quốc. Vì
nhà Nguyễn chưa từng bị nhà Thanh xâm lược lần nào, trong khi trước khi
lập vương triều đã mười lần Trung Quốc xâm lược Việt Nam, không những
thế, trước khi nhà Nguyễn được lập nên khoảng mười năm, năm 1788, nhà
Thanh đã xâm lược Việt Nam, nên tôi cho rằng đây là mối lo không nhỏ đối
với các vua nhà Nguyễn. Việc Nguyễn Phúc Ánh cử Trịnh Hoài Đức đi sứ
trước khi tấn công Hà Nội đã nói lên điều này. Nó xuất phát từ ý đồ ngăn
chặn sự can thiệp của nhà Thanh bằng việc thể hiện rõ ràng sẽ triều
cống nhà Thanh. Tuy nhiên trên thực tế, nhà Thanh lúc bấy giờ đã bước
vào thời kỳ suy thoái nên sau vụ loạn Bạch Liên giáo (1796-1805), v.v…
đã không còn sức để can thiệp vào Việt Nam. Đây là lí do khiến triều
cống của Nguyễn Phúc Ánh cũng như việc sắc phong ông là Việt Nam quốc
vương dễ dàng được chấp thuận.
Vì triều Nguyễn nghĩ rằng nhà Thanh là
sự tồn tại mang tính uy hiếp nên các đời vua quan tâm đến tình hình nhà
Thanh là điều đương nhiên. Do đó, đã thành thông lệ, khi các sứ thần đi
sứ Thanh về nhà vua thường vời ngay vào và hỏi về tình hình nhà Thanh.
Tháng 12 năm 1818, ngay khi các sứ thần đi sứ nhà Thanh về, vua Gia Long
đã hỏi về tình hình nước Thanh.34 Không cần nói cũng biết vua hỏi để
xem những biến động chính trị, xã hội của nhà Thanh có ảnh hưởng đến
Việt Nam hay không.
Hơn ai hết, vua Minh Mạng là người luôn
quan tâm sâu sắc đến tình hình nhà Thanh và luôn cố gắng để có được
những thông tin ấy. Ông đã yêu cầu sứ thần đi sứ nhà Thanh viết Sứ trình nhật ký và
phải viết chi tiết những điều mắt thấy tai nghe ở Trung Quốc. Tháng 4
năm 1832, vua Minh Mạng khiển trách ba sứ giả được cử đi đã ghi lại hết
sức đại khái về tình hình nhà Thanh không như ý đồ của ông. Ông ra lệnh,
sau này các sứ giả phải ghi lại chính xác tình hình nhà nước và dân
tình nhà Thanh còn những địa danh, v.v… đã biết thì không cần phải ghi
lại.35 Theo Đại Nam thực lục, khi thấy những thông tin mà các
sứ thần đi sứ nhà Thanh mang về chưa đủ, tháng 10 cùng năm, ông yêu cầu
các quan lại ở Hà Nội mua “kinh sao” (công báo của nhà Thanh) từ các
thương nhân nhà Thanh và dâng lên.36 Lúc ấy, trong “kinh sao” không ghi
lại vụ tuyết lớn ở Nam Kinh hồi tháng 1 năm đó khiến dân chúng chết cóng
nhưng Minh Mạng đã nghe được tin đó và hạ lệnh phải ghi lại ngay, cho
thấy ông chú trọng đến việc thu thập tin tức nhà Thanh đến mức nào. Tóm
lại, việc triều cống nhà Thanh của triều Nguyễn ngoài việc giảm nhẹ sự
uy hiếp của nhà Thanh bằng việc kết thân với nhà Thanh, còn có ý đồ đề
phòng sự uy hiếp có thể xảy ra sau này.
Một lí do quan trọng khác mà các đời vua
nhà Nguyễn muốn duy trì quan hệ triều cống là muốn xác lập quyền uy về
mặt đối nội từ việc được sắc phong bởi vua nhà Thanh. Vì Việt Nam chịu
ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc rất lâu nên các đời vua đều nghĩ rằng
việc được vua Trung Quốc sắc phong là điều đương nhiên, do đó Nguyễn
Phúc Ánh không thể không trọng thị thông lệ đó. Thực ra, việc được sắc
phong từ vua Trung Quốc hay không có ảnh hưởng tuyệt đối đến tính hợp
pháp và quyền lực của vua Việt Nam. Việc vội vàng sắc phong trước khi
thống nhất đất nước của Nguyễn Phúc Ánh ngoài việc muốn loại trừ sự can
thiệp của nhà Thanh còn có cả ở lí do trên.
Việc được vua Trung Quốc sắc phong có ý
nghĩa quan trọng đến mức nào sẽ được thấy qua các ví dụ sau đây. Sau khi
cướp ngôi nhà Lê năm 1527, Mạc Đăng Dung được nhà Minh thừa nhận và
chính quyền đó đã duy trì quyền lực trong một thời gian. Sau này dù bị
thế lực phù Lê đánh đuổi khỏi Thăng Long năm 1592, Mạc Đăng Dung lập căn
cứ ở vùng giáp Trung Quốc là Cao Bằng, được nhà Minh, sau đó là nhà
Thanh bảo hộ, tuy chỉ là chính quyền địa phương nhưng đã duy trì được
vương quyền nhà Mạc đến năm 1677. Điều này có thể thấy qua việc chính
quyền Hồ Quý Ly (1400~1407), do không được nhà Minh công nhận đã sụp đổ
nhanh chóng. Mặt khác, khi nhà Mạc cướp ngôi, thế lực muốn khôi phục
triều đình họ Lê đã cử sứ giả sang nhà Minh tố cáo sự sai trái của chính
quyền nhà Mạc và cầu quân thảo phạt.37 Điều này thực ra xuất phát từ ý
đồ xác lập chính quyền hợp pháp của mình về mặt đối nội.
Việc vua Hiệp Hòa của triều Nguyễn định
xin nhà Thanh sắc phong nhằm củng cố địa vị của mình như đã được đề cập
đến ở trên. Lúc bấy giờ, ông đang rơi vào thế ngàn cân treo sợi tóc. Sau
đời vua Tự Đức là đời vua Dục Đức (1883), nhưng vua Dục Đức bị phế chỉ
trong ba ngày kể từ khi lên ngôi bởi Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn
Tường. Vua Hiệp Hòa được họ lập lên nhưng quyền điều hành lại nằm trong
tay của hai người này, còn vua, đã không hề có quyền lực lại còn nằm
trong tình trạng có thể bị phế bất cứ lúc nào. Trước tình hình ấy, ông
muốn được nhà Thanh sắc phong. Vì Việt Nam được công nhận là quốc gia
độc lập hoàn toàn theo điều 2 của hiệp ước Sài Gòn lần thứ hai (tên khác
là hiệp ước Giáp Tuất) được kí giữa triều Nguyễn và Pháp năm 1874,38
nên việc ông cử sứ giả cầu phong bị coi là vi phạm hiệp ước. Dù vậy,
việc vẫn cử sứ giả cầu phong cho thấy rõ ràng sắc phong có ý nghĩa tượng
trưng quan trọng nhường nào.
Mục đích kinh tế cũng là một nguyên nhân
quan trọng khiến triều Nguyễn tiếp nhận thể chế triều cống của nhà
Thanh. Trong bối cảnh lúc bấy giờ, khi mà hoạt động mậu dịch tự do tư
nhân nhà Thanh và nhà Nguyễn bị hạn chế không như ngày nay thì chế độ
triều cống đã đóng vai trò quan trọng với tư cách là mậu dịch cấp nhà
nước thông qua việc qua lại của các sứ thần. Nhà Thanh dù sao cũng cho
phép thương nhân của nhà Thanh tham gia vào hoạt động mậu dịch với Việt
Nam một cách hạn chế nhưng tuyệt đối không cho phép các thương nhân Việt
Nam được sang Trung Quốc. Nhà Nguyễn thì khác với nhà Thanh, ngay từ
đầu, triều đình đã cấm dân chúng xuất cảnh vì mục đích cá nhân. Lệnh cấm
nghiêm khắc đầu tiên được ban ra có cái tên Luật cấm vận đường bộ và đường thủy vào
năm 1816 dưới thời vua Gia Long.39 Sở dĩ có lệnh cấm này là do các vật
phẩm cấm xuất khẩu như gạo, muối, vàng, bạc, đồng, sừng trâu, ngà voi,
v.v… “chảy” sang Trung Quốc thông qua con đường buôn lậu. Nhà Thanh cũng
nghiêm cấm xuất thép, chì, lưu huỳnh, v.v… Trước tình hình này, triều
đình nhà Nguyễn không còn cách nào khác phải mua vật phẩm thông qua các
sứ thần.
Trước khi các sứ thần chuẩn bị đi sứ,
nhà Nguyễn đưa cho danh mục các vật phẩm được vua nhà Thanh ban hoặc các
mặt hàng phải mua, và các sứ thần chỉ được phép tuân theo. Một trong
những thứ quan trọng trong số các mặt hàng mua từ nhà Thanh là thư tịch
đã đề cập ở phần trên. Ngoài ra còn có nhân sâm, dược liệu, trà Tàu,
giấy, v.v…. Các sứ thần nếu không mua đầy đủ các mặt hàng triều đình yêu
cầu khi về nước sẽ bị xử phạt. Điều này có thể thấy qua việc các sứ
thần đi sứ nhà Thanh năm 1830 là Nguyễn Trọng Vũ, Nguyễn Đình Tân, Đặng
Văn Khải bị cách chức.40 Trước khi đi, họ được lệnh của vua Minh Mạng
xin với Bộ Lễ của nhà Thanh rằng, nước chúng tôi ít nhân sâm nên thay cho các vật phẩm vua ban trước đây bằng nhân sâm Quan Đông,
đồng thời phải mua thương bích, hoàng tông, hoàng khuê, thanh khuê (các
vật phẩm bằng ngọc). Thế nhưng họ làm mất thể diện quốc gia vì nói rằng
cần nhân sâm vào việc hiếu dưỡng. Thêm vào đó, tất cả các vật phẩm bằng
ngọc họ phải mua đều là thủy tinh. Đó là những lí do khiến họ bị xử
phạt. Việc mua nguyên vật liệu không chỉ diễn ra khi sứ thần đi sứ theo
định kỳ mà tất nhiên khi sứ giả lâm thời đi sứ cũng vậy. Tháng 12 năm
1847, khi cử sứ thần sang thông báo cho nhà Thanh việc hoàng đế Thiệu
Trị qua đời, vua mới lên ngôi là Tự Đức đã đưa danh sách các vật phẩm
phải mua như các đồ dùng bằng ngọc, đồ chơi, đồ cổ, đồ sành sứ và các đồ
quý hiếm khác. Thế nhưng, một viên quan giám sát đã tâu với vua rằng,
vua mới lên ngôi nên cần phải giản dị, hơn nữa sứ thần đi sứ để báo việc
tang nên không thể mua xa xỉ phẩm. Vì vậy, việc này đã bị đình lại.41
Có một vấn đề cần đề cập đến ở đây, đó
là mậu dịch cấp nhà nước thông qua các sứ thần đi sứ nhà Thanh không
phải xuất phát từ lí do Trung Quốc “đất rộng, sản vật nhiều”
như suy nghĩ của người Trung Quốc. Theo vua Minh Mạng, hàng hóa được làm
ra từ các nơi khác nhau, việc đổi chác các đồ vật mình có lấy đồ vật
mình không có từ cổ chí kim là điều đương nhiên.42 Như vậy vua Minh Mạng
chỉ coi rằng, nếu hàng hóa có ở Trung Quốc mà không có ở Việt Nam hoặc
ngược lại, không có ở Trung Quốc mà có ở Việt Nam thì có thể trao đổi
những hàng hóa này cho nhau.
Mọi vật phẩm mà các sứ thần mua về từ
nước Thanh được cất giữ tại cơ quan phụ trách việc tiêu dùng và chi trả
của hoàng thất. Việc cất giữ này không chỉ để hoàng thất sử dụng. Nhà
vua còn dùng những vật quý hiếm này để ban thưởng hoặc tặng quà cho các
quan lại, các sứ thần đi sứ nhà Thanh, đôi khi, còn được dùng để bổ sung
cho nguồn tài chính địa phương. Xét cho cùng, các vật phẩm này được các
đời vua sử dụng như một phương tiện nâng cao quyền lực của mình.43
Tóm lại, triều đình nhà Nguyễn tiếp nhận
thể chế triều cống của nhà Thanh chỉ có lợi. Nhà Thanh coi trọng quan
hệ quân thần nhưng đối với nhà Nguyễn, điều đó chỉ mang ý nghĩa hình
thức. Các vua nhà Nguyễn về mặt đối nội xưng là vua, lấy niên hiệu, sau
đó như chúng ta thấy, đối với các nước láng giềng khác coi mình là nước
bá chủ, coi các nước đó là nước thuộc địa, lập ra trật tự thế giới riêng
của mình. Xét cho cùng, Việt Nam không phải là nước thuộc địa của nhà
Thanh mà là một quốc gia độc lập.
3. Đường lối độc lập tự chủ của nhà Nguyễn
Ở trên, chúng ta đã thấy các vua nhà
Nguyễn tiếp nhận thể chế triều cống của nhà Thanh vì các lí do về mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa, v.v… Dù là lí do gì thì trong trường hợp
này, triều Nguyễn với tư cách là nước thuộc địa, những người đứng đầu
nhà nước phải xưng là hạ thần đối với vua nhà Thanh. Tuy nhiên, đó chỉ
là hình thức bên ngoài, còn thực chất họ nghĩ rằng mình bình đẳng với
nhà Thanh.
Các vua nhà Nguyễn và tầng lớp trí thức
tôn trọng văn hóa Trung Quốc và cố gắng để mô phỏng những điều đó, nhưng
đối với triều Thanh hay người nước Thanh thì không hề có sự tôn trọng
của kẻ dưới chút nào. Đó là lí do khiến nhà Nguyễn gọi nhà Thanh là Bắc
triều hay Thanh quốc, gọi người nước Thanh là Bắc nhân hoặc Thanh nhân.
Ngoài ra, có nhiều khi nhà Nguyễn gọi người Trung Quốc là Đường nhân.
Tôi cho rằng, phải chăng đó là vì thái độ miệt thị do nhà Thanh được lập
nên bởi dân tộc khác với dân tộc của người Trung Quốc. Chính vì vậy,
người Việt Nam tuyệt nhiên không biết đến khái niệm “thiên hạ” hay “thiên tử” kiểu Trung Quốc.44 Mặt khác, vua Gia Long gọi Việt Nam là “Trung Quốc” và áp dụng khái niệm người Trung Quốc truyền thống với nước mình.45
Trong quan hệ với nhà Thanh, triều
Nguyễn chính thức sử dụng thuật ngữ “triều cống”, nhưng về mặt đối nội,
như tôi đã đề cập đến ở trên, gọi đó là “bang giao”, dùng chữ “như” (如- trong trường hợp này nghĩa là “đi”) trong từ sứ giả đi sứ nước Thanh gọi là “như Thanh sứ”.
Bang giao chỉ có nghĩa là quan hệ ngoại giao thuần túy giữa nước này và
nước khác, không tồn tại quan niệm trên dưới. Không chỉ đối với quan hệ
của mình với nhà Thanh, nhà Nguyễn cũng nhìn quan hệ giữa các triều đại
Việt Nam trước đây với Trung Quốc là “bang giao”. Điều này có thể thấy trong Bang giao lục do
Lê Thống biên soạn năm 1819.46 Sách này tập hợp bắt đầu từ chiếu thư
Hán Vũ đế gửi cho Triệu Đà của Nam Việt đến các loại công văn giữa hai
nước, tất nhiên cả thơ văn mà các sứ thần hai nước tặng đáp nhau đến năm
1826.
Thuật ngữ “bang giao” được bắt
đầu sử dụng lần đầu tiên vào thời Tây Sơn, đến triều Nguyễn thì hoàn
toàn thông dụng. Nhưng tôi cho rằng, việc Lê Thống nhìn quan hệ giữa tất
cả các vương triều trước đây với Trung Quốc bằng khái niệm bang giao là
chính xác. Bởi vì, các đời vua trước đây kể từ khi Đinh Bộ Lĩnh lập nên
triều Đinh (966-980) năm 966, tuy được hoàng đế Trung Quốc sắc phong
nhưng trong nước đều xưng là hoàng đế và đều sử dụng niên hiệu riêng
giống như trường hợp của triều đình nhà Nguyễn.47 Ngay cả việc lấy quốc
hiệu cũng không cần sự công nhận của hoàng đế Trung Quốc. Không những
thế, khi cử sứ thần sang Trung Quốc cũng dùng chữ “như” (如 -đi), gọi là như Tống, như Nguyên, như Minh, còn chữ “cống” (貢) thì trong Đại Việt sử ký toàn thư tuyệt nhiên không tìm thấy bất cứ một chữ nào.48 Nếu có từ “nhập cống”
(入貢) thì chỉ được dùng trong trường hợp các nước xung quanh Việt Nam
như Cham-pa hay Chân Lạp (Cam-pu-chia ngày nay), v.v… cử sứ giả sang
Việt Nam.
Tất cả các vị vua và quan lại trước đây
đều nghĩ rằng mình bình đẳng với Trung Quốc và không hạ mình. Một nhân
vật tiêu biểu trong số đó là Lê Văn Hưu, sử gia nổi tiếng ở nửa sau thế
kỉ XIII. Khi quân Mông Cổ xâm lược, ông biên soạn Đại Việt sử ký với
vấn đề trọng tâm là nền độc lập của triều đình Việt Nam và tính bình
đẳng với Trung Quốc. Ông đã lấy thời điểm bắt đầu lịch sử Việt Nam là
Nam Việt của Triệu Đà để viết sử ký. Bởi sau khi thống nhất Trung Hoa,
Hán Cao tổ định cử sứ thần sắc phong ngôi vua cho Triệu Đà, Triệu Đà đã
cho thấy thái độ bình đẳng bằng câu hỏi “Ta và Hán Cao tổ, ai anh minh hơn?”49.
Đồng thời, theo sử gia Lê Văn Hưu, sau khoảng một nghìn năm bị Trung
Quốc chi phối, Việt Nam bước vào thời kì độc lập, song không phải từ khi
Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán năm 938 rồi tự xưng vương vào năm sau
đó, mà là năm 996, sau khi Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn mười hai sứ quân, thống
nhất đất nước và lên ngôi vua. Bởi theo ông, Ngô Quyền đã tự xưng vương
nên không thể coi đó là nền độc lập thực sự.50
Một ví dụ khác, thường được lấy để minh
chứng cho thấy sự bình đẳng của Việt Nam đối với Trung Quốc trong giai
đoạn trước cận đại, là “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi viết
năm 1427.51 Bài cáo này phân biệt Việt Nam là Nam và Trung Quốc là Bắc
và nhấn mạnh rằng, giống như Trung Quốc lập đế quốc ở phía bắc, Việt Nam
trước đây cũng lập quốc ở phía nam do nhà vua cai trị. Có thể nói ngắn
gọn rằng, Việt Nam là một quốc gia riêng biệt, bình đẳng với Trung Quốc.
Năm Tự Đức thứ 2 (1849), Nguyễn Đăng
Khải, một quan lớn của triều lúc bấy giờ, đã dâng sớ lên nhà vua yêu cầu
cải thiện quan hệ triều cống với nhà Thanh. Bức sớ có nội dung: Việc
nhà vua đi đến Hà Nội để được nhà Thanh sắc phong làm tốn nhiều tiền
bạc của dân chúng vào việc đi lại của nhà vua và có liên quan đến thể
diện quốc gia nên về sau mong rằng sứ thần nhà Thanh sẽ đến kinh sư
(Huế) để làm việc đó.52 Điều này có nghĩa là, dù được sắc phong
cũng sẽ ngồi một chỗ để nhận. Có thể nói, kiến nghị của Nguyễn Đăng Khải
liên quan mật thiết với không khí bình đẳng của người Việt Nam được đề
cập ở trên.
Vì Nguyễn Đăng Khải là kẻ dưới nên có
thể thẳng thừng bày tỏ sự bất mãn của mình về quan hệ triều cống bất
bình đẳng với nhà Thanh, nhưng đứng trên lập trường của các vị vua thì
không thể có sao nói vậy. Nói như vậy, không có nghĩa các vị vua này
tiếp nhận thể chế triều cống nhà Thanh và chịu ngồi yên. Điều này có thể
thấy qua việc Nguyễn Phúc Ánh không hề hỏi ý kiến nhà Thanh trong việc
lấy tước vị hoàng đế và niên hiệu. Tuy nhiên, việc xin nhà Thanh công
nhận quốc hiệu là để tránh cái tên An Nam xuất phát từ An Nam đô hộ phủ
của nhà Đường đến thời điểm đó. Nhưng nhà Thanh không chấp thuận tên Nam
Việt mà nhà Nguyễn yêu cầu, còn nhà Nguyễn vì quan hệ hữu hảo giữa hai
nước mà chấp thuận quốc hiệu Việt Nam song có vẻ không thoải mái cho
lắm. Bởi đến năm 1812, nhà Nguyễn không thông báo cho nhà Thanh mà lại
sửa lại quốc hiệu thành Đại Việt.53
Lúc ấy, cái tên Đại Việt được viết trong Quốc sử di biên với từ “lại”, có lẽ là có liên quan đến việc Nguyễn Phúc Chu là tổ tiên của Nguyễn Phúc Ánh, năm 1709 đã cho đúc ấn “Đại Việt quốc Nguyễn chúa Vĩnh Trấn chi bảo”.54 Vốn dĩ Đại Việt là tên Đại Cồ Việt do Đinh Bộ Lĩnh đặt, về sau Thánh Tông của triều Lý năm 1054 bỏ chữ “Cồ”,
chỉ còn là Đại Việt, và trở thành quốc hiệu của các triều đại sau này.
Tên này là tên tự đặt không được Trung Quốc công nhận, do vậy, người
Trung Quốc gọi Việt Nam là An Nam.
Đến đời vua Minh Mạng ngay sau đời vua
Gia Long, năm 1838, lại đặt tên nước là Đại Nam và quyết định áp dụng từ
năm sau đó.55 Lí do là lãnh thổ của triều đình kéo dài tới Nam Hải,
hình thành nên đại đế quốc nên phải có tên mới phù hợp hơn. Đồng thời,
ông nói rằng, có nhiều tiền lệ lấy quốc hiệu bằng tên đẹp, ví dụ như trường hợp nước Thanh vốn là Mãn Châu sau được đổi thành Đại Thanh.
Cách giải thích của ông hết sức logic. Tôi cho rằng, thực ra việc nhà
Thanh mà ông không ưa chút nào gọi bằng cái tên Đại Thanh đã gây tác
động đến ông và ông đặt tên nước Đại Nam từ tâm lý đối kháng. Năm sau,
ông cho làm ấn “Đại Nam thiên tử chi tỉ” bằng ngọc giống như ấn
ngọc của vua Trung Quốc và tất nhiên nó được sử dụng vào tất cả các văn
bản trong nước, cả các văn bản ngoại giao với nước ngoài khác (trừ nhà
Thanh).56 Còn vua Thiệu Trị thì cho làm ấn “Đại Nam hoàng đế chi tỉ” và ra lệnh dùng trong chiếu lệnh.57
Với việc vua Minh Mạng lấy quốc hiệu
mới, sau này tất cả các sách được biên soạn theo lệnh vua đều cho vào
hai chữ Đại Nam. Ví dụ như Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam hội điển sự lệ, v.v… Dù
biết nhà Nguyễn sử dụng quốc hiệu Đại Nam thay cho quốc hiệu Việt Nam
mà mình cho phép nhưng nhà Thanh làm ngơ, không can thiệp.58 Có khả năng
lớn là do triều đình nhà Thanh bại trận trong cuộc chiến tranh Nha
phiến và vụ thương thuyền Arrow hoặc do những vấn đề nội bộ như vụ loạn
Thái Bình thiên quốc nên không rảnh rang để can thiệp đến Việt Nam. Việc
sứ giả không qua lại giữa hai nước trong vòng mười sáu năm loạn Thái
Bình thiên quốc là minh chứng cho điều này.
Có lẽ cho dù không phải là do vấn đề đối
nội, đối ngoại thì nhà Thanh cũng đã không can dự vào việc của nhà
Nguyễn. Không biết có phải do suy thoái nhanh chóng từ cuối thế kỷ XVIII
ngay trước khi triều Nguyễn được dựng lên hay không mà nhà Thanh không
trọng thị Việt Nam bằng Lưu Cầu như nhà Minh nên thứ tự các nước thuộc
địa trong Thanh sử cảo mới như vậy. Thực tế này, có thể thấy
qua sứ giả tuyên phong được cử đến hai nước, sứ được gửi đến Lưu Cầu là
quan triều đình trung ương, còn sứ được cử đến nhà Nguyễn đều là quan
địa phương, án sát sứ của tỉnh Quảng Tây.59 Việc nhà Thanh giao vấn đề
nhà Nguyễn cho quan địa phương đã làm cho quan hệ hai nước trở nên xa
cách.
Quan hệ xa cách giữa hai nước khiến nhà
Thanh không hiểu biết về tình hình Việt Nam. Một ví dụ tiêu biểu là
trong giai đoạn chiến tranh Nha phiến, người Trung Quốc truyền nhau tin
đồn rằng, năm 1808, Việt Nam đã đại thắng trong cuộc chiến với nước Anh,
một cuộc chiến không hề xảy ra. Người Trung Quốc tin chắc vào tin đồn
này, không chỉ coi nhẹ quân đội Anh mà còn bàn luận một cách nghiêm
trọng rằng nên nhập và dùng quân hạm Việt Nam để đối kháng với hải quân
Anh.60 Cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Anh được làm sáng tỏ là không
xảy ra, nhưng dù sao, việc không hiểu biết về tình hình Việt Nam và
không can thiệp vào Việt Nam của nhà Thanh cũng đã giúp nhà Nguyễn đẩy
mạnh tính độc lập tự chủ và ý thức bình đẳng vốn có với nhà Thanh.
Như tôi đã trình bày ở trên, vì người
Việt Nam tuy tiếp nhận văn hóa Trung Hoa nhưng cũng gây dựng được văn
hóa của dân tộc mình, nên họ nghĩ rằng không những bình đẳng đối với dị
tộc chi phối đại lục Trung Quốc mà thậm chí nền văn hóa của mình còn ưu
việt hơn. Việc nhà Nguyễn còn gọi người Trung Quốc là Đường nhân có thể
thấy là cách gọi miệt thị người nhà Thanh. Những ví dụ sau sẽ cho thấy
rõ người Việt Nam miệt thị người nhà Thanh như thế nào. Vua Hy Tông của
triều Lê (1675-1705), vua trước khi triều Nguyễn được lập nên, vào năm
1696 đã hạ lệnh, tất cả người Trung Quốc vào Việt Nam phải thay đổi từ
kiểu tóc, ăn mặc,… theo kiểu Việt Nam. Lí do là vì ngoại hình của họ
theo “phong tục Mãn Châu”, gây ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục của Việt Nam.61
Ý thức đối kháng cũng như thái độ phê
phán của triều Nguyễn với nhà Thanh còn ở mức độ cao hơn. Đến mức các
đời vua thường gọi dân chúng của mình là Hán nhân hoặc Hán dân. Họ coi
nhà Thanh là di địch và đương nhiên đồng nghĩa với việc chỉ có dân tộc
mình là dân tộc văn hóa. Đặc biệt, sự tự hào về văn hóa của vua Minh
Mạng rất lớn. Năm 1830, ông nói với các quan rằng, nếu theo Thanh hội điển thì
áo mão của quan lại trong triều đình đang theo phong tục man di, khác
với trang phục của cổ nhân, nên hạ lệnh không để chuyện bắt chước vô lối
đó xảy ra.62 Không những thế, trong văn thơ vua Minh Mạng cũng lấy lòng
tự hào để bình thơ của vua Càn Long. Năm 1835, trong khi bình thơ với
các quan, vua Minh Mạng nói về thơ của Càn Long rằng, thơ thì nhiều
nhưng chỉ tả cảnh, tả tình mà không chau chuốt lời thơ và gọi đó là một
khiếm khuyết.63 Dưới thể chế triều cống, việc vua của nước thuộc địa phê
phán chế độ Trung Quốc, phê bình thơ của vua là điều không thể tưởng
tượng nổi. Sở dĩ vua Minh Mạng có thái độ này là vì các đời vua nhà
Nguyễn đều coi thường chế độ, văn hóa nhà Thanh và tự coi chỉ có mình là
người kế thừa chân chính của văn hóa Trung Quốc.64
Sự coi thường nhà Thanh của các vua
triều Nguyễn có thể thấy có liên quan đến sự suy yếu toàn diện của nhà
Thanh. Tháng 4 năm 1840, vua Minh Mạng nói về triển vọng chiến tranh Nha
phiến như sau: Sự suy yếu của triều Thanh ta đã biết trước. Năm
ngoái, quân Anh đi lại rất lâu giữa các đảo ở vùng bờ biển Quảng Đông
nhưng ta không nghe thấy nhà Thanh có đối sách gì, hay cho bất cứ một
con tàu nào ra tấn công. Nếu quân Anh lại đến tấn công, nước Thanh sẽ
không chống đỡ nổi. Nhà Thanh sẽ luận tội Lâm Tắc Từ và đầu hàng quân
Anh.65 Dự đoán của Minh Mạng là chính xác, Lâm Tắc Từ bị cách chức,
người kế nhiệm được cử thay. Tôi tin rằng, vua Minh Mạng có thể dự đoán
được điều này nhờ có Sứ trình nhật ký được viết bởi các sứ thần đi sứ nhà Thanh và thông tin từ các nguồn khác.
Sự suy yếu của nhà Thanh đến thời vua Tự
Đức càng làm cho Việt Nam đẩy mạnh các hành động tự chủ. Không nói đâu
xa, ngay ở giai đoạn đầu khi Pháp xâm lược, vua Tự Đức đã không thỉnh
cầu bất cứ sự giúp đỡ nào của nhà Thanh. Như đã biết, năm 1858, Pháp bắt
đầu xâm lược Trung bộ Việt Nam, năm sau, năm 1859, chiếm tỉnh Gia Định ở
Nam Bộ, đến đầu năm 1862 thôn tính cả ba tỉnh miền Đông. Vua Tự Đức
không thông báo cho nhà Thanh, tự kí hiệp ước Sài Gòn lần thứ nhất với
Pháp (tên khác là hiệp ước Nhâm Tuất) nhượng ba tỉnh này. Pháp càng lấn
tới, đến năm 1867, chiếm luôn ba tỉnh miền tây, thực dân hóa toàn bộ
vùng đất Nam bộ. Quan hệ giữa nhà Nguyễn và nhà Thanh từ đầu những năm
50 của thế kỷ XIX đến thời điểm đó, không rõ có phải bởi các sứ giả
không qua lại do vụ loạn Thái bình thiên quốc hay không mà cả hai lần
Pháp xâm lược, vua Tự Đức đều không hề nghĩ đến việc cầu viện nhà Thanh.
Sự xâm lược của Pháp không dừng lại ở
đây. Với mục đích chiếm Bắc bộ, năm 1873, Pháp viện cớ vụ Jean Dupuis cử
Francis Garnier sang. Francis Garnier mang theo một số ít binh lính
đánh đổ Hà Nội, tiếp đó chiếm các đô thị chính của vùng Đông Kinh như
Hưng Yên, Hải Dương và Nam Định, chưa được bao lâu thì tử trận vì sa vào
trận địa mai phục. Lúc bấy giờ, do tình hình trong nước nên Pháp không
còn đủ lực để mở rộng chiến tranh, sau khi thỏa thuận với triều đình
Huế, đã kí hiệp ước Sài Gòn lần thứ hai nói trên. Lúc này, vua Tự Đức
đương nhiên cũng không có ý định cầu viện nhà Thanh và thậm chí không
thông báo cả nội dung điều ước này. Khác với thời điểm những năm 60 của
thế kỷ XIX, lúc bấy giờ, các sứ giả đã lại qua lại nhà Thanh. Tôi cho
rằng, thái độ này của nhà Nguyễn có thể có liên quan đến sự bất lực của
quân đội nhà Thanh trong việc tiêu diệt lực lượng còn lại của Thái Bình
thiên quốc.
Trước vụ Garnier, hai tướng còn sót lại
sau khi Thái Bình thiên quốc bị đàn áp là Ngô Côn và Hoàng Sùng Anh kéo
theo đồng đảng chạy trốn về phía bắc Đông Kinh, khi ấy nhà Nguyễn đã cầu
viện nhà Thanh. Nhưng quân thảo phạt của nhà Thanh không những không
trấn áp được bọn họ thậm chí còn làm hại cả nông dân địa phương. Nhà
Nguyễn đã phong quan cho Lưu Vĩnh Phúc là bộ hạ của Ngô Côn sau khi Ngô
Côn chết, xây dựng chiến lược nhằm tiêu diệt thế lực khác và đã thành
công. Qua việc này cho thấy, rõ ràng vua Tự Đức đã nhận thức được rằng,
không thể dựa vào nhà Thanh và quyết định tự giải quyết vấn đề. Có thể
nói rằng, đây là quyết định đương nhiên khi nhà Nguyễn chỉ công nhận thể
chế triều cống của nhà Thanh về mặt hình thức.
Trung Quốc bị chi phối bởi dị tộc là
triều Thanh. Khi nhà Nguyễn được sáng lập, quan hệ tự chủ đối với nhà
Thanh, do lòng tự hào về văn hóa của người Việt từ sự suy thoái nhanh
chóng của nhà Thanh mang lại, không chỉ dừng lại ở đây. Lòng tự hào này
đã có ảnh hưởng rất lớn trong việc tạo nên trật tự thế giới khu biệt với
các đế quốc xung quanh. Một học giả Nhật Bản gọi trật tự thế giới này
là thế giới quan được sản sinh từ “đế quốc Trung Hoa ở phương Nam”.66 Trật tự thế giới của nhà Nguyễn mô phỏng thể chế triều cống của Trung Quốc nên gọi là “đế quốc Trung Hoa ở phương Nam” là có lí, nhưng cách gọi này làm người ta liên tưởng đến cách thường gọi Việt Nam là “tiểu Trung Hoa” (Little China) đến đầu những năm 50 của thế kỷ XX nên cách gọi này không phù hợp. Vậy dùng thuật ngữ “Trật tự của đế quốc Đại Nam”
mà người viết đã sử dụng trước đây thì thế nào?67 Vì dù rằng, việc nhà
Nguyễn tiếp nhận chế độ và văn hóa Trung Quốc là thật đi chăng nữa thì
Việt Nam cũng là một quốc gia độc lập chứ không phải là một phần của
Trung Quốc. Việc vua Minh Mạng hay vua Thiệu Trị sử dụng ấn ngọc có khắc
chữ “Đại Nam” trong các văn tự ngoại giao với các nước láng giềng ở trên càng khiến tôi có suy nghĩ như vậy.
Việt Nam đối đãi với các nước nhỏ xung
quanh bằng khái niệm Hoa di kiểu Trung Quốc từ khi độc lập với Trung
Quốc chưa được bao lâu. Năm 994, người sáng lập nên triều Tiền Lê
(980-1009), vua Lê Hoàn đã viện cớ vua Cham-pa vô lễ, từ chối triều cống
của vua Cham-pa.68 Trong khi đó vào năm 1012, năm đầu lên ngôi của vua
Lý Thái Tổ, có thấy ghi lại rằng, nước Chân Lạp (Cam-pu-chia hiện nay)
đã đến triều cống.69 Sau này cũng vậy, các đời vua tiếp tục mang tính ưu
việt của chính trị, văn hóa trị vì các nước xung quanh nhưng không mang
hình thái thể chế. Tới đời nhà Nguyễn, đặc biệt ở đời vua Minh Mạng,
khái niệm trật tự thế giới mới được cụ thể hóa hoàn toàn. Trong Minh Mệnh chính yếu,
ghi lại ý niệm chính trị của vua Minh Mạng, có thể thấy lần đầu tiên
một mục riêng giải thích về quan hệ với các nước xung quanh là “nhu viễn”. Tiếp đó, trong Đại Nam hội điển sự lệ được phát hành năm 1855, ngoài “bang giao” liên quan đến nhà Thanh, điều khoản “nhu viễn” cũng được ghi riêng.
Khái niệm nhu viễn được sử dụng lần đầu
là vào đời vua Gia Long. Năm 1815, vua Gia Long có trong tay mười ba
nước là nước triều cống viễn phương. Đó là các nước Hồng Mao (Anh), Vạn
Tượng (Viêng-chăn), Nam Chưởng (Luông-pha-băng), Trấn Ninh (cao nguyên ở
đông Lào), Miến Điện (Mianma), Phú Lãng Sa (Pháp) và Hỏa Xá quốc, Thủy
Xá quốc ở tỉnh Plây cu hiện nay (thuộc cao nguyên Trung bộ Việt Nam),
v.v… Tuy nhiên, nếu tính cả Cao Miên (Cam-pu-chia hiện nay) thì thực ra
là mười bốn nước. Sở dĩ như vậy là vì có một câu ghi lại rằng, sau khi
nhà Nguyễn liệt kê các nước trên, Cao Miên đã dâng bát vàng và gọi vua
Gia Long là Thiên Hoàng đế.70 Các nước này đến Việt Nam và dâng cống
vật. Giống như các đời vua của Trung Quốc, vua Gia Long cũng tin rằng
các nước này cũng ngưỡng mộ đức độ và công nhận quyền uy của mình nên
mới như vậy. Có thể lấy kí sự sau trong Quốc sử di biên làm cơ sở củng cố lòng tin này của vua Gia Long: “Trước
đức độ và uy thế của vua Minh Mạng, các nước láng giềng như Mianma,
Viêng-chăn, Luông-pha-băng, Hỏa Xá quốc,… và đến cả những nước man di
của phương Tây như Anh, Pháp mà nhà Thanh và Thái đều khiếp sợ cũng đến
thần phục”.71 Tóm lại, điều mà các vua nhà Nguyễn muốn thể hiện
chính là tính ưu việt về văn hóa của mình đối với các nước xung quanh.
Chẳng hạn, “Cao Miên” là từ mà Trung Quốc gọi Cam-pu-chia, nhà Nguyễn đã sửa thành “Cao Man” và ghi lại trong phần Ngoại quốc liệt truyện trong Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập.72
Mặt khác, tính ưu việt văn hóa của họ còn được thể hiện bằng trách
nhiệm và nghĩa vụ phải giáo hóa man di bằng lễ nghĩa. Chính vì vậy, Hỏa
Xá quốc tuy không có chữ viết nhưng phong tục thuần phác nên năm 1834,
vua Minh Mạng đặt tên cho tộc trưởng là “Vĩnh Bảo” và địa vị trong thể chế triều cống cũng phong là vua.73
Trật tự đế quốc Đại Nam vì mô phỏng thể
chế triều cống của Trung Quốc nên tất nhiên cũng đã đặt ra những quy
định tương tự của thể chế ấy đối với các phiên quốc. Cho nên, khi nào,
bao giờ phải cử sứ giả triều cống, phải dâng lễ vật gì, sứ giả gồm mấy
người, dừng chân ở đâu, v.v… được quy định rất chi tiết. Đáp lại các
đoàn triều cống, triều Nguyễn cũng ban các loại vật phẩm tương xứng theo
cấp của phiên quốc.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng, trật
tự đế quốc Đại Nam chỉ là suy nghĩ đơn phương của triều đình nhà
Nguyễn, hơn cả chế độ triều cống Trung Quốc. Bởi Việt Nam là nước nhỏ
đến mức không thể so sánh với Trung Quốc. Những người đứng đầu nhà
Nguyễn nhận thức được điều này và cố gắng nâng cao quyền lực đế quốc
bằng việc có được càng nhiều các nước phụ thuộc trong khả năng có thể.
Chính vì vậy, họ gọi hai bộ tộc mà bản thân họ cũng không phân biệt
được, Thủy Xá và Hỏa Xá74 là quốc gia. Như vậy, có lẽ không sai khi cho
rằng vua Gia Long liệt kê các nước Anh, Pháp, cả Mianma là nước triều
cống năm 1815 cũng xuất phát từ mạch này. Lúc bấy giờ, thậm chí Mianma
chưa hề có bất cứ tiếp xúc nào với nhà Nguyễn cho đến năm 1822-1823.
Nhân việc thấy thương thuyền của Việt Nam qua lại năm 1822, năm sau lần
đầu tiên Mianma cử sứ giả sang Việt Nam, mục đích là thỉnh cầu nhà
Nguyễn đoạn tuyệt ngoại giao với Thái. Thỉnh cầu này xuất phát từ suy
nghĩ quan hệ bình đẳng của mình với nhà Nguyễn chứ không phải đứng trên
lập trường của nước triều cống.75
Trong Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, v.v…,
Thái cũng được phân loại là quốc gia cùng nhóm với Hỏa Xá, Thủy Xá,
nhưng đây cũng chỉ là suy nghĩ của nhà Nguyễn. Năm 1809, vua Thái gửi
thư sang thông báo phụ hoàng qua đời. Các quan thấy lời lẽ trong thư rất
ngạo mạn nên định không nhận, nhưng vua Gia Long nói rằng họ không biết
chữ Hán, không hiểu biết nên mới như vậy, thấy rằng mình ưu việt hơn
nên cho phép tiếp nhận.76 Trong các bức thư khác của vua Thái gửi đều
gọi vua Gia Long là “Việt Nam quốc Phật vương”, tức vua Phật
giáo của Việt Nam nhưng ông vẫn nhận mà không có ý kiến gì.77 Xét cho
cùng, có thể thấy, vì trên thực tế công nhận Thái là một quốc gia bình
đẳng nên Việt Nam nhận thức được rằng, không thể xung đột với nhau chỉ
vì hình thức của một bức thư.
Nếu có nước triều cống theo đúng nghĩa ở
thời nhà Nguyễn thì chỉ có các nước Viêng-chăn và Luông-pha-băng thuộc
Lào và Cam-pu-chia hiện nay. Năm 1807, vua Cam-pu-chia là Ang Chan được
vua Gia Long phong là Cao Miên quốc vương, đồng thời vua Gia Long cũng
quy định triều cống ba năm một lần.78 Nhưng sau đó, do tranh chấp ngôi
vua liên miên, Cam-pu-chia bị chia thành các phe phái. Phe thì dựa vào
Thái, phe khác dựa vào Việt Nam nên qua lại triều cống cả hai nước, đến
năm 1863 thì rơi vào sự bảo hộ của Pháp. Quốc vương của Viêng-chăn là
Chao Anou là nhân vật có tài, muốn thoát ra khỏi sự lệ thuộc của Thái từ
bấy đến nay nên đã gây ra cuộc chiến năm 1827 nhưng thất bại thảm hại,
phải thỉnh cầu sự giúp đỡ của nhà Nguyễn. Vua Minh Mạng chấp nhận lời
thỉnh cầu, cho quân yểm hộ Chao Anou về Viêng-chăn. Chao Anou lại bị
Thái gây áp lực phải chạy về Trấn Ninh và bị vua của Trấn Ninh là Chao
Noi dẫn độ sang Thái. Vương quốc Luông-pha-băng vốn không có quan hệ gần
gũi với với Việt Nam nhưng khi thấy quốc vương Viêng-chăn bị tiêu diệt
đã nhận thấy rằng cần có thế lực có thể chống lại Thái, nên năm 1831 và
1833 đã cử sứ giả sang nhà Nguyễn triều cống. Thế nhưng, vẫn không hoàn
toàn thoát khỏi phạm vi thế lực của Thái.79
Có thể nói rằng, trật tự đế quốc Đại Nam
là trật tự không hoàn chỉnh đến mức không thể so sánh với trật tự thế
giới kiểu Trung Hoa. Mặc dầu vậy, điều đáng lưu ý là việc nhà Nguyễn lập
nên trật tự thế giới khu biệt của riêng mình có ý nghĩa rất lớn trong
việc đối kháng với nhà Thanh.
4. Lời kết
Ngô Sĩ Liên, người biên soạn Đại Việt sử kí toàn thư đã
than về việc Lý Phật Tử (Lý Phật Tử lên ngôi sau cái chết của Lý Bôn,
người đã gây dựng cuộc khởi nghĩa năm 541 chống lại sự chi phối của
Trung Quốc) hàng phục nhà Tùy như sau: “Sự cường nhược của Nam Bắc đều có lúc. Nếu phương Bắc yếu thì ta mạnh, nếu phương Bắc mạnh thì ta yếu, ấy là đại thế thiên hạ.”80
Khác với thời của Lý Phật Tử, khi nhà
Nguyễn được lập nên, Việt Nam mạnh và triều Thanh của Trung Quốc yếu.
Mặc dù vậy, các vua của vương triều mới vẫn công nhận thể chế triều cống
của nhà Thanh và nhận sắc phong của nhà Thanh. Tôi cho rằng, việc nhận
sắc phong như vậy là vì nhà Nguyễn đã biết tiền lệ khi họ Mạc cướp ngôi
nhà Lê, mặc dù lúc ấy nhà Minh suy yếu song vẫn dùng vũ lực can thiệp
vào Việt Nam. Cùng lúc ấy, Việt Nam tuy đã lập nên đế quốc thống nhất
đầu tiên nhưng trong bối cảnh xã hội còn chưa ổn định, thì việc được nhà
Thanh sắc phong để xác lập quyền lực của vua là điều rất quan trọng.
Thêm vào đó, một nguyên nhân quan trọng mà tôi đã đề cập đến ở trên là
sau khi họ Mạc cướp ngôi, văn hóa kiểu Trung Quốc thoái trào do nội
chiến liên miên kéo theo nhu cầu tiêu thụ thư tịch Trung Quốc gia tăng,
v.v…
Mặc dầu vậy, nhà Nguyễn không cho thấy
thái độ phụ thuộc vào nhà Thanh. Một ví dụ điển hình là sửa tên An Nam
do Trung Quốc đặt trước đây thành Việt Nam. Từ đây, vua nhà Nguyễn bước
thêm một bước, xác lập tư thế bình đẳng hoàn toàn về mặt đối nội, giống
như các vương triều trước đây cũng xưng hoàng đế, lấy niên hiệu, gọi
việc cử sứ giả đi Trung Quốc là “đi sứ nhà Thanh”
Ở một ý nghĩa nào đó có thể nói rằng,
đến thời nhà Nguyễn, thái độ bình đẳng được thể chế hóa hơn trước đây.
Phải chăng có thể đưa ra thực dụ là quan hệ ngoại giao với Trung Quốc
lúc đó mới bắt đầu được gọi là bang giao. Ở mặt khác của thể chế hóa, đã
áp dụng đồng thời ba vấn đề: sự phát triển văn hóa của nhà Nguyễn, sự
suy thoái của nhà Thanh và nhà Thanh là triều đình của dân tộc Mãn Châu.
Với sự suy thoái của nhà Thanh, quan hệ
ngoại giao hai nước trở nên xa cách. Một mặt, nhà Nguyễn có những động
thái mang tính độc lập tự chủ, mặt khác vì nhà Thanh là triều đình của
một dân tộc khác nên nhà Nguyễn có suy nghĩ rằng mình ưu việt về văn
hóa. Việc không cầu viện nhà Thanh khi Pháp xâm lược vào những năm 60 và
70 của thế kỷ XIX, tự định ra quốc hiệu Đại Nam thay cho tên Việt Nam
mà nhà Thanh công nhận, xác lập một trật tự thế giới riêng coi các nước
xung quanh là nước lệ thuộc mình đều có liên quan mật thiết với cả ba
nguyên nhân chính ở trên.
Tóm lại, ở thế kỷ XIX, Việt Nam công
nhận quyền lực của nhà Thanh với tư cách là nước bá chủ thông qua thể
chế triều cống nhưng chỉ là tên gọi không hơn, còn trên thực tế là một
nước độc lập hoàn toàn. Điều này cũng giống như với trường hợp của Triều
Tiên, tuy triều cống cho nhà Thanh nhưng không phải là nước lệ thuộc mà
là một nước độc lập. Không ít trường hợp, đôi khi chúng ta bị trói buộc
vào hình thức mà phạm phải “sự ngu” không thể nhìn thẳng vào hiện thực.
Học giả lịch sử chân chính tuyệt đối không phạm phải “sự ngu” thì mới
có thể được người khác tin tưởng.
CHÚ THÍCH
1 Benjamin I. Schwartz, “The Chinese Perception of World Order: Past and Present”, in John
K. Fairbank ed. The Chinese World Order: Traditional China’s Foreign Relations, Cambridge,
Mass: Harvard University Press, 1968, p. 276.
2 Chun Hae Jong, “Khảo sát quan hệ Hàn – Trung thời kỳ nhà Thanh – Về sự biến thiên
trong thái độ của nhà Thanh nhìn từ chế độ triều cống” (bản tiếng Hàn Quốc), Đông Dương
học, 1 (1971), pp. 235 – 238; Inokuchi Takashi, “Thử bàn về trật tự thế giới Đông Á truyền
thống – Với trọng tâm là sự can thiệp vào Việt Nam của Trung Quốc cuối thế kỷ XVIII”
(bản tiếng Nhật), tạp chí Ngoại giao quốc tế 73 – 5 (1975), pp. 44 – 47.
3 John Fairbank and S.Y. Teng, “On the Ch’ing Tributary System,” in John Fairbank and
S.Y. Teng, Ch’ing Administration: Three Studies, Cambridge, Mass: Harvard University Press,
1960, pp. 182 – 183.
4 Xin dẫn cuốn Lịch sử quan hệ Việt Nam – Trung Quốc (bản tiếng Nhật) (Tokyo, 1975) do
Yamamoto Tatsuro biên soạn, với tư cách tài liệu nghiên cứu đại diện nhìn chế độ triều
cống không lấy Trung Quốc làm trung tâm mà từ lập trường của các nước xung quanh.
5 Đại Nam thực lục, chính biên, I, quyển 17 (Tokyo: Institute of Cultural and Linguistic
Studies, Keio University, 1961 – 1981), pp. 1a – 2a; Quốc sử di biên, Hong Kong: New Asia
Research Institute, The Chinese University of Hong Kong, 1965, p. 7.
6 Chữ 龍 (rồng) và chữ 隆 (sự thịnh vượng) trong tiếng Việt đều phát âm là “long”. Thực tế,
không lâu sau ông đã đổi Thăng Long (昇龍) thành 昇隆. Quốc sử di biên, p. 30.
7 Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, quyển 11, pp. 4b – 5a; Suzuki Chusei, 1966, “Thiết lập
quan hệ giữa nhà Thanh và Việt Nam” (bản tiếng Nhật), Tổng luận văn học đại học Ai Chi,
tập 3334, p. 351.
8 Charles B. Maybon, Histoire moderne du pays d’Annam (1592 – 1820) (Paris: Librairie Plon,
1919). Reprinted, Westmaead, England: Gregg International Publishers, 1972, pp. 375 – 376.
9 Suzuki Chusei, sđd, p. 351.
10 Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, quyển 11, p. 2a; Choi Buyng Wook, Southern Vietnam
under the Reign of Minh Mang (1820 – 1841), Ithaca: Cornell Southeast Asia Program
Publications, 2004, p. 131.
11 Có lẽ do Tổng đốc Quảng Đ ông đ ã s ửa hiệu của Nguyễn Phúc Ánh là “Nông Nại quốc
trưởng”. Suzuki Chusei, sđd, tham khảo tr.353. Nông Nại là tên gọi trước đây của phủ Gia
Định.
12 Về vấn đề quốc hiệu, Suzuki Chusei đã lập luận rất cụ thể trên cơ sở Thanh thực lục và một
tài liệu do Tôn Ngọc Đình, tuần phủ Quảng Tây, người phụ trách việc biên chép của nhà
Thanh viết là Diên Lý Đường tập. Suzuki Chusei, sđd, pp. 353 – 358. Cf. Đại Nam thực lục,
chính biên, I, quyển 23, pp. 1b – 2a; Trịnh Hoài Đức soạn, Cấn trai thi tập, Hong Kong: New
Asia Research Institute, 1962, p. 132.
13 Đại Nam thực lục, chính biên, I, quyển 23, p. 3a.
14 Đại Nam thực lục, chính biên, I, quyển 23, p. 3b; Suzuki Chusei, sđd, p. 358
15 Đại Nam thực lục, chính biên, I, quyển 23, p. 4a; Suzuki Chusei, sđd, p. 358.
16 Đại Nam thực lục, chính biên, I, quyển 23, pp. 4a – b.
17 Đại Nam thực lục, chính biên, II, quyển 207, pp. 41b – 42a; Suzuki Chusei, sđd, p. 358
18 John K. Fairbank, “The Early Treaty System in the Chinese World Order,” John K. Fairbank
ed., op. cit., p. 269; Wada Hironori, sđd, p. 566.
19 Đại Nam thực lục, chính biên, IV, quyển 38, pp. 44a – b; Wada Hironori, sđd, p. 566, 581.
20 Wada Hironori, sđd, p. 581.
21 Wada Hironori, sđd, p. 584 – 585.
22 Theo Đại Nam thực lục, quan hệ triều cống với nhà Thanh khi vua Kiến Phúc lên ngôi đã bị
cắt đứt hoàn toàn, nhưng thông qua các tư liệu của Trung Quốc, Wada Hironori nhận định
rằng sự thật không phải vậy. Đại Nam thực lục, chính biên, V, quyển 1, pp. 25a – b; Wada
Hironori, sđd, pp. 589 – 590.
23 Khi viết về vấn đề này đã tham khảo luận văn sau của người viết. Yu Insun, 1987, “Quan
hệ Trung – Việt và chế độ triều cống – hư và thực” tạp chí Hội khoa học lịch sử, 114 (1987),
pp. 107 – 114.
24 Đại Nam thực lục, chính biên, I, quyển 43, p. 4a; Takeda Ryoji, sđd, p. 502.
25 Về vấn đề tiếp nhận văn hoá và chế độ Trung Quốc của vua Minh Mạng, có một nghiên cứu cổ
điển trên cơ sở Woodside. Alexander B. Woodside, Vietnam and the Chinese Model: A
Comparative Study of Vietnamese and Chinese Government in the First Half of the Nineteenth
Century, Cambridge, Mass.: Harvard University Press, 1971.
26 Đại Nam thực lục, chính biên, II, quyển 69, pp. 29b – 30a; Takeda Ryoji, sđd, p. 499.
27 Đại Nam thực lục, chính biên, I, quyển 51, pp. 3a – b.
28 Đại Nam thực lục, chính biên, II, quyển 218, p. 33a; Woodside, op. cit., p. 115.
29 Woodside, sđd, p. 115.
30 Cf. Woodside, ibid, p. 115; O.W. Wolters, “Assertions of Cultural Well – being in Fourteenth –
Century Vietnam”, Part One, Journal of Southeast Asian Studies 10 – 2, 1979, p. 436.
LỊCH SỬ QUAN HỆ VIỆT NAM, TRUNG QUỐC THỂ KỶ XIX…
343
31 Đại Nam thực lục, chính biên, I, quyển 37, p. 11b; quyển 55, pp. 6b – 7a; Takeda Ryoji, sđd, p.
497.
32 Đại Nam thực lục, chính biên, II, quyển 220, pp. 8a – b; Takeda Ryoji, sđd, pp. 496 – 497.
33 Phan Huy Lê, “Tính thống nhất trong đa dạng của lịch sử Việt Nam”, trong Tìm về cội
nguồn, tập I, NXB Thế giới, Hà Nội, 1998, p. 495.
34 Đại Nam thực lục, chính biên, I, quyển 58, pp. 11a – b; Takeda Ryoji, sđd, p. 498.
35 Đại Nam thực lục, chính biên, II, quyển 79, pp. 17 – 18b; Woodside, op. cit., pp. 118 – 119;
Takeda Ryoji, sđd, p. 498.
36 Đại Nam thực lục, chính biên, II, quyển 85, p. 30a; Takeda Ryoji, sđd, p. 499.
37 Đại Việt sử ký toàn thư (bản hiệu hợp), Tokyo: Trung tâm nghiên cứu văn hoá Đông Dương,
Trường Đại học Đông Kinh, 1986, p. 845.
38 Đại Nam thực lục, chính biên, IV, quyển 50, p. 8a.
39 Đại Nam thực lục, chính biên, I, quyển 54, p. 9b; Takeda Ryoji, sđd, p. 532.
40 Đại Nam thực lục, chính biên, II, quyển 65, pp. 9b – 10a; Takeda Ryoji, sđd, p. 498.
41 Đại Nam thực lục, chính biên, IV, quyển 1, pp. 31b – 32a.
42 Đại Nam thực lục, chính biên, II, quyển 218, pp. 33a – 34a.
43 Woodside, sđd, p. 267.
44 Woodside, sđd, p. 19; Choi Byung Wook, sđd, p. 38.
45 Đại Nam thực lục, chính biên, I, 1968, quyển 26, 22a; quyển 38, 12a; quyển 44, 19a;
Woodside, ibid. 18 – 19; Trúc Điền Long Nhi, 1975, sđd,, p. 543.
46 Ecole Franaise d’Extrême – Orient, microfilm A. 614 & A. 691/1 – 2.
47 Ở Việt Nam, người cai trị đầu tiên xưng hoàng đế là Triệu Đà. Triệu Đà tự xưng là hoàng
đế và xác lập tư thế bình đẳng với nhà Hán của Trung Quốc. Việc Đinh Bộ Lĩnh xưng là
hoàng đế noi gương theo trường hợp của Triệu Đà. Đại Việt sử ký toàn thư (bản hiệu hợp)
(quyển thượng), p. 180.
48 Ví dụ về đi sứ nhà Tống, Nguyên, Minh xin tham khảo ở Đại Việt sử ký toàn thư (bản hiệu
hợp) (quyển thượng), (quyển trung), pp. 180, 390, 556.
49 Sử ký, quyển 97, Peking: Trung Hoa thư cục, 1982, p. 2698.
50 O.W. Wolters, “Historians and Emperors in Vietnam and China: Comments Arising out of
Le Van Huu’s History, Presented to the Tran Court in 1272,” 1979, Anthony Reid and
David Marr eds. Perceptions of the Past in Southeast Asia (Singapore), 73 – 74; Yu Insun,
“Nhận thức về lịch sử của người Việt Nam giai đoạn trước cận đại: Trọng tâm là Lê Văn
Hưu và Ngô Sỹ Liên” (bản tiếng Hàn Quốc), Nghiên cứu sử học Đông Dương, số 73 (2001),
pp. 179 – 181.
51 Nguyễn Trãi, Ức Trai thi tập (quyển thượng) (Sài Gòn, 1972), p. 319; Stephen O’Harrow,
“Nguyen Trai’s Binh Ngo Dai Cao of 1428: The Development of Vietnamese National
Identity”, Journal of Southeast Asian Studies 10 – 1(1979), pp. 168 – 169.
52 Từ Diên Húc biên soạn, Việt Nam tập lược, quyển 2 (bản phục chế, không rõ nơi xuất bản,
1877), p. 180a.
53 Quốc sử di biên, sđd, p. 81.
54 Đại Nam thực lục tiền biên, quyển 8, pp. 7a – b.
55 Đại Nam thực lục, II, quyển 190, pp. 1a – 2a; Đại Nam thực lục, II, quyển 200, pp. 8a – b; Quốc
sử di biên, 1965, p. 278.
56 Đại Nam thực lục, II, quyển 200, pp. 16a – b.
57 Đại Nam thực lục, III, quyển 40, pp. 1a – b.
58 Takeda Ryoji, sđd, p. 495.
59 Wada Hironori, sđd, pp. 554 – 555.
60 Wada Hironori, sđd, pp. 559 – 561.
61 Khâm định Việt sử thông giám cương mục, chính biên, quyển 34 (bản phục chế, Đài Bắc, 1969),
pp. 3154 – 3155; Fujiwara Riichiro, “Vietnamese Dynasties’ Policies Toward Chinese
Immigrants,” Acta Asiatica 18 (1970), pp. 52 – 53.
62 Đại Nam thực lục, II, quyển 70, p. 2a; Takeda Ryoji, sđd, pp. 539 – 540.
63 Đại Nam thực lục, II, quyển 159, p. 29b; Takeda Ryoji, sđd, p. 541.
64 Việc Triều Tiên về mặt đối nội cũng coi thường, không công nhận nhà Thanh là thượng
quốc có thể thấy qua lễ nghi hoàng thất sử dụng niên hiệu Sùng Trinh của nhà Minh. Lee
Sung Kyu, “Bành trướng và thu hẹp của Trung Quốc đế quốc: Ý niệm và thực tế” (bản
tiếng Hàn Quốc), tạp chí Hội khoa học lịch sử, số 186 (2005), pp. 116 – 117.
65 Đại Nam thực lục, II, quyển 212, p. 33b; Woodside, op. cit., 280; Wada Hironori, sđd, p. 564.
66 Tsuboi Yoshiharu, “Thế giới quan của triều Nguyễn (1802 – 1945) Việt Nam” (bản tiếng
Nhật), Quốc gia học hội tạp chí, 96 – 910(1983), pp. 149 – 165.
67 Yu Insun, “Việc lập nên triều Nguyễn Việt Nam và trật tự đế quốc “Đại Nam”, (tiếng Hàn
Quốc), Văn hoá châu Á, 10 (1994), pp. 81 – 87. Nội dung này xin được phát triển cụ thể ở
phần dưới.
68 Đại Việt sử ký toàn thư (quyển thượng), p. 194.
69 Quốc sử di biên, p. 88. Cf. Woodside, sđd, p. 237.
70 Quốc sử di biên, p. 312; Wada Hironori, sđd, p. 562.
71 Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, p. 1a.
72 Ibid., pp. 35a – b. Trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ được g hi l à H oả Xá quốc,
Woodside cũng căn cứ vào đây. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Vol. 8, NXB Thuận Hoá,
Huế, 1993, p. 454; Woodside, sđd, p. 238.
73 Tham khảo Đại Nam thực lục, III, quyển 5, pp. 6b – 7a và Woodside, ibid., p. 238. Họ chỉ cử
sứ giả để giao dịch, hơn nữa trong ngôn ngữ của họ không có từ mang nghĩa triều cống.
Tsuboi, sđd, p. 159.
74 Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, quyển 33, pp. 2a – 3b; Minh Mạng chính yếu, quyển 25,
Sài Gòn: Bộ Văn hoá Giáo dục và Thanh niên, 1974, pp. 9a – b; Woodside, sđd, p. 239.
75 Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, quyển 32, p. 7a; Đại Nam thực lục, I, quyển 39, pp. 19a – b;
Woodside, sđd, p. 259.
76 Woodside, sđd, p. 259.
77 Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, quyển 31, p. 6b; Woodside, sđd, p. 240.
78 D. G. E Hall, A History of South – East Asia, 3rd ed., New York, 1970, p. 453.
79 Đại Việt sử ký toàn thư (bản hiệu hợp) (quyển thượng), p. 153.
0 comments:
Post a Comment