Tuesday, August 13, 2013

"Dân là chủ" và "Dân làm chủ" trong thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta

Nhà nước ta là Nhà nước của Dân, do Dân và vì Dân: Dân là người chủ đất nước, Nhà nước là công cụ quản lý đất nước của Dân, mọi quyền lực Nhà nước đều ở nơi Dân, mọi tài sản của Nhà nước đều là của Dân, mọi quyền lực Nhà nước đều ở nơi Dân. Đó là bản chất chính trị, bản chất nhân dân cực kỳ quan trọng của Nhà nước ta.

Nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An. Tư tưởng Dân làm chủ, Nhà nước quản lý, Đảng lãnh đạo đã được Bác Hồ, Đảng và Nhà nước ta thể hiện rất sâu sắc trong nhiều văn kiện lịch sử cũng như trong cuộc sống sinh động thường nhật.

Tư tưởng đó thể hiện sự thống nhất về bản chất chính trị, bản chất nhân dân của hệ thống chính trị nước ta, không mâu thuẫn hoặc triệt tiêu lẫn nhau, vì Đảng và Nhà nước ta không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân. Song trong hoạt động thực tiễn có thể nảy sinh sự thiếu đồng bộ, thiếu thực chất ở chỗ này hoặc chỗ kia, vào lúc này hay lúc khác.

Để xảy ra điều đó là do có sự nhận thức và thực hành chưa thật sự chuẩn xác vai trò chức năng của mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị; thường là do cán bộ lãnh đạo, nhất là người đứng đầu, thiếu tôn trọng hoặc tự từ bỏ nhiệm vụ và quyền hạn được giao, làm giảm tính thực chất của một tổ chức nào đó; biến tổ chức đó, ở những mức độ khác nhau, trở thành hình thức, “hữu danh vô thực”.

Dân là chủ thì Dân phải làm chủ, Dân làm chủ thì Dân phải có quyền quyết định, đó là lẽ tự nhiên, nếu chưa làm được như thế thì Dân chưa làm chủ một cách đầy đủ và thực chất.
Đối chiếu với phương châm công tác dân vận hiện nay: “Dân biết, Dân bàn, Dân làm, Dân kiểm tra”, chúng ta thấy rằng:

Về tinh thần và nội dung của phương châm nêu trên chúng ta đã hiểu và làm theo quy định của pháp luật. Pháp luật đã quy định tương đối đầy đủ các quyền của Dân. Nhưng xét về câu chữ, phương châm công tác dân vận hiện nay chưa thể hiện đầy đủ và chuẩn xác nội dung một số quyền của Dân.

Phương châm công tác dân vận hiện nay chưa đề cập đến một chức năng, một quyền quan trọng nhất của người làm chủ, đó là quyền quyết định của Dân. Ở đây mới nêu “Dân bàn” mà chưa nêu “Dân quyết định”, mà quyết định mới là quyền tối hậu của người làm chủ. Quyền quyết định trực tiếp và quyết định gián tiếp của Dân thông qua các cơ quan đại diện (Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp) đã được pháp luật quy định khá cụ thể. Nhân dân ta đã, đang và sẽ thực hành ngày càng tốt hơn các quyền của mình đã và sẽ được pháp luật quy định.

Do đó cần thể hiện quyền quyết định của Dân trong phương châm nêu trên cho đúng với tư tưởng của Bác, Đảng và Nhà nước ta cũng như pháp luật đã quy định. Một điều giản dị và dễ hiểu là, làm chủ mà không có quyền quyết định thực chất thì làm chủ cũng chẳng có nghĩa lý gì, chỉ là làm chủ hình thức mà thôi. Các cụ ta xưa nay vẫn nói Dân là gốc, nâng thuyền cũng là Dân, mà lật thuyền cũng là Dân, vai trò làm nên lịch sử của Dân, một sứ mạng tự nhiên của Dân, dù pháp luật có ghi nhận hay không.

Có ý kiến cho rằng, khi nói “Dân bàn” là đã bao gồm cả quyền quyết định của Dân. Lý lẽ như vậy chưa thật thuyết phục, vì chưa có văn bản nào quy định chung là khi “bàn” phải bao gồm cả “quyết định”. Thực tiễn cuộc sống chỉ ra rằng, ít nhất cũng có hai cách “bàn”: Một là, “để tham gia ý kiến, ý kiến đóng góp đó chỉ có giá trị tham khảo, không có giá trị quyết định. Hai là, “bàn” để làm cơ sở cho việc tự mình quyết định, quyết định trực tiếp của Dân hay quyết định của các cơ quan đại diện. Lý lẽ và thực tiễn cuộc sống của chúng ta là như thế.

Ý kiến khác lại cho rằng, quyền quyết định phải là quyền của Đảng, vì Đảng là lãnh đạo mà Đảng không quyết định thì lãnh đạo làm sao, lãnh đạo suông ai nghe? Vả chăng trình độ của Dân còn nhiều hạn chế và ý kiến của Dân lại rất khác nhau, nếu để Dân quyết định thì khó mà sáng suốt được. Lý lẽ như vậy cũng chưa thật thuyết phục, vì đây là hai thành viên thuộc hai phạm trù khác nhau trong cùng một hệ thống chính trị, mỗi thành viên đều có quyền quyết định theo chức năng của mình, không thể quyết định thay nhau được:
Một là, Đảng thuộc phạm trù người lãnh đạo đất nước được Dân suy tôn, quyết định của Đảng là quyết định của một tổ chức chính trị, quyết định chủ trương chính trị để lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Quyết định của Đảng không phải là quyết định của các cơ quan nhà nước (Lập pháp, Hành Pháp và Tư pháp), không thuộc về quyền lực nhà nước, vì Đảng không phải là một tổ chức nhà nước do Dân bầu ra. Song quyết định của Đảng không phải là quyết định suông, mà có quyền lực thật sự, đó là quyền lực chính trị, quyền lực dựa trên sự sáng suốt của đường lối chính trị và năng lực tổ chức, vận động, thuyết phục... của đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng trong phong trào quần chúng, trong hệ thống thiết chế nhà nước và xã hội tạo nên.
Hai là, Dân thuộc phạm trù người chủ đất nước, quyết định của Dân là quyết định của người chủ đất nước. Quyết định trực tiếp của Dân hay quyết định của các cơ quan đại diện do Dân bầu ra, quyết định của các cơ quan hành pháp và tư pháp đều thuộc về quyền lực nhà nước, là quyền lực của nhân dân uỷ quyền, được quy định trong pháp luật. Đây là quyền lực nhà nước, quyền lực được Hiến pháppháp luật quy định, được thực hành trong cuộc sống bằng bộ máy nhà nước (Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp), có hiệu lực và sức mạnh cưỡng chế trên quy mô toàn xã hội.

Đồng thời chúng ta phải đặt vai trò của người làm chủ và vai trò của người lãnh đạo trong một cơ chế tổng thể và thống nhất: Dân làm chủ, Nhà nước quản lý, Đảng lãnh đạo. Dân là người chủ, Dân quyết định (trực tiếp và gián tiếp) công việc của người làm chủ; Nhà nước là công cụ quản lý đất nước của Dân; Đảng là người lãnh đạo, Đảng quyết định những chủ trương chính trị của Đảng để lãnh đạo, Nhà nước và xã hội. Đảng không quyết định thay Dân hay thay Nhà nước. Nếu Đảng quyết định thay thì Dân và Nhà nước sẽ trở thành hình thức, "hữu danh vô thực".

Hiểu và làm như vậy là rành mạch, không lẫn lộn, không làm thay chức năng của nhau, không tự đánh mất nhiệm vụ và quyền hạn của một tổ chức nào đó trong hệ thống chính trị. Dân lựa chọn quyết định dưới ánh sáng soi đường chỉ lối của Đảng. Trí tuệ chỉ đường của Đảng cùng với trí tuệ lựa chọn quyết định của Dân thì nhất định sẽ sáng suốt hơn, vừa tránh được sự hạn chế hoặc từ bỏ nhiệm vụ, quyền hạn; vừa tránh được sự bạo biện làm thay hoặc chủ quan áp đặt.

Khi có quyền "quyết định" thì chất lượng quyết định ít nhất cũng có thể diễn ra theo hai chiều hướng: Một là, quyết định mang tính hình thức, quyết định để thể chế hoá một vấn đề đã được an bài, quyết định chưa dựa trên cơ sở thảo luận kỹ của chính mình, chưa dựa trên cơ sở ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Hai là, quyết định một cách thực chất, quyết định do chính mình cân nhắc lựa chọn phương án phù hợp với quy luật và thực tiễn khách quan, phù hợp với lòng Dân.

Dân hoặc cơ quan đại diện của Dân mà quyết định mang tính hình thức thì cũng có nghĩa là Dân làm chủ hình thức. Dân mà làm chủ hình thức thì nhất định nhà nước sẽ đi tới chỗ quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, thoái hoá, biến chất,…Bất cứ ở đâu, lúc nào mà người làm chủ chỉ là hình thức, chủ hờ, không có một chủ cụ thể thật sự thì ở nơi đó, lúc đó sẽ dẫn tới tình trạng trì trệ, vô trách nhiệm.

Dân làm chủ thực chất thì Dân phải có quyền quyết định thực chất. Dân quyết định bằng cách nào? Dân làm chủ bằng cách nào thì Dân quyết định bằng cách đó.

Dân làm chủ bằng hình thức trực tiếp thì quyết định bằng hình thức trực tiếp, ví dụ như trực tiếp quyết định bầu cho ai trong việc lựa chọn bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, bầu cử trưởng thôn,…

Dân làm chủ bằng hình thức gián tiếp (thông qua cơ quan đại diện: Quốc Hội và Hội đồng nhân dân các cấp) thì quyết định bằng hình thức gián tiếp: Quốc hội, Hội đồng nhân dân thay mặt nhân dân, được uỷ quyền, thể theo ý chí và nguyện vọng của nhân dân mà quyết định những vấn đề hệ trọng của đất nước và địa phương theo quy định của Hiến pháppháp luật.

Phương châm nêu "Dân kiểm tra" cũng chưa thật chuẩn xác, vì chủ yếu và thường xuyên là Dân thực hiện chức năng "giám sát". Ngay Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp cũng chỉ có chức năng giám sát, không có chức năng kiểm tra. Thanh tra nhân dân trong Luật thanh tra, của Luật Mặt trận, Luật Công đoàn và luật của các đoàn thể chính trị nước ta cũng chỉ quy định chức năng giám sát, không có chức năng để kiểm tra.

Kiểm tra là hoạt động nghiệp vụ của cơ quan và công chức nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Dân có quyền kiểm tra trực tiếp một số nội dung được quy định cụ thể trong quy chế dân chủ ở cơ sở. Do đó cần bổ xung quyền "Giám sát" cho đầy đủ và đúng với pháp luật đã quy định.

Phương châm hiện nay có cái tốt là gọn, dễ nhớ, đã nêu được những nội dung cơ bản, đã đi vào cuộc sống, song cần phải được nghiên cứu để hoàn thiện, trong đó có nội dung rất quan trọng là vai trò quyết định của Dân - người chủ đích thực của đất nước- cần phải được thể hiện một cách sâu sắc, nổi bật và xuyên suốt, và bổ xung quyền giám sát của Dân cho phù hợp với pháp luật; từ đó, phương châm hiện nay có thể được thể hiện lại như sau: "Dân biết, Dân bàn, Dân quyết, Dân làm, Dân giám sát, kiểm tra".

Câu chữ của phương châm cũng rất quan trọng như trên đã phân tích, song việc hiểu đúng và thực hành đúng mới là khâu quan trọng nhất, quyết định nhất.

Trong thực tiễn cuộc sống hiện nay, chất lượng làm chủ trực tiếp và làm chủ gián tiếp (thông qua cơ quan đại diện: Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp) của Dân tuy ngày càng được nâng cao, song so với những quy định trong pháp luật, so với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân trong thực tiễn cuộc sống hàng ngày thì còn không ít hạn chế.

Nguyên nhân thì có nhiều, song chủ yếu là do chúng ta nhận thức chưa thật chuẩn xác và thực hành chưa thật đầy đủ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao theo quy định của pháp luật. Đồng thời cũng phải thừa nhận rằng, hệ thống pháp luật của chúng ta chưa thật hoàn chỉnh, thậm chí có lĩnh vực quan trọng chưa được luật hoá; không ít điều luật quy định còn chung chung, cơ chế thực hành còn thiếu cụ thể; thông tin chưa thật đầy đủ, minh bạch, kịp thời và xác thực,…

Cần có biện pháp khắc phục những mặt hạn chế, trực tiếp là những nguyên nhân yếu kém, để không ngừng nâng cao chất lượng làm chủ trực tiếp của Dân: như nâng cao chất lượng bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, bầu cử trưởng thôn, trưởng ấp,.., nghiên cứu tăng thêm các hình thức làm chủ trực tiếp của Dân nhiều hơn nữa, ví dụ như cử tri trực tiếp bầu chủ tịch xã, huyện, tỉnh…, sớm xây dựng Luật trưng cầu dân ý và thực hiện việc trưng cầu dân ý như Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định.

Quyền quyết định trực tiếp rõ nhất, thiết thực nhất và quan trọng nhất của Dân là quyền quyết định trong bầu cử và trong trưng cầu dân ý.

Đồng thời cần không ngừng nâng cao chất lượng làm chủ gián tiếp (thông qua cơ quan đại diện: Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp) của Dân: như hoàn thiện về tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan đại diện, các cơ quan và các đại biểu của Quốc hội và Hội đồng nhân dân; nâng cao trình độ, năng lực, bản lãnh chính trị, kỹ năng, điều kiện và phương tiện hoạt động của đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp… Sau khi được Dân bầu những đại biểu đại diện cho mình rồi thì chất lượng hoạt động của các đại biểu, của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, của các cơ quan hành pháp và tư pháp các cấp chính là chất lượng làm chủ của Dân.

Và cuối cùng, cần hiểu đúng và ngày càng hoàn thiện các quy định pháp luật cụ thể để thực hiện đúng cơ chế Dân làm chủ, Nhà nước quản lý, Đảng lãnh đạo; trong đó đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là điều có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, căn bản và bao trùm, nhằm ngày càng thực hành tốt hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi thành viên trong hệ thống chính trị, thực hành dân chủ ngày càng tốt hơn trong đời sống xã hội, đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.



  • Nguyễn Văn An (nguyên Chủ tịch Quốc hội) - http://vietbao.vn/Chinh-Tri/Bai-2-Da...u/20675120/73/
  •  
    Nếu nhân dân được tham gia và phúc quyết sửa đổi Hiến pháp lần này thì đây là một cơ hội to lớn do ta tạo ra để thúc đẩy mạnh mẽ và toàn diện công cuộc đổi mới đất nước - Cựu Chủ tịch QH Nguyễn Văn An.
    - Thưa ông, tại phiên Thảo luận ở hội trường về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011 và điều chỉnh chương trình 2010 hôm 9/6, hầu hết các ĐBQH phát biểu đều đề nghị sửa ngay một số điều của Hiến pháp 1992. Từng đảm nhiệm trọng trách người đứng đầu cơ quan lập pháp, ông chia sẻ sự quan tâm như thế nào về vấn đề này?
    LTS: thứ Năm tuần này là cuộc trò chuyện với cựu Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An về việc tu chính Hiến pháp 1992 sắp tới.
    Cựu Chủ tịch QH Nguyễn Văn An: Tôi rất quan tâm, vì sửa đổi Hiến pháp là một sự kiện trọng đại của toàn dân. Tôi vừa hy vọng, lại cũng vừa lo, vừa băn khoăn trăn trở, vì không biết sửa đổi lần này có đáp ứng lòng mong đợi của nhân dân không?

    Dân phúc quyết
    - Vì sao ông có tâm trạng như vậy?
    Tôi có tâm trạng như vậy là do kinh nghiệm cuộc sống mách bảo. Sửa đổi Hiến pháp là một cơ hội sinh hoạt chính trị dân chủ sâu rộng trong toàn dân, toàn dân có được hưởng quyền lợi và làm nghĩa vụ tham gia ý kiến và phúc quyết hay không?

    Nếu nhân dân được tham gia và phúc quyết sửa đổi Hiến pháp lần này thì đây là một cơ hội to lớn do ta tạo ra để thúc đẩy mạnh mẽ và toàn diện công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tôi hy vọng là như vậy.

    Nếu nhân dân không được tham gia và phúc quyết sửa đổi Hiến pháp lần này thì chúng ta lại bỏ lỡ mất cơ hội vô cùng quan trọng.

    Kinh nghiệm các lần sửa đổi Hiến pháp trước đây là như vậy. Chúng ta đã sửa đổi Hiến pháp nhiều lần rồi song chưa đáp ứng lòng mong đợi của nhân dân, nhân dân chưa có quyền phúc quyết Hiến pháp mà lẽ ra quyền phúc quyết Hiến pháp là quyền đương nhiên của người dân dưới chế độ dân chủ cộng hòa. Chính vì thế mà tôi lo, tôi băn khoăn, trăn trở.

    - Thưa ông, tôi hiểu rằng lần sửa đổi sau luôn phải đảm bảo tính kế thừa và hoàn thiện tốt hơn lần trước chứ ạ?
    Về nguyên tắc là như vậy. Song không phải lúc nào, không phải cái gì cũng như vậy.

    Sửa đổi nhiều lần mà vẫn chưa đạt yêu cầu

    Nguyên Chủ tịch QH Nguyễn Văn An.
    - Có vẻ vẫn hơi chung chung, mong ông nói rõ hơn về việc này?
    Vâng. Trước tiên tôi muốn nhấn mạnh rằng chúng ta đã sửa đổi Hiến pháp nhiều lần rồi mà vẫn chưa đạt yêu cầu. Nếu tính từ năm 1946 đến 1992 là 46 năm, ta đã sửa đổi lớn 3 lần vào các năm 1959, 1980 và 1992. Đó là chưa kể nhiều lần chúng ta sửa đổi nhỏ khác.

    Sửa đổi như vậy là nhiều lần rồi, song dân chưa được phúc quyết lần nào. Hiến pháp 1946 quy định dân phúc quyết Hiến pháp song dân cũng chưa được phúc quyết vì chiến tranh đã xảy ra ngay sau đó.

    Còn Hiến pháp sửa đổi 1959 lại quy định Quốc hội có quyền lập Hiến và lập Pháp. Thay đổi quan trọng đó do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân bất khả kháng là đất nước trong tình trạng chiến tranh và chia cắt hai miền Nam - Bắc; rồi chịu ảnh hưởng của mô hình cộng hòa Xô Viết,...

    Tuy vậy chúng ta cần hiểu bản chất của thể chế cộng hòa hay dân chủ cộng hòa là quyền lập hiến phải thuộc về nhân dân, mà trực tiếp là cử tri cả nước.

    Cho nên, không thể đặt Hiến pháp ngang hàng với các bộ luật khác do Quốc hội thông qua. Hiến pháp là bộ luật cơ bản, luật gốc, luật mẹ được Quốc hội lập hiến thông qua và nhân dân phúc quyết nên rất ổn định, đặc biệt là những vấn đề cơ bản của Hiến pháp, như thể chế chính trị, ai là chủ đất nước, quyền của người chủ đất nước là những gì; ai là nguyên thủ quốc gia, quyền của nguyên thủ quốc gia là những gì?; vấn đề phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước...

    Thứ hai, tôi cho rằng các lần sửa đổi Hiến pháp sau này có một vài vấn đề cốt lõi lại xa rời hoặc lại không rõ ràng bằng Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

    Ba vấn đề cốt lõi

    - Sự xa rời và không rõ ràng như ông vừa nói thể hiện ở những điểm cụ thể nào?
    Có nhiều vấn đề, ở đây tôi chỉ đề cập tới 3 vấn đề cốt lõi:

    Đầu tiên, Hiến pháp phải làm rõ AI LÀ CHỦ ĐẤT NƯỚC? NGƯỜI CHỦ ĐÓ CÓ NHỮNG QUYỀN GÌ?Với câu hỏi này, có thể nhiều người sẽ nói ngay rằng Dân làm chủ chứ ai. Đúng. Cương lĩnh của Đảng, Hiến phápPháp luật của nhà nước đều khẳng định như vậy. Quốc hiệu của Việt Nam đã ghi rất rõ: "Việt Nam Dân chủ Cộng hòa". Thể chế chính trị là Dân chủ Cộng hòa, khác hoàn toàn với Quân chủ.

    Do vậy, người chủ đất nước không phải là Vua nữa mà chính là Dân (không phân biệt thành phần, giới tính, giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo...).

    Song quy định cụ thể về quyền làm chủ trực tiếp của người dân thì còn quá ít, nhất là quyền phúc quyết Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia thì các Hiến pháp sửa đổi sau này lại ghi khác hoàn toàn với Hiến pháp năm 1946:

    Điều 21 của Hiến pháp 1946 quy định: "Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia, theo Điều 32 và Điều 70".

    Điều 32 của Hiến pháp 1946 quy định: "Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa nhân dân phúc quyết, nếu 2/3 tống số nghị viện đồng ý".

    Điều 70 của Hiến pháp 1946 quy định: "Sửa đổi Hiến pháp phải theo cách thức sau đây... Khi được nghị viên ưng chuẩn, phải đưa ra toàn dân phúc quyết".

    Những quy định trên đây của Hiến pháp 1946 có nghĩa rằng quyền lập Hiến hoàn toàn thuộc về toàn dân, thuộc về nhân dân, mà trực tiếp là cử tri cả nước.

    Hiến pháp 1946 không có một điều nào, một ý nào quy định quyền lập Hiến thuộc về Quốc hội.

    Các Hiến pháp sửa đổi sau này laị quy định Quốc hội có quyền lập Hiến:

    Điều 43, 44 và 50 của Hiến pháp 1959 ghi: "Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa", là cơ quan duy nhất "có quyền lập Pháp", có quyền "làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp".

    Điều 6 của Hiến pháp 1980 quy định:"Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân".

    Điều 82 của Hiến pháp 1980 và Điều 83 của Hiến pháp 1992 quy định: "Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập Hiến và lập Pháp"...

    Chúng ta nhận thấy ngay rằng đã có sự thay đổi rất lớn, rất cơ bản về quyền lập Hiến từ Dân đã được chuyển sang Quốc hội.

    Câu hỏi đặt ra là ai có quyền chuyển quyền đó? Câu trả lời rõ ràng là chỉ có Dân mới có quyền đó. Song Dân chưa có văn bản nào chuyển quyền lập Hiến của Dân sang Quốc hội cả, mà là do chính Quốc hội tự quyết định giao quyền lập Hiến cho mình.

    Có thể nói đơn giản thế này: Ai là người có quyền tối hậu trong lập Hiến thì người đó là người chủ đích thực của đất nước. Từ chỗ Dân làm chủ trực tiếp trong lập Hiến, chuyển sang chỗ Dân làm chủ gián tiếp thông qua Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của Dân. Như vậy có thể nói, từ Dân làm chủ đích thực chuyển sang Quốc hội thay mặt cho dân làm chủ.

    Đó là sự thay đổi, sự xa rời rất lớn, rất cơ bản về người chủ đích thực của đất nước.

    Quốc hội vừa lập hiến, vừa lập pháp, người ta gọi như thế là vừa đá bóng, vừa thổi còi.
    Dân làm chủ có nghĩa là Dân phải quyết trực tiếp thể chế quốc gia, tức là Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia, rồi Dân giao cho Nhà nước và giám sát Nhà nước (Quốc hội, Chính phủ và Tòa án) quản lý đất nước theo Hiến pháp và những quyết định đó của Dân. Như vậy Dân mới làm chủ đích thực.

    Đây là vấn đề xa rời bản chất dân chủ của nhà nước, cả về pháp lý, cả về thực tiễn. Như trên đã nói, do nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân bất khả kháng, vì vậy, chúng ta đã chuyển từ Dân chủ thành Quốc hội chủ. Song về thực chất thì Quốc hội cũng còn nhiều hình thức.

    Hiện nay khoảng 90% đại biểu Quốc hội là đảng viên. Do vậy mà nhiều người cho rằng, về hình thức thì Quốc hội quyết, song thực chất là Đảng quyết. Quyết định của Quốc hội chỉ là quyết định mở rộng trong nội bộ Đảng. Như vậy là từ Dân chủ đầy đủ chuyển sang Quốc hội chủ một phần, Dân chủ một phần, song cả Dân và Quốc hội đều còn nhiều hình thức nên nhiều người cho rằng Đảng mới thực quyền. Thực tế đó cho thấy, quyền của Dân - của người làm chủ còn bị phân tán quá lớn.

    Nói cho dễ hiểu, ai làm chủ đất nước thì người đó phải có hai điều kiện, hai quyền thực chất tối thiểu là:


    • a/ - Bầu cơ quan đại diện cao nhất cho mình ( Quốc hội ) để bầu cử ra các cơ quan Nhà nước,
    • b/ - Phúc quyết Hiến pháp để giao quyền của Dân cho các cơ quan Nhà nước thực thi.

    Chúng ta nói nhiều về Dân chủ, rằng nhân dân ta là người chủ đích thực của đất nước, rằng nhà nước ta là nhà nước của Dân, do Dân và vì Dân,... song những quyền tối hậu của người Dân thì lại chưa được quy định cụ thể và đầy đủ trong các Hiến pháp sửa đổi sau Hiến pháp 1946.

    Ngay Hiến pháp 1946 tuy đã qui định rất rõ quyền lập Hiến thuộc về nhân dân, song cũng không thực hiện được trong thực tiễn vì lý do bất khả kháng là chiến tranh đã nổ ra ngay sau đó.

    Từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến nay, nhân dân ta là người chủ đất nước, song Nhà nước ta chưa một lần nào hỏi ý kiến Dân với tính chất là trưng cầu dân ý cả. Nhân dân ta chủ yếu mới làm chủ gián tiếp thông qua các cơ quan đại diện như Quốc hội và HĐND các cấp, nhân dân mới làm chủ trực tiếp trong bầu cử trưởng thôn, bầu cử đại biểu QH và HĐND các cấp. Như vậy chưa đúng với quyền và nghĩa vụ của người Dân trong thể chế Dân chủ Cộng hòa trong điều kiện hòa bình và thống nhất đất nước như hiện nay.

    Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
    Nếu Dân được phúc quyết Hiến pháp thì Hiến pháp chính là văn bản pháp lý quan trọng nhất của Dân trao quyền lực của Dân cho Nhà nước.

    Ngược lại, nếu Dân chưa được phúc quyết Hiến pháp thì cũng có nghĩa là Dân chưa trao quyền lực của Dân cho Nhà nước bằng một văn bản pháp lý cao nhất là Hiến pháp.

    Sửa đổi Hiến pháp lần này cần giao lại quyền phúc quyết cho dân như Hiến pháp 1946 đã quy định cho đúng với bản chất của thể chế cộng hòa hoặc dân chủ cộng hòa, hoặc cộng hòa xã hội chủ nghĩa.
    - Vấn đề cốt lõi thứ hai ở đây là gì?

    Đó là việc xác định: AI LÀ NGUYÊN THỦ QUỐC GIA? VÀ NGƯỜI ĐÓ CÓ NHỮNG QUYỀN GÌ?
    Vấn đề này Hiến pháp 1946 ghi rất rõ, và Nhà nước ta khi đó thực hành cũng rất tốt.

    Các Hiến pháp sửa đổi sau này lại không rõ ràng bằng Hiến pháp 1946, và trong thực hành cũng rất lúng túng.

    Theo quy luật tự nhiên, đàn chim bao giờ cũng có chim đầu đàn, đàn trâu bao giờ cũng có trâu đầu đàn, dàn nhạc phải có nhạc trưởng,... Với một quốc gia cũng vậy, quốc gia nào cũng phải có một nguyên thủ.

    Về quy định này, tại Điều 49 của Hiến pháp 1946 ghi cụ thể về quyền của Chủ tịch Nước như sau:


    • a, Thay mặt cho Nước...
    • b, Giữ quyền tổng chỉ huy quân đội toàn quốc...
    • c, Ký sắc lệnh bổ nhiệm Thủ tướng....
    • d, Chủ tịch Hội đồng Chính phủ ...
    • ...................
    • h, Ký hiệp ước với các nước....

    Và Điều 50 của Hiến pháp 1946 cũng ghi: "Chủ tịch Nước không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc".

    Những quy định của Hiến pháp 1946 rất ngắn gọn, rõ ràng rằng Chủ tịch Nướcnguyên thủ quốc gia, đại diện cho Nhà nước về đối nội, đối ngoại; thống lĩnh các lực lượng vũ trang; và cũng là người đứng đầu cơ quan hành pháp là Chính phủ.

    Nói cho dễ hiểu, nguyên thủ quốc gia phải có ba điều kiện, ba quyền thực chất tối thiểu như sau:


    • a, Thay mặt cho Nhà nước về đối nội cũng như đối ngoại,
    • b, Đứng đầu cơ quan hành pháp,
    • c, Thống lĩnh lực lượng vũ trang,

    Các Hiến pháp sửa đổi sau này (1959, 1980, 1992) đều giảm nhẹ vai trò của Chủ tịch Nước, không rõ thực chất quyền của một nguyên thủ quốc gia. Điều đó không phải lỗi của vị Chủ tịch nước nào, mà chẳng qua là do các Hiến pháp sửa đổi sau này quy định như vậy:

    Điều 6 của Hiến pháp 1959 quy định: "Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là người thay mặt cho Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về đối nội và đối ngoại".

    Điều 65 của Hiến pháp 1959 quy định: "Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thống lĩnh các lực lượng vũ trang trong toàn quốc, giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng", song thực chất Tổng Bí thư mới là người thống lĩnh các lực lượng vũ trang.

    Điều 66 của Hiến pháp 1959 quy định: "Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi xét thấy cần thiết thì triệu tập và Chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Chính phủ". Quy định như vậy là làm giảm nhẹ hẳn vai trò của Chủ tịch Nước trong cơ quan hành pháp so với Hiến pháp 1946.

    Như vậy, các Hiến pháp sửa đổi sau này đều quy định không rõ ràng và không tập trung quyền của Chủ tịch nước bằng Hiến pháp 1946. Rõ ràng không có ai hội đủ ba điều kiện, ba quyền thực chất tối thiểu của một nguyên thủ quốc gia như Hiến pháp 1946.

    Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương thống lĩnh lực lượng vũ trang song về pháp lý lại không thay mặt cho nhà nước về đối nội cũng như đối ngoại, cũng không đứng đầu cơ quan hành pháp.

    Thủ tướng Chính phủ đứng đầu Chính phủ nhưng lại không đứng đầu đầy đủ cơ quan hành pháp và cũng không thống lĩnh lực lượng vũ trang.

    Chủ tịch Nước thay mặt cho nhà nước về đối nội và đối ngoại nhưng trong thực tiễn lại không thống lĩnh lực lượng vũ trang, cũng như không đứng đầu đầy đủ cơ quan hành pháp.

    Chúng ta dễ dàng nhận thấy ngay rằng quyền lực của một nguyên thủ quốc gia lại bị phân tán làm ba nơi, do ba người nắm giữ. Tức là ta có ba người thực thi quyền của một nguyên thủ trong điều hành thực tiễn, như thế có phân tán quyền của nguyên thủ quốc gia không? Tôi cho là quá phân tán.

    Tới đây, chúng ta phải sửa đổi bổ sung Hiến pháp làm sao để chỉ có một nguyên thủ quốc gia, tập trung quyền hành pháp vào người đứng đầu để điều hành đất nước có hiệu lực và hiệu quả hơn.
    Việc không rõ nguyên thủ quốc gia, không rõ con chim đầu đàn, không rõ nhạc trưởng, hậu quả thế nào thật dễ hiểu, dễ thấy.

    - Và vấn đề cốt lõi thứ ba?
    Đó là VẤN ĐỀ PHÂN CÔNG VÀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC. Phân công phải hướng tới cân bằng tương đối, phải rõ ràng, rành mạch; kiểm soát phải có chế tài, phải chặt chẽ, hiệu lực.

    Phân công phải cân bằng thì mới có khả năng kiểm soát hiệu lực, kiểm soát hiệu lực nằm ngay trong sự phân công công bằng.

    Nhìn lại lịch sử của thể chế quân chủ cho thấy, quyền lực tập trung vào nhà Vua, mà quyền lực bao giờ cũng có xu hướng lạm quyền, thoái hóa... Do đó mà triều đại nào lên, lúc đầu thường là được lòng người, sau lại thoái hóa, lại bị triều đại sau thay thế. Những sự thay thế đó thường diễn ra khi triều đại cũ đã quá thối nát, quá cản trở sự phát triển của xã hội và thường bị thay thế bằng bạo lực.

    Chính vì thế mà thể chế cộng hòa hay dân chủ cộng hòa đã áp dụng sự phân công cân bằng và kiểm soát quyền lực để chống độc quyền, hạn chế sự lạm quyền và khi cần thì thay thế ê kíp cầm quyền một cách chủ động, kịp thời, thông qua tranh cử nghị viện.

    Quyền lực dưới thể chế cộng hòa hay dân chủ cộng hòa không tập trung vào một người hay một lực lượng, cơ quan nào, mà phân công tương đối cân bằng cho ba cơ quan: Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp (Quốc hội - Chính phủ - Tòa án): Quốc hội là cơ quan lập pháp cao nhất, Chính phủ là cơ quan hành pháp cao nhất, và Tòa án là cơ quan xét xử cao nhất.

    Nghiên cứu kỹ các Hiến pháp sửa đổi sau này (1959, 1980, 1992) thì thấy rằng những quy định để cân bằng và kiểm soát quyền lực lại không được rõ ràng và cân bằng như Hiến pháp 1946.

    Ví dụ, Quốc hội có quyền lập Hiến, điều đó có nghĩa rằng quyền lực của Quốc hội vượt trội quá lớn so với các cơ quan hành pháp và tư pháp. Quốc hội có quyền phân công quyền lực cho cả các cơ quan hành pháp và tư pháp, và cho cả chính mình.

    Đúng ra, quyền lập Hiến phải là quyền của Dân chứ không phải của Quốc hội. Do đó mà quyền của Dân cũng bị phân tán và yếu thế, không đúng với quyền của người làm chủ.

    Hoặc quyền của nguyên thủ quốc gia bị phân tán ở ba nơi, điều đó cũng có nghĩa là quyền lực của cơ quan hành pháp quá yếu thế so với cơ quan lập pháp.

    Còn quyền lực của cơ quan tư pháp thì sao? Trong thực tiễn thì nó yếu thế hơn các cơ quan lập pháp và hành pháp và còn bị chi phối trong xét xử.

    Chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, phân công quyền lực không cân bằng, không rõ ràng thì sự kiểm soát sẽ không có hiệu lực và hiệu quả. Tình trạng tham ô, lãng phí, quan liêu, cơ hội là những biểu hiện của sự lạm quyền và thoái hóa quyền lực rõ ràng nhất. Nó cũng là hậu quả của sự phân công và kiểm soát quyền lực chưa được cân bằng như quy định của Hiến pháp 1946.

    Cân bằng và kiểm soát quyền lực là một cơ chế cực kỳ quan trọng trong Hiến pháp nhằm tránh sự lạm quyền và thoái hóa mà trong thể chế quân chủ chuyên chế đã bất lực. Tất nhiên không thể nói tuyệt đối được, vì thể chế nào cũng phải thông qua con người cụ thể. Nhưng có một cơ chế cân bằng và kiểm soát quyền lực cho ba cơ quan Nhà nước, sẽ tốt hơn rất nhiều so với cơ chế tập trung quyền lực vào một ông vua, hoặc vào bất kỳ một lực lượng, một cơ quan nào khác.

    Cân bằng và kiềm soát quyền lực là một sự tiến bộ về khoa học và nghệ thuật cầm quyền, là một bước tiến của văn minh nhân loại về quyền lực nhà nước. Chính vì vậy, sửa đổi bổ sung Hiến pháp lần này phải quan tâm để làm rõ ràng hơn, hoàn thiện tốt hơn sự phân công cân bằng và kiểm soát quyền lực Nhà nước.
    - Thưa ông, có ý kiến cho rằng, Hiến pháp 1946 và các Hiến pháp được sửa đổi bổ sung sau này của Việt Nam không theo một khuôn mẫu nào của thế giới, có đúng vậy không?
    Theo tôi, nói công bằng hơn thì chỉ có các Hiến pháp được sửa đổi, bổ sung sau này (1959, 1980, 1992) là theo khuôn mẫu của cộng hòa Xô Viết, nó không gần với những khuôn mẫu chung của thế giới và có một số quy định cốt lõi lại xa rời với Hiến pháp 1946.

    Riêng Hiến pháp 1946 vẫn nằm trong ba hình thức phổ biến của thế giới có nền thể chế cộng hòa hoặc dân chủ cộng hòa:



    Hiến pháp 1946 của nước ta nằm trong loại hình tổ chức thứ ba. Các Hiến pháp sửa đổi, bổ sung sau này có một số vấn đề hệ trọng lại xa rời, hoặc không rõ ràng bằng Hiến pháp 1946, ví dụ như vấn đề cân bằng và kiểm soát quyền lực, vấn đề tập trung quyền của nguyên thủ quốc gia, vấn đề dân phúc quyết Hiến pháp,...

    Như vừa rồi tôi đã nói, thực ra lịch sử của Nhà nước nói chung mới có hai loại thể chế: Thể chế Quân chủ và thể chế Dân chủ. Mỗi thể chế đó cũng có những quá trình vận động và có những khác biệt tùy theo sự phát triển, điều kiện và con người lịch sử cụ thể.

    Cũng có thể Hiến pháp ghi nền thể chế là Cộng hòa hay Dân chủ Cộng hòa, song thực chất vẫn là chuyên chế, không phải là quân chủ chuyên chế mà là tập thể chuyên chế. Đó là sự biến tướng, tiếm quyền. Tức là về mặt hình thức có thể là Cộng hòa hay Dân chủ Cộng hòa, song về thực chất vẫn có thể là chuyên chế.

    - Tóm lại, ông muốn gửi gắm điều gì trong lần sửa đổi Hiến pháp sắp tới?
    Tôi muốn gửi gắm nhiều điều, muốn được trở lại rất nhiều điểm tiến bộ, hiện đại của Hiến pháp 1946. Đó là những vấn đề về: Dân chủ, Cộng hòa, Độc lập, Tự do, Hạnh phúc.

    Trên đây tôi chỉ nhấn mạnh có ba vấn đề:


    • 1/- Dân được quyền phúc quyết Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, để cho đúng nghĩa với thể chế Dân chủ Cộng hòa, Dân là chủ đích thực của đất nước.
    • 2/- Quyền của nguyên thủ quốc gia cần được tập trung hơn, nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý, điều hành của cơ quan hành pháp.
    • 3/- Phân công và kiểm soát quyền lực cần được cân bằng hơn, nhằm phòng ngừa sự lạm quyền và thoái hóa quyền lực, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu và cơ hội trong hệ thống chính trị.

    Tôi hy vọng tới đây, nhân dân ta sẽ được hưởng quyền và làm nghĩa vụ của người chủ đích thực của đất nước là: Tham gia ý kiến và phúc quyết sửa đổi Hiến pháp lần này.

    - Xin cám ơn ông!

    [URL]http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-06-24-cuu-chu-tich-quoc-hoi-ban-viec-sua-hien-phap
    Tiến tới Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam xin giới thiệu bài viết của PGS, TS Văn Đức Thanh, Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự - Bộ Quốc phòng, với tiêu đề: "Dân là chủ" và "Dân làm chủ" trong thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

    Tiếp cận dân chủ theo quan điểm mác-xít thì có thể thấy, sự xuất hiện của dân chủ nói chung, cũng như sự thay thế lẫn nhau của các hình thức dân chủ trong lịch sử nói riêng, là quy luật tất yếu do các nhu cầu kinh tế, xã hội và giai cấp quy định, và dân chủ không bao giờ tách khỏi chuyên chính. Đó là một trong những vấn đề có tính nguyên tắc rất quan trọng khi tiếp cận dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Đó cũng là một trong những vấn đề mấu chốt để bác bỏ những luận điệu của các thế lực thù địch đang xuyên tạc rằng, dường như ở Việt Nam hiện nay không có nền dân chủ, rằng những giá trị dân chủ hầu như chưa hề xuất hiện ở Việt Nam bởi chưa trải qua sự phát triển tư bản chủ nghĩa, rằng dân chủ chỉ là những bánh vẽ trang trí cho chế độ đảng trị ở Việt Nam hiện nay…

    Tuy nhiên, khi tiếp cận dân chủ nói chung, cũng như dân chủ xã hội chủ nghĩa nói riêng, cần chú ý đến sự phân định dân chủ trong tư cách một thể chế xã hội với dân chủ trong tư cách một hệ thống động thái xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng diễn đạt điều đó bằng một ý niệm đầy hình ảnh nhưng cũng rất dễ hiểu: dân chủ bao gồm dân là chủ và dân làm chủ. Dân là chủ nói lên thể chế chính trị xã hội ấy về bản chất là một thể chế dân chủ. Còn dân làm chủ nói lên sự thực hành dân chủ, là sự thể hiện trong thực tiễn đời sống xã hội cái bản chất dân chủ của thể chế xã hội ấy. Thể chế dân chủ được hình thành, xác lập mới chỉ là tiền đề, để cho tiền đề ấy trở thành hiện thực thì dân chủ phải được thấm sâu vào mọi động thái xã hội. Chính vì vậy mà đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hành dân chủ mới là khâu quyết định.

    Trong xã hội có phân chia giai cấp, dân chủ và chuyên chính, với tư cách những khía cạnh thể hiện bản chất của chế độ chính trị - nhà nước, là hai mặt của cùng một vấn đề. Các thể chế dân chủ bao giờ cũng mang nội dung giai cấp, và thực chất dân chủ là một hình thái thực hiện nền chuyên chính của giai cấp thống trị. Chuyên chính cũng là một hình thái khác thực hiện nền chính trị, song được xây dựng thành sức mạnh bảo đảm quyền dân chủ của giai cấp đó và triệt thoái sự phản kháng của giai cấp, tầng lớp xã hội chống đối. Cho nên, dân chủ tách khỏi chuyên chính thì chỉ là dân chủ trừu tượng, phi thực tế, bị tước mất cơ sở tồn tại cốt yếu của nó là nội dung giai cấp, còn chuyên chính tách khỏi dân chủ thì chỉ là chuyên chính độc tài, quân phiệt, chuyên chế... và sớm muộn sẽ bị diệt vong. Mặt trội hơn của dân chủ hoặc chuyên chính không do ý chí chủ quan của giai cấp thống trị mà chủ yếu do tương quan lực lượng giữa các giai cấp đối lập, sự phù hợp ít hay nhiều về lợi ích cơ bản của các giai cấp liên minh. Song, suy đến cùng, công cụ bạo lực của giai cấp thống trị chỉ đạt tới hiệu lực cao nhất khi có thể và được thực hiện bằng dân chủ. Chính vì thế mà hệ tư tưởng thống trị trong xã hội là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị, nhưng giai cấp thống trị luôn "biểu hiện những tư tưởng đó thành những tư tưởng duy nhất hợp lý, duy nhất có giá trị phổ biến".

    Trong lịch sử, sự xuất hiện các giai cấp đối kháng đầu tiên là chủ nô và nô lệ cũng là sự xuất hiện dân chủ chủ nô với tính cách chính thể cho toàn thể công dân (bởi nô lệ lúc đó không được coi là công dân). Chế độ phong kiến xuất hiện đã đem thay chính thể dân chủ bằng chính thể chuyên chế phong kiến, một chính thể dị ứng với mọi thứ dân chủ, kể cả dân chủ cho tầng lớp quý tộc (mà về sau tới hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa còn được tái hiện ở chủ nghĩa phát-xít và một số nhà nước độc tài khác). Chính vì thế mà khi cách mạng tư sản dẫn đến sự ra đời dân chủ tư sản, thì gây ra ảo tưởng và vọng tưởng về nhà nước nhân dân vĩnh cửu, nhà nước mà trong đó không cần đến bàn tay của chuyên chính nữa. Song, thực tiễn lịch sử đã bác bỏ điều đó, bởi vì mọi thể chế dân chủ, kể cả dân chủ xã hội chủ nghĩa khi thay thế dân chủ tư sản và là "dân chủ gấp triệu lần" dân chủ tư sản, đều là những chính thể thực hiện quyền thống trị xã hội của một giai cấp nhất định, là một phương diện của của nền chuyên chính. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ mới, do sự phù hợp cơ bản giữa lợi ích của giai cấp thống trị là giai cấp công nhân với lợi ích của toàn xã hội mà trước hết là nhân dân lao động. Đó là dân chủ mang tính chất xã hội về cơ bản là thuần nhất, trên cơ sở nguyên tắc mọi quyền lực nhà nước đều của dân, do dân, vì dân, là dân chủ triệt để do mục tiêu giải phóng con người và xét đến cùng nhằm tiến tới một chế độ xã hội không còn đối kháng giai cấp và bản thân sự phân chia giai cấp. Đồng thời, khi nền dân chủ ấy càng tiến đến trình độ triệt để thì nó sẽ "tự tiêu vong" cùng với sự tiêu vong của chuyên chính vô sản.

    Đối với nước ta, có thể thấy dân chủ, với tính cách một hệ thống động thái xã hội, đã từng xuất hiện rất lâu, mặc dù chế độ phong kiến về cơ bản không phải một chế độ xã hội được xác lập theo thể chế dân chủ. Một trong những nét đặc sắc của văn hoá tổ chức xã hội của dân tộc ta là truyền thống dân chủ, cố kết cộng đồng: nhà nước phong kiến thực hiện chuyên chính (song trong rất nhiều trường hợp vẫn sử dụng phương pháp dân chủ nếu cần), còn làng xã cơ bản là thực hiện dân chủ (tất nhiên không hoàn toàn loại trừ tính cưỡng chế). Và không thể không nhấn mạnh rằng, trong những đặc trưng đó còn ẩn chứa những yếu tố gây tác động tiêu cực đối với đời sống xã hội.

    Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước ta trở thành một nước dân chủ. Tất nhiên, lúc đầu mới chỉ là thời kỳ "nhà nước công nông làm nhiệm vụ của chuyên chính vô sản", cho nên việc xác định chức năng nhiệm vụ của nhà nước tất nhiên chưa thể đầy đủ, toàn diện mà mới chỉ tập trung vào nhiệm vụ bảo vệ thành quả cách mạng. Lúc này, sự phản kháng của giai cấp bóc lột vừa bị đánh bại về mặt chính quyền nhà nước vẫn là nguy cơ trực tiếp; theo đó thì nhà nước chỉ có nghiêng về chức năng xã hội - chính trị như vậy mới được tạo lập, định hình, củng cố và phát triển. Cũng trong thời kỳ xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân, khi nền chuyên chính đã được củng cố tương đối vững chắc, trình độ văn hoá pháp luật và văn hoá dân chủ của nhân dân đã bước đầu được định hình, thì vấn đề cần tập trung giải quyết là mở rộng và củng cố, phát huy dân chủ. Song nhìn chung, việc thực hiện dân chủ lúc này chủ yếu được bảo đảm bằng đạo lý, chứ chưa phải bằng pháp lý.

    Tình trạng đó kéo dài cho đến thời kỳ đầu xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta, khi mà việc tập trung giải quyết nhu cầu độc lập dân tộc và tạo lập cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu cho chủ nghĩa xã hội đòi hỏi chúng ta buộc phải thực hiện cơ chế quản lý hành chính bao cấp. Cơ chế quản lý hành chính - bao cấp là một thực tế khách quan, cho nên cũng kéo theo một thực tế khách quan khác là quá trình xây dựng Nhà nước nghiêng về những khía cạnh thuần chính trị, nhà nước hoá các quan hệ dân sự, Nhà nước làm thay cho dân, người dân chỉ việc "hưởng" dân chủ. Cùng với quá trình phát triển nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhất là từ khi cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội, thì quá trình thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã được từng bước phân định về mặt nhận thức lý luận một cách khá rõ nét. Song, nhân dân mới chỉ được tổ chức thực hiện quyền làm chủ nhà nước chủ yếu bằng dân chủ đại diện, còn hình thức dân chủ trực tiếp thường được thực hiện ở phạm vi làng xã. Về phương diện thực hiện chuyên chính của bộ máy nhà nước, cũng còn rất nhiều vấn đề rất bất cập, trước hết là sự "lùng nhùng" giữa luật và "lệ", và cùng với đó là sự nhầm lẫn tai hại giữa chức năng xã hội - chính trị và xã hội - dân sự của Nhà nước ta trong giai đoạn này.

    Trong tình hình hiện nay, trước những biến động to lớn diễn ra trong đời sống xã hội và tình hình thế giới, khu vực, vai trò của nhân dân trong phát huy dân chủ và chuyên chính ngày càng trở nên có ý nghĩa quyết định quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta. Sự nghiệp đổi mới đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" đang đứng trước nhiều thời cơ hết sức thuận lợi, nhưng cũng đầy nguy cơ và thách thức. Một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp ấy chính là phải xây dựng cho được Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân, đủ sức tổ chức xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời quản lý đất nước một cách vững vàng. Song, chỉ có thể thực hiện được điều đó khi phát huy đầy đủ vai trò ngày càng tăng của toàn thể nhân dân. Cần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng: "Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng".

    Trong đời sống xã hội hiện nay, xu thế nhà nước ngày càng có quan hệ chặt chẽ với xã hội dân sự là xu thế khách quan và trở nên phổ biến, bởi trình độ dân trí ngày càng cao nên nhà nước nào nắm được dân sẽ tồn tại một cách vững chắc và có sức mạnh hiện thực trong quản lý xã hội. Chính vì vậy, mọi biểu hiện của xu thế "xa" dân, thoát ly đời sống xã hội tất yếu dẫn đến tình trạng nhà nước ngày càng trở nên quan liêu, không quản lý nổi xã hội. Ngược lại, xu hướng quá gần đến mức "lẫn" với dân, kỷ cương pháp luật không nghiêm, nhà nước trở nên "mất thiêng" hoặc "làm thay" cho các tổ chức cộng đồng… cũng trở nên bất lợi đối với nhà nước.

    Để nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước thông qua thực hiện dân chủ và chuyên chính trong tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền các cấp hiện nay, cần phải thấu triệt mối quan hệ không thể tách rời giữa dân chủ trong tư cách một thể chế xã hội - dân là chủ - với dân chủ trong tư cách một hệ thống động thái xã hội - dân làm chủ. Mối quan hệ ấy phải được thực hiện trong sự thống nhất ở tất cả các phương diện đời sống xã hội, từ hoàn thiện thể chế chính trị đến phát triển kinh tế, xây dựng văn hoá - xã hội, củng cố quốc phòng và an ninh... Dân chủ và chuyên chính cũng phải được thực hiện trong sự thống nhất trong tất cả các hình thức tổ chức cộng đồng, vĩ mô và vi mô, hệ thống chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội - dân sự, tổ chức đơn vị hành chính và cơ sở sản xuất kinh doanh... Đồng thời, phải thực hiện và phát huy vai trò của dân chủ và chuyên chính với tất cả các trình độ kết hợp giữa chúng: kết hợp với tư cách thể chế xã hội, kết hợp với tư cách định hướng hoạt động của một tổ chức, kết hợp với tư cách là một biện pháp của công tác tổ chức trong một lĩnh vực xã hội...

    Để thực hành dân chủ, tức là làm nổi bật khía cạnh dân chủ trong tư cách một hệ thống động thái xã hội, nhất thiết cần giải quyết cho được hệ vấn đề cơ bản là: dân muốn làm chủ - dân dám làm chủ - và dân biết làm chủ. Trong lịch sử chế độ phong kiến ở nước ta, mỗi khi triều đình thực sự "quán" được cái ý nghĩa của đạo lý "dĩ dân vi bản" trong chính sách của mình thì chế độ sẽ hưng thịnh, nước vững dân an. Và ngược lại, khi trên không thuận lẽ trời, dưới không hợp lòng dân thì dù có binh hùng, tướng mạnh vẫn không thể tồn tại. Ngày nay, vai trò của nhân dân ta trong phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa càng trở nên cực kỳ quan trọng đối với quá trình đổi mới, xây dựng, phát triển toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tất nhiên cần thấy, từ tư tưởng "dĩ dân vi bản" dưới các triều đại phong kiến đến quan điểm "dân là gốc " trong thời đại Hồ Chí Minh không chỉ là sự kết nối lịch sử đặc sắc của dân tộc ta, mà còn là sự kết nối chứa đựng bước nhảy vọt về chất. Đó là đạo lý "dĩ dân vi bản" được hoàn thiện đến trình độ tự giác. Nhà nước ta có vững vàng hay không tuỳ thuộc vào nhân dân tự giác thực hiện dân chủ và chuyên chính xã hội chủ nghĩa như thế nào, trước hết là việc người dân nhìn nhận các khía cạnh bản chất ấy của nhà nước trong mối quan hệ không thể tách rời ra sao.

    Thực tiễn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như những thành tựu và các mặt còn bất cập trong sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vừa qua đã cho thấy, chỉ khi thực sự thấm nhuần đạo lý "dân là gốc" thì chúng ta mới giải quyết được một cách đầy đủ và khoa học tất cả các vấn đề bất cập, phát huy được những thành tựu để phát triển đất nước và xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân. Song trước hết, người dân phải hiểu được dân chủ xã hội chủ nghĩa là gì, có ý nghĩa gì đối với cuộc sống của họ và khác biệt về bản chất so với dân chủ tư sản ra sao. Có nâng cao được nhận thức ấy thì dân mới thực sự "là gốc", thực sự tha thiết với dân chủ xã hội chủ nghĩa nhờ tìm thấy sự gắn bó lợi ích của mình với nền dân chủ ấy. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chỉ vững vàng khi nhân dân tự giác thực hiện quyền và lợi ích gắn liền với nghĩa vụ và trách nhiệm; chuyên chính gắn liền với dân chủ và thể hiện dân chủ, cũng như dân chủ gắn liền với chuyên chính và thực hiện chuyên chính. Từ xuất phát điểm ấy, có thể tìm ra rất nhiều hình thức phong phú, đa dạng nhằm hiện thực hoá dân chủ xã hội chủ nghĩa.

    Đặc biệt, nói đến thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa hiện nay thì không chỉ đơn thuần nói đến vai trò của nhân dân trong xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị, trong nắm vững những công cụ chuyên chính, đặc biệt là pháp luật, mà còn phải nói đến vai trò tự quản của nhân dân thông qua các định chế xã hội được họ tự nguyện lập nên. Các tổ chức xã hội - chính trị (trước đây gọi là các đoàn thể quần chúng), do Đảng tổ chức và lãnh đạo để tập hợp lực lượng cách mạng, đã từng trải qua nhiều thử thách trong đấu tranh cách mạng nên thuần nhất và vững vàng về chính trị. Cùng với các tổ chức ấy, trong thời kỳ đổi mới, các tổ chức xã hội - dân sự cũng đang được hình thành và phát triển mạnh mẽ. Song, tất cả các tổ chức đó đều phải được định hướng một cách chặt chẽ, nếu không muốn làm cho vai trò tự quản của nhân dân lệch sang tình trạng "vô chính phủ" hoặc bị "nhà nước hoá".

    Phát huy được vai trò của nhân dân trong thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa xét đến cùng là cốt lõi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện nhà nước pháp quyền cũng như vậy. Bởi vì, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực chất là tổ chức cho nhân dân thực hiện đúng đắn và đầy đủ pháp chế xã hội chủ nghĩa bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước. Tuy nhiên, nhân dân còn thể hiện một cách trực tiếp vai trò của mình ở quá trình thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Phát huy vai trò "dân là gốc" thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay biểu hiện đậm nét trong việc ban hành Hiến pháp, pháp luật cũng như tham gia trực tiếp vào công việc quản lý nhà nước. Hệ thống Hiến pháp, pháp luật xã hội chủ nghĩa là Hiến pháp, pháp luật mới về chất so với các chế độ xã hội trước, xét về tất cả mọi phương diện như lập trường quan điểm tư tưởng chính trị - giai cấp, cách thức điều tiết xã hội - dân sự, tính chất dân chủ và chuyên chính. Do có sự thống nhất các chức năng xã hội - chính trị và xã hội - dân sự nên quá trình Nhà nước ta ban hành và tổ chức thực hiện Hiến pháp, pháp luật luôn được đặt trên cơ sở phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong phạm vi toàn xã hội và ở mọi phương diện đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hoá, đạo đức, lối sống, phong tục, tập quán...

    Quá trình tổ chức xây dựng chính quyền nhà nước các cấp thực sự là của dân, do dân, vì dân cũng là một vấn đề thực tiễn quan trọng vừa đặt ra đòi hỏi vừa thúc đẩy vai trò "dân là gốc" trong thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhân dân không chỉ xây dựng nên nhà nước, xây dựng nên hệ thống pháp luật mà còn trực tiếp tham gia vào công việc quản lý nhà nước. Với phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", các cơ quan dân cử được tổ chức theo hệ thống dọc và ngày càng phát triển, hoàn thiện; đồng thời nhà nước ngày càng tạo ra mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia dân chủ trực tiếp bằng các thiết chế tự quản. Điều đó vừa là sự biểu hiện, vừa là những nhân tố quan trọng hàng đầu thúc đẩy sự hoàn thiện mối quan hệ giữa Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với đời sống xã hội dân sự.
    Link nguồn: [URL]http://daihoi11.dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=28340689&cn_id=400915 


    "Công việc của đất nước mà lọt vào tay một số người nào đó, người dân không biết gì cả thì không thể dân chủ được. Dân chủ là người dân được hưởng quyền tự do dân chủ nhưng đồng thời một trong những quyền đó là quyền tham gia vào những công việc của xã hội, tham gia quyết định công việc xã hội", nguyên Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc nói tại bàn tròn trực tuyến.

    LTS: Nhân kỉ niệm 65 năm Quốc khánh, Tuần Việt Nam trích thuật tiếp phần 2 nội dung bàn tròn trực tuyến với nguyên Bộ trưởng Tư pháp, Đại biểu Quốc hội Nguyễn Đình Lộc như một suy ngẫm, góc nhìn đáng tham khảo về những bước đi của Đất nước - Dân tộc trên con đường hiện thực hóa những tư tưởng và mục tiêu cao đẹp về một Việt Nam Dân chủ - Độc lập - Tự do - Hạnh phúc mà Bác Hồ đã long trọng tuyên bố trước muôn triệu người dân cũng như bạn bè thế giới sáu mươi lăm năm về trước.

    Như ông Nguyễn Đình Lộc nhiều lần nhấn mạnh, những góc nhìn của ông có thể đôi chỗ "khó nghe" hoặc cần phải tranh luận thêm, nhưng ông cũng mạnh dạn đưa ra, với tư cách một người gắn bó máu thịt với chế độ này, như một sự xới xáo vấn đề một cách nghiêm túc, trên tinh thần tôn trọng ý kiến khác biệt mà Đảng luôn kêu gọi.

    Phải đổi mới căn bản cơ chế bầu cử hiện nay

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Ông cho rằng chúng ta phải hiểu đúng và phải thực thi dân chủ, phải làm dân chủ một cách thực chất, vậy theo ông chúng ta phải thực thi bằng cách nào, và bắt đầu từ đâu?
    Ông Nguyễn Đình Lộc: Khi nói đến dân chủ, trước hết là nói đến những quyền tự do dân chủ của người dân.

    Hẳn nhiều người còn nhớ, ngày mồng 3/9 khi chính phủ đầu tiên họp, Bác Hồ đã nêu những nhiệm vụ cần làm ngay, trong đó có một ý rằng phải có một Hiến pháp, nhưng nhiều người lại chưa chú ý rằng Bác không nói Hiến pháp nói chung mà Bác đã nói rất kỹ rằng: "Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ". Cái chữ dân chủ là cơ bản.

    Sau đó chính Bác là người tổ chức xây dựng Hiến pháp mới, Hiến pháp đầu tiên của nước ta, và xét về quyền tự do dân chủ của dân, thì Hiến pháp 46 cho đến giờ là một mẫu mực. Có thể nói bất cứ quyền gì mà trình độ tiến bộ thế giới về mặt dân chủ lúc bấy giờ người dân có thể được hưởng thì Hiến pháp 46 đều quy định, không thiếu quyền gì.

    Bây giờ, chúng ta cứ nói nhiều đến Hiến pháp 46, một trong những lý do cơ sở cũng là vì đó là lần đầu tiên VN có Hiến pháp, mà Hiến pháp đó lại có nội dung về mặt dân chủ rất hoàn chỉnh, rất đầy đủ quyền tự do dân chủ của người dân.

    Nhưng nói dân chủ thì không đơn thuần là những quyền như thế mà còn là mối quan hệ giữa nhà nước với người dân. Cơ chế người dân hưởng quyền dân chủ, đồng thời còn có thể tham gia vào việc quyết định công việc của đất nước. Vấn đề này rất cơ bản. Công việc của đất nước mà lọt vào tay một số người nào đó, người dân không biết gì cả thì không thể dân chủ được. Dân chủ là người dân được hưởng quyền tự do dân chủ nhưng đồng thời một trong những quyền đó là quyền tham gia vào những công việc của xã hội, tham gia quyết định công việc xã hội.

    Nhưng, chúng ta có hơn 86 triệu dân, hoặc như Trung Quốc hơn 1,3 tỷ dân, nếu nói rằng người dân có quyền giải quyết, quyết định công việc đất nước, nhưng 86 triệu hay 1,3 tỷ dân như vậy thì giải quyết thế nào? Cho nên chúng ta phải có cái gọi là dân chủ đại diện, tức là người dân để thực hiện quyền quyết định công việc đất nước của mình chọn ra một số người, bầu ra một số người, giao quyền quyết định cho họ, từ đó mới có chế độ đại diện và mới có Quốc hội. Quốc hội chính là cơ quan thay mặt cho dân, được dân chọn ra và thay mặt cho dân quyết định công việc đất nước. Tức là quyền vẫn là quyền của dân chứ không phải quyền của đại biểu.

    Lâu nay, người ta nói Hiến pháp hiện hành của chúng ta có vấn đề vướng, ví dụ nói "tất cả quyền lực thuộc về nhân dân". Nói như thế đúng quá! Nhưng vấn đề là có quyền lực rồi thì anh làm gì, anh thực hiện quyền lực đó như thế nào? Chúng ta vẫn nói rằng là tất cả quyền lực thuộc về nhân dân nhưng thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Nói 2 câu ấy cũng đúng! Nhưng thực chất như thế nào?

    Vấn đề rất lớn hiện nay chúng ta phải giải quyết, theo tôi hiểu, đó chính là làm thế nào cho chế độ đại diện bầu cử phải thực sự trở thành cơ chế thực sự dân chủ, mặt này chúng ta làm được còn nhiều hạn chế. Chuyện này tôi đã nói ở nhiều nơi, nhưng hôm nay, tại đây, tôi nói chính thức rằng nếu không cẩn thận thì chính chúng ta đang chơi trò chơi dân chủ. Vì sao?

    Tôi đã 75 tuổi rồi, đi bầu cử rất nhiều lần, đã thấy chúng ta bầu Quốc hội như thế nào? Đến ngày bầu cử, chúng ta vào phòng bỏ phiếu; chúng ta được xem một danh sách ứng cử viên; chúng ta cũng đọc lý lịch ông này, bà kia; rồi chúng ta chọn... như thế là dân chủ quá rồi còn gì nữa. Nhưng thực ra đó cũng chưa phải là dân chủ, ở chỗ cái danh sách đó: Ai đưa ra? Đó là Mặt trận tổ quốc, là Ban bầu cử; Nhưng danh sách đó ở đâu ra?.... Nhiều khi hỏi anh em, anh em cũng giật mình, bản thân mình cũng giật mình, là khi sáng bầu xong, tối vui miệng hỏi nhau bầu cho ai thì không mấy ai còn nhớ.

    Và suốt 5 năm cuả nhiệm kỳ đó, mấy ai trong chúng ta gặp lại đại biểu do mình bầu không? Trước và sau mỗi kỳ họp Quốc hội, các đại biểu đều có gặp gỡ và báo cáo tiếp xúc cử tri, nhưng đó cũng là cuộc gặp của những người lựa chọn. Sau lưng từng đại biểu Quốc hội, từng đại biểu Hội đồng nhân dân là hàng vạn cử tri. Nhưng có bao nhiêu người được lựa chọn ra cái danh sách đó.

    Chính các nhà báo hỏi tôi: người dân có vấn đề gì thì nghĩ đến ai? có nghĩ đến đại biểu của mình không? Không- tôi đã trả lời như vậy.

    Cử tri hầu như không nghĩ đến đại biểu của mình. Vì sao? Cái điều đáng lo của chúng ta, chúng ta bây giờ rất tin Mặt trận tổ quốc, giao cho tổ chức này hiệp thương mỗi kỳ bầu cử. Cách làm của chúng ta là, Hiệp thương lần thứ nhất, hiệp thương lần thứ 2, rồi chính hội nghị Hiệp thương đó chọn danh sách, rồi cho đánh máy, in đàng hoàng đẹp đẽ và gửi cho người dân. Cử tri cuối cùng chỉ có một công việc chọn trong cái danh sách 5 chọn 3, 4 chọn 3. Thế là gì? Như ăn sẵn, là dân chủ hình thức.

    Tôi cho rằng cần xem xét lại quy trình Hiệp thương. Phải làm thế nào để từng người dân chọn được người ứng cử trong danh sách đó là người trực tiếp được bầu ra, được chọn ra chứ không phải qua các bước Hiệp thương gì hết.

    Tôi còn nhớ có những người đi họp Hiệp thương về kể, hôm nay chúng tôi trao đổi mãi anh này anh kia. Hóa ra đã có mấy người trao đổi với nhau nên chọn người này, bỏ người kia chứ cử tri có biết gì đâu. Như thế là dân chủ sao?

    Một ông bạn nói, ông Lộc ơi, cái dân chủ nhất của ta bây giờ là bầu cử. Khi tôi nói lại, ông mới giật mình, "ừ nhỉ lâu nay mình quan liêu". Thế mới biết, không chỉ bộ máy quan liêu mà người dân cũng có thể quan liêu. Có biết gì đâu, hôm ra bầu cử danh sách 5 người, ứng viên nào cũng có ảnh rất sáng sủa. Nhưng họ là ai, cử tri cũng không biết, không hề gặp nhau. Mà bầu cử là bầu ra người mà mình tín nhiệm, nhưng chỉ qua vài dòng giới thiệu liệu có tin cậy được không(?)

    Obama lên làm tổng thống Mỹ là qua sự sàng lọc trực tiếp của cử tri, hết vòng này đến vòng khác chứ có phải Đảng dân chủ tự lập danh sách rồi đưa ra cử tri bầu đâu.

    Trình độ đại biểu của chúng ta ngày càng cao, phát biểu cũng đầy trách nhiệm, nhưng đó chưa phải là tiếng nói cử tri, vì trước và sau khi đi họp, ông đại biểu đó cũng chỉ gặp độ mấy trăm cử tri thôi.
    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Vậy hệ luỵ là gì?
    Ông Nguyễn Đình Lộc: Điều đáng sợ nhất là bầu xong rồi mà cử tri và đại biểu không hề gặp nhau. Nhưng chúng ta đừng trách đại biểu, tôi cũng không trách đại biểu. Để có một đại biểu Quốc hội, ngân sách phải bỏ ra khoảng 700 triệu, tốn kém như thế, nhưng chúng ta sử dụng vị đại biểu đó như thế nào? Đây là một nhược điểm chung của chúng ta, phải xem đại biểu như là một công cụ của người dân, chúng ta phải rất tốn kém để tạo ra được cái công cụ đó, nhưng sử dụng như thế nào thì hầu như chúng ta lại không đầu tư một cách đích đáng cho người đại biểu.

    Đại bộ phận đại biểu chúng ta là không chuyên trách, mỗi đại biểu bầu xong lại về làm công việc chuyên môn của mình, rồi có thể thỉnh thoảng cử tri có gửi đơn nhưng không nhiều. Rồi mỗi người làm công việc chuyên môn của mình, đến kỳ họp lại cắp cặp đi họp. Đến nơi thì được phát một chồng tài liệu dày, tiêu hóa thế nào hết được chồng tài liệu đó, những vấn đề đặt ra trong đấy, cho nên điều kiện làm việc hiện nay của người đại biểu rất hạn chế, từng đại biểu không có thư ký giúp việc. Bởi vậy, khi bàn về dân chủ, có lẽ cần đổi mới căn bản chế độ bầu cử hiện nay.

    Làm thế nào mà để cử tri thực sự tìm ra, bầu ra đại biểu để mình bầu chứ không phải có người nào đó làm thay dân. Làm thay dân đó chính là một hình thức tham nhũng chính trị, hưởng quyền của người dân, quyền của dân mà anh lại hưởng. Cho nên không nên trách đại biểu mà trách cái cơ chế hiệp thương hiện nay của chúng ta.

    Cho nên tới đây, chúng ta phải làm thế nào dân chủ hóa thực sự bộ máy của chúng ta, từ việc bầu cử đại biểu cho đến dân chủ hóa bộ máy nhà nước, làm thế nào chống được tiêu cực, chống được tham nhũng. Một ông bạn là viện sĩ cứ băn khoăn không biết mình đi đến đâu? Nói là đi lên XHCN nhưng nó như thế nào, liệu có đi đến nơi không? Câu hỏi rất chân tình nhưng thể hiện nỗi trăn trở rất lớn của một vị GS. Trong cuộc hội thảo gần đây tôi cũng nói tôi không dám nhận mình là nhà yêu nước, vì có những điều mình không yêu, nhưng có có một điều rõ ràng là tôi gắn bó với chế độ này, do vậy tôi phải nói chứ không thể để như thế này được.

    Tôi nghĩ, nếu tất cả chúng ta không thấy được điều đó thì có nghĩa là chúng ta tự lừa dối mình, quay lưng lại với cuộc sống thực tế và điều đó sớm muộn nhân dân cũng không thể chấp nhận được. Bởi vậy tôi mới nói, đáng lo nhất là khi có vấn đề, nhân dân quay mặt lại với chế độ.
    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Trong những năm kháng chiến chống Pháp trong vùng Tề tạm chiếm; rồi trong chống Mỹ , dân bị dồn, bị kìm kẹp trong ấp chiến lược, chúng ta chưa có Hiến pháp, không có một quy định nào về việc Đảng độc quyền lãnh đạo, nhưng mà lòng dân khi đó hướng cả về Đảng, về Bác, đi theo Đảng, theo Bác. Còn giờ đây, khi chúng ta đang có tất cả, có Hiến pháp quy định Đảng độc quyền lãnh đạo, xác lập thể chế, hệ thống chính trị, vì sao lại lo sợ người dân quay lưng lại như vậy?
    Ông Nguyễn Đình Lộc: Vì trong chiến tranh mỗi đảng viên như thế nào? Người chiến sĩ của chúng ta như thế nào? Dân nhìn vào đó và dân tin. Dân có cơ sở để so sánh hồi chế độ cũ đã cư xử với dân như thế nào, những người đã xả thân đấu tranh cho dân ra làm sao. Vấn đề với dân là lòng tin và lòng tin chính là người ta hiểu được tấm lòng của anh đối với dân.

    Đáng lo bây giờ chính là bộ máy chúng ta đã thực sự lo cho dân, vì dân chưa hay là chạy theo những lợi ích và cái điều đáng sợ là để dân quay lưng lại với mình. Người dân phải chấp nhận nhưng không đồng tình với việc làm đó. Điều đáng lo chính là ở chỗ ấy.
    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Ta từng phê phán dân chủ phương Tây là dân chủ giả hiệu và ta phải xây dựng một nền dân chủ thực chất. Theo ông, dân chủ thực chất của ta là như thế nào?
    Ông Nguyễn Đình Lộc: Có lẽ cũng phải nhìn nhận lại ý kiến cho rằng dân chủ phương tây là dân chủ giả hiệu. Nếu là dân chủ giả hiệu, họ phải sụp lâu rồi. Đó là cách nhìn trước đây thôi. Bây giờ ta phải xem lại và đổi tư duy đó. Trong khi ta phê phán phương Tây nhiều thì chính họ lại tự điều chỉnh rất tốt, loại bỏ những yếu tố tiêu cực.

    Không phải ngẫu nhiên mà người dân lao động ở các nước đó được hưởng chế độ dân chủ. Bản thân họ đấu tranh và phe XHCN khi đó cho thấy một hình mẫu khác, để bên kia giật mình và thay đổi, tự điều chỉnh. Sự sụp đổ của Liên Xô cũng chính vì không biết tự điều chỉnh hoặc có điều chỉnh nhưng không đến nơi và không kịp thời. Liên Xô sụp đổ không phải vì bản thân chế độ XHCN là xấu mà vì họ đã đi không đúng đường, sai về cách làm.

    Chúng ta đã ngấm ra điều đó. Bây giờ ta phải nói cho rõ là phải điều chỉnh lại cho đúng. Nhưng điều chỉnh của ta chưa đến nơi. Chúng ta chưa thực ngồi với nhau để tranh luận cho hết tình hết lí, lật ngược vấn đề để tìm cho ra gốc gác của nó.Cái lo của những người tâm huyết, có trách nhiệm và gắn bó với chế độ hiện nay là làm thế nào để thoát ra được tình cảnh hiện nay, để mọi người có thể thực sự dân chủ đóng góp ý kiến và tìm ra được một cơ chế đúng.
    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Không có gì phải bàn cãi, dân chủ là nhân tố quan trọng để giải quyết các vấn đề của xã hội ta hiện nay. Việc đảm bảo vai trò, vị trí lãnh đạo của Đảng cũng chính là dân chủ. Đảng cũng đã vạch ra và đang đấu tranh cho vấn đề này. Một bạn đọc ở Nha Trang nêu vấn đề, trong các đại hội đảng, khi bài Quốc tế ca vang lên "vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian" không còn phù hợp với tình hình hiện nay, nô lệ ngày nay đã chuyển sang hình thái mới, thậm chí là nô lệ về tư tưởng, nhận thức, văn hóa. Vậy cần phải làm gì để giải phóng khỏi ách nô lệ này như tinh thần của Quốc tế ca?
    Ông Nguyễn Đình Lộc: Đó cũng là vấn đề gây nhiều băn khoăn, cần suy nghĩ đích đáng. Thực ra, bây giờ mà nói là nô lệ thì có phần nặng nề, nhưng sự phụ thuộc thì có.

    Về mặt tư tưởng, chúng ta đã thực sự tự do chưa? Theo tôi, ta chưa có được điều đó, hay đúng ra là còn thiếu. Nói là hoàn toàn chưa có thì không hẳn. Như hôm nay tôi nói như thế này cũng là tự do rồi.
    Tình hình có nhiều cải thiện nhưng đến nơi chưa, ngang tầm chưa thì chưa. Đây là điều phải sửa đổi cơ bản, tạo ra môi trường, không khí để người dân cảm nhận được rằng chế độ này là của mình, do mình làm chủ. Bác Hồ khi nói đến quyền của người dân bao giờ cũng nhấn mạnh hai chữ TỰ DO.
    "Muốn sửa Hiến pháp, cần xác định lại chủ thuyết"
    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Rõ ràng phải xây dựng thiết chế, bắt đầu bằng Hiến pháp. Nhiều người băn khoăn sao ta phải điều chỉnh hiến pháp nhiều lần như thế, trong khi nhiều nước hầu như không phải sửa. Chúng ta đang có kế hoạch sửa đổi Hiến pháp. Nên chăng đây là lúc đảng thể hiện dấu ấn của mình với tư cách một đảng cầm quyền? Với tư cách cựu lãnh đạo ngành Tư pháp từng tham gia nhiều vào công tác sửa Hiến pháp, theo ông, Đảng nên chỉ đạo sửa Hiến pháp như thế nào?
    Ông Nguyễn Đình Lộc: Có hai loại hiến pháp, kiểu như của Mỹ, hơn 200 năm rồi, họ có sửa nhưng chỉ bổ sung, thêm vào. Ta mỗi lần sửa là sửa cơ bản. Quan điểm về Hiến pháp của ta khác. Xã hội Việt Nam từ nô lệ, phong kiến lên dân chủ, từ dân chủ nhân dân lên dân chủ xã hội chủ nghĩa, từ độc lập tự do sang chiến tranh rồi đất nước bị chia cắt, đi đến thống nhất... Sự biến động trên con đường phát triển của xã hội VN ảnh hưởng đến quy định pháp luật, các luật cơ bản.

    Chẳng hạn, chúng ta xây dựng Hiến pháp 1946 nhằm xây dựng xã hội dân chủ nhân dân, rồi chiến tranh nổ ra ngay, cả Chính phủ, Quốc hội đều phải chuyển lên Việt Bắc. Chúng ta ca ngợi Hiến pháp 1946 nhưng thực tế, Hiến pháp không được công bố. Cách mạng phát triển, ban đầu chúng ta không đặt vấn đề cải cách ruộng đất nhưng đến năm 1953 chúng ta thấy tình hình buộc phải làm cách mạng dân chủ. Muốn như vậy ta phải thực hiện "người cày có ruộng", vì thế thức hiện cải cách ruộng đất. Cải cách ruộng đất xong rồi thì chúng ta thấy mình phải thực hiện tiến lên CNXH. Những biến động như thế khiến Hiến pháp 1946 không còn hiệu lực.

    Năm 1946, Hồ Chí Minh là trưởng ban xây dựng Hiến pháp và đến năm 1959, Bác cũng là trưởng ban xây dựng Hiến pháp 1959, nhưng hai bản Hiến pháp này rất khác nhau, vì hoàn cảnh quá khác nhau. Hiến pháp năm 1946 ta xây dựng theo mô hình của Pháp. Hiến pháp 1959 lại theo mô hình xô viết, và chúng ta cũng theo tư tưởng của Mao Trạch Đông, nhất biên đảo, theo hẳn con đường XHCN, không lưỡng lự nữa. Hơn nữa, khi xây dựng Hiến pháp 1959, ta vận dụng một quy định của Hiến pháp Xô Viết chưa đúng, tư tưởng biến động liên tục (cơ cấu UBND và HĐND).

    Chúng ta đang theo mô hình của Hiến pháp 1992, tâm lý mọi người muốn có sửa đổi cơ bản, trước hết là về bộ máy. Phải điều chỉnh lại quan điểm trước đây: Hiến pháp là thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng. Đường lối của Đảng hiện nay là gì? Quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công, phối hợp.
    Quyền lực thế nào là thống nhất? Thế nào là phân công? Là phối hợp? Hiện nay ta chưa xác định rõ những điểm đó.

    Nếu Hiến pháp chỉ sửa vài điểm nhỏ thì có nên sửa không? Đương nhiên nếu bỏ HĐND cấp quận, xã, phường, thì sẽ vướng vào điều quy định trong Hiến pháp. Nhưng sửa điều đó thôi thì chỉ thuần túy là kĩ thuật, chưa mang tính cơ bản. Muốn thể hiện chủ trương, đường lối của Đảng là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước như thế nào và bản thân quyền lực đó được tổ chức như thế nào là thống nhất?

    Có người nói quyền lực nhà nước thống nhất ở nhân dân liệu có đúng không? Tại sao lại thống nhất ở nhân dân. Tập trung ở nhân dân thì đúng, nhưng thống nhất ở nhân dân thì không ổn, vì nói đến thống nhất là nói đến trạng thái của sự vật, về mối quan hệ nội bộ của các bộ phận thuộc sự vật đó. Chúng ta nói Việt Nam là một đất nước thống nhất đâu phải là nó dồn về một chỗ, mà vẫn là ba miền Bắc, Trung, Nam, trước đây bị chia cắt, bây giờ thống nhất.

    Những người cầm quyền hiện nay đang nói về thống nhất quyền lực theo cách rất khác nhau, ảnh hưởng đến quy định về sau của Hiến pháp.

    Trong một hội thảo gần đây, tôi đã nói, để sửa Hiến pháp phải thay đổi hoặc xác định cho rõ hơn chủ thuyết của chúng ta về hiến pháp, về quyền lực nhà nước. và quyền tự do dân chủ của nhân dân. Từ chủ thuyết đó, chúng ta thể chế hóa thành thiết chế. Nếu không, chúng ta sửa rồi đi vào thực tế lại thấy Hiến pháp của ta có vấn đề. Có sửa mà sửa không cơ bản thì mỗi lần lại vấp váp. Giống như đi đường gồ ghề, cứ đi vấp lại muốn sửa. Bây giờ muốn làm sao để cho đường bằng phẳng, thông suốt, thì phải có chủ thuyết rõ ràng.
    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Phải chăng chủ thuyết đó chính là tư tưởng của Bác Hồ, xây dựng một nước Việt Nam độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Chúng ta đang có vận hội rất lớn để thực hiện hóa mục tiêu đó. 65 năm qua, đôi khi chúng ta bị kẹt vào xung đột ý thức hệ , Việt Nam bây giờ có vận hội lớn để trở thành một nước thực sự độc lập , được tự chủ trong các quyết định cuả đất nước, cuả dân tộc mình, cộng đồng thế giới mong muốn nhìn thấy một nước Việt Nam giàu mạnh và có vai trò trong khu vực, nhưng không ai cho không cái gì, có vận hội lớn chúng ta cũng phải đối mặt với thách thức, đối mặt với sóng gió cuả thời đại. Dân chủ là chủ thuyết xuyên suốt của Hồ Chí Minh và là nền tảng cho sự độc lập và giàu mạnh của Việt Nam. Theo ông, để thực hiện chủ thuyết này, cơ chế nào để chúng ta lựa chọn được người lãnh đạo xứng đáng, dẫn dắt cả dân tộc băng lên thực hiện chủ thuyết của Bác Hồ?
    Ông Nguyễn Đình Lộc: Mong muốn của Bác Hồ rất rõ. Bác cũng công khai nêu mong muốn đó. "Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ", Bác nói vậy, chứ không phải là một hiến pháp chung chung. Trong chữ dân chủ đó hàm chứa rất nhiều điều. Điều đó được thể hiện ngay trong hiến pháp 1946.

    Tất nhiên không nên ca ngợi một chiều Hiến pháp 1946. Hiến pháp 1946 đưa vào hoàn cảnh hiện nay như thế nào không đơn giản. Chủ thuyết của Bác Hồ về Hiến pháp là rất rõ ràng. Chúng ta phải theo tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề là vận dụng như thế nào. Từ tư tưởng đó phải nghiên cứu, vận dụng thành lí thuyết Hồ Chí Minh về Hiến pháp. Việc này khó nhưng không thể không làm.

    Có lúc, ở các cấp của Đảng, ta ngại dân chủ. Ta nói dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh mà không có chữ dân chủ (phải đến sau này mới được bổ sung). Chúng ta phải làm cho rõ tại sao chúng ta ngại dân chủ. Việc bổ sung vào là do sức ép hay ta tự nguyện làm. Ta sẽ giữ như thế và thực hiện dân chủ thật sự, hay chúng ta tiếp tục ngại.

    Lâu nay ta nghe nhiều đến diễn biến hòa bình. Tất nhiên ta phải cảnh giác với diễn biến hòa bình và cũng có người muốn làm việc đó. Nhưng vì chúng ta sơ hở, không quyết tâm nên ta mới bị diễn biến. Chúng ta không làm đến nơi thì mới bị diễn biến, còn nếu chúng ta thực sự dân chủ thì không ai làm gì được.

    Tất nhiên, đụng đến những vấn đề này là những vấn đề rất cơ bản. Nếu không làm rõ với nhau từ đầu thì dễ bị quy chụp. Nói đến diễn biến thì không phải là kẻ thù nào từ bên ngoài vào diễn biến mà diễn biến ở chính trong nội bộ này. Từ trong nội bộ này có những lực lượng muốn diễn biến. Tại sao chúng ta lại để cho họ làm được như thế, và tại sao họ lại tranh thủ được người dân? Ta phải đánh gục họ đi, không phải bằng bạo lực mà bằng sức mạnh của sự đồng lòng, ủng hộ trong dân, từ niềm tin của dân. Phải đảm bảo cho được lòng tin của dân đối với Đảng. Đây là vấn đề Đảng lo nhất.

    Đã đến lúc chúng ta phải nói thẳng với nhau, nhìn thẳng vào sự thật, không tránh né những vấn đề cốt tử như vậy. Thời gian càng tiến về tương lai, chúng ta càng thấy cái vĩ đại của Bác Hồ. Người vượt qua mọi sóng gió để lãnh đạo đất nước.

    Phải làm sao tận dụng cho được lợi thế này, sức mạnh này. Vấn đề là khi người ta ra sức đề cao Hồ Chí Minh, người ta có thực sự làm theo Bác không? Đó là điều cần suy nghĩ. Người ta có thực sự: cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư không? Người ta có thực sự vì dân, vì nước, vì đảng không hay vì tính toán lợi ích riêng của mình rồi lồng vào đây, dưới danh nghĩa của đảng?

    Đó là vấn đề cần hết sức cảnh giác, ngăn chặn. Nếu làm như thế là có tội với Bác, với chế độ, với nhân dân, với lí tưởng của Bác và mục tiêu mà Bác dành cả đời để cống hiến.
    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Dân chủ thì ta sẽ lựa chọn được lãnh đạo đủ đức, đủ tài, đủ tầm lãnh đạo đất nước , nắm bắt vận hội lớn, vượt qua sóng gió và thách thức của thời đại để đưa dân tộc ta tới bến bờ vinh quang. Điều kiện trong nước và thời đại đòi hỏi chúng ta có những lãnh đạo có bản lĩnh, tầm nhìn, trí tuệ, sức mạnh để tập hợp được quần chúng nhân dân, là điểm tựa lòng tin cho nhân dân Việt Nam để đạt mục tiêu của Bác Hồ xây dựng một Việt Nam phồn vinh, văn minh, hoàn thành sứ mệnh lịch sử mà dân tộc đặt ra với Đảng. Đó cũng là lời kết lại của bàn tròn ngày hôm nay. Một lần nữa xin cám ơn ông Nguyễn Đình Lộc, cám ơn các độc giả đã cùng theo dõi.
    "Chúng ta không làm đến nơi thì mới bị diễn biến, còn nếu chúng ta thực sự dân chủ thì không ai làm gì được. Đã đến lúc chúng ta phải nói thẳng với nhau, nhìn thẳng vào sự thật, không tránh né những vấn đề cốt tử" - cựu Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc thắng thắn phát biểu tại bàn tròn kỉ niệm 65 ngày Quốc khánh.

    LTS: Nhân kỉ niệm 65 năm Quốc khánh, Tuần Việt Nam trích thuật một phần nội dung bàn tròn trực tuyến với nguyên Bộ trưởng Tư pháp, Đại biểu Quốc hội Nguyễn Đình Lộc như một suy ngẫm, góc nhìn đáng tham khảo về những bước đi của Đất nước - Dân tộc trên con đường hiện thực hóa những tư tưởng và mục tiêu cao đẹp về một Việt Nam Dân chủ - Độc lập - Tự do - Hạnh phúc mà Bác Hồ đã long trọng tuyên bố trước muôn triệu người dân cũng như bạn bè thế giới sáu mươi lăm năm về trước.

    Như ông Nguyễn Đình Lộc nhiều lần nhấn mạnh, những góc nhìn của ông có thể đôi chỗ "khó nghe" hoặc cần phải tranh luận thêm, nhưng ông cũng mạnh dạn đưa ra, với tư cách một người gắn bó máu thịt với chế độ này, như một sự xới xáo vấn đề một cách nghiêm túc, trên tinh thần tôn trọng ý kiến khác biệt mà Đảng luôn kêu gọi.
    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thưa ông Nguyễn Đình Lộc, là một cựu lãnh đạo với vị trí đứng đầu một Bộ quan trọng- xây dựng hệ thống là Bộ Tư pháp, ông có những cảm nhận gì, những trăn trở gì khi nghĩ đến mùng 2/9 năm nay?
    Ông Nguyễn Đình Lộc: Ngày mùng 2/9 chúng ta gọi là ngày Quốc Khánh, ngày ra đời của chế độ chúng ta. Với chúng ta đó là một ngày rất đáng ghi nhớ. Hơn nữa, ngày Quốc Khánh năm nay chúng ta tổ chức chào đón nó trong điều kiện thủ đô Hà Nội cũng như cả nước tiến tới 1000 năm Thăng Long.

    Kỉ niệm ngày Quốc Khánh là dịp đặc biệt để cùng nhìn lại cả chặng đường phát triển. Không chỉ ôn lại 65 năm của chế độ chúng ta mà đây cũng là dịp để cùng nhau nhìn lại một ngàn năm qua xã hội Việt Nam đã đi như thế nào.

    Điều rất đáng mừng là vào ngày 2/9 65 năm trước, đánh dấu một bước ngoặt cho sự phát triển của cả dân tộc. Vì trước đó như mọi người đã biết, đất nước là thuộc địa, là nô lệ của những cường quốc Pháp và Nhật. Cuộc sống của người dân thuộc địa như thế nào bản thân mỗi người cũng đã thấm thía. Đó là một xã hội, mà nói một cách ngắn gọn nhất là phi dân chủ, vi phạm quyền con người, ở đó quyền cơ bản của con người bị chà đạp.

    Bởi vậy, ngày mùng 2/9/1945 với việc Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập một nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã mở ra một giai đoạn phát triển mới. Đó là một thay đổi lớn lao mà chúng tôi hay gọi là Đổi đời của cả dân tộc, đổi đời cho từng cá nhân con người. Chúng ta, từ một kiếp nô lệ, bị lệ thuộc đã trở thành người tự do, người dân chủ, một đất nước được hưởng quyền làm chủ của mình. Bởi vậy tôi nghĩ, không riêng ai mà cả dân tộc đang vui mừng chờ đón ngày mùng 2/9 năm nay cũng như ngày mùng 10/10 và Đại lễ kỷ niệm ngàn năm Thăng Long.
    Đã có lúc chúng ta ngại nói dân chủ
    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Có lẽ, một trong những mục tiêu đã khiến cả dân tộc ta đứng lên giành độc lập, và đó cũng là di nguyện của Bác Hồ là xây dựng một đất nước Việt Nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, một đất nước dân chủ, theo thể chế dân chủ. Theo ông, trong thời gian vừa qua, chúng ta đã hiểu như thế nào về mục tiêu dân chủ và đã thực thi nó như thế nào?
    Ông Nguyễn Đình Lộc: Nói một cách ngắn gọn dân chủ là người dân làm chủ xã hội. Và, nói người dân ở đây là phải hiểu cả dân tộc, cả đất nước làm chủ chứ không phải một cá nhân nào đó. Nhưng khi nói đến dân chủ thì chúng ta phải nhìn từng cá nhân để làm thế nào thấy rõ rằng từng con người một chứ không phải chỉ có cộng đồng dân tộc nói chung được hưởng những quyền tự do, dân chủ.

    Hưởng dân chủ, thực hiện dân chủ, bảo đảm người dân thực hiện dân chủ là một vấn đề hoàn toàn không dễ dàng. Vì ở đây đòi hỏi cả một cơ chế, tập quán thói quen, truyền thống và trước hết là nhận thức sâu xa thế nào là dân chủ. Điều làm chúng ta phải suy nghĩ là nhiều khi bản thân chúng ta, những người trong cuộc cũng ngại dân chủ.

    Chúng ta nhớ rằng đã có những lúc chúng ta đã không dám nói đến dân chủ. Đã có lúc chúng ta ngại động chạm đến chữ đó, ngại đến mức trở thành ra một quán tính, "không dám" đưa chữ dân chủ vào mệnh đề chung của mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Từ dân chủ mới được đưa vào mệnh đề này mươi năm nay thôi.

    Ngay mệnh đề nhà nước pháp quyền cũng thế. Một nhà nước pháp quyền không thể là pháp quyền nếu như nó không thực hiện chế độ dân chủ, nhưng từ pháp quyền cũng đã có lúc chúng ta ngại đề cập tới. Hồi năm 2001, nếu dùng là một cuộc đấu tranh e nói thế hơi mạnh, nhưng chính xác đã có một cuộc tranh luận, một trao đổi rất kĩ, cuối cùng Quốc hội mới biểu quyết để thông qua quy định, nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền, xã hội chủ nghĩa của dân do dân và vì dân. Đến lúc đó chúng ta mới dám nói được quyền lực thống nhất có sự phân công phối hợp.

    Như thế, rõ ràng nhận thức về dân chủ là một quá trình và thực hiện dân chủ lại càng khó hơn, và cũng là một quá trình. Không ai có thể tự nói rằng mình đã nhận thức đầy đủ, có một quan niệm rõ ràng về dân chủ. Ngay văn kiện của Đảng cũng phải từng bước một, cả Hiến pháp cũng vậy.

    Mãi đến Hiến pháp thứ tư (Hiến pháp 92), chúng ta mới đưa được chữ nhà nước pháp quyền vào. Cụm từ này hoàn toàn chưa có trong các Hiến pháp trước đó. Hiến pháp 46 được đánh giá có những ưu điểm vượt trội, nhưng chữ pháp quyền vẫn chưa được dùng. Hiến pháp 59 và Hiến pháp 80 cũng không đề cập tới. Mãi tới năm 2001 với nghị quyết 51 của Quốc hội thì chúng ta mới bổ sung vào Điều 2: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nhà nước pháp quyền.

    Không nên hiểu một cách phiến diện, một chiều chữ dân chủ. Dân chủ có hai mặt của nó. Lạm dụng dân chủ cũng là một tiêu cực, một tai hại đối với xã hội. Thì khi nói thực hiện dân chủ phải nhìn từ hai phía: Từ phía người có trách nhiệm thực hiện nó đó là bộ máy nhà nước, hai là với người dân hưởng quyền dân chủ cũng phải đúng nghĩa của nó chứ không phải một cách tràn lan. Và điều này không đơn thuần chỉ là mong muốn mà còn cả vấn đề nhận thức và có cơ chế để thực hiện. Vì vậy tôi hiểu rằng thực hiện dân chủ là một quá trình và từng bước một.
    Đừng nại dân trí chưa cao để hạn chế quyền làm chủ của dân
    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Chúng tôi vừa nhận được câu hỏi của bạn Nguyễn Phúc Nguyên là một học viên của trường Sĩ quan quân đội: "Mọi người thường nói nhân dân ta còn rất yếu kém về mặt nhận thức, trình độ dân trí thấp do đó dân chủ lúc này không phù hợp, phải từng bước, nhích dần từng bước. Còn nếu mà áp dụng dân chủ lúc này là không tốt cho đất nước ta. Ông chia sẻ với bạn Phúc Nguyên như thế nào?
    Ông Nguyễn Đình Lộc: Băn khoăn của bạn Nguyên cũng có cơ sở. Nhưng nói như thế cũng không có nghĩa là bây giờ chúng ta chưa nên dân chủ. Vì nói dân chủ cũng là một quá trình. Và cũng không nên ngại rằng nhân dân không biết sử dụng dân chủ. Sau Cách mạng tháng Tám, 80-90% dân chúng vừa không biết chữ, mù chữ vừa là kiếp nô lệ, nên trước khi tiến hành tổng tuyển cứ, có nhiều người lo rằng với trình độ người dân vừa ra khỏi nô lệ như thế thì có nên tổng tuyển cử không. Nhưng Bác Hồ đã có niềm tin rằng nhân dân biết sử dụng quyền đó, và trên thực tế chúng ta sử dụng nó rất tốt, Tổng tuyển cử năm 1946, người dân đã bầu ra một Quốc hội rất xứng đáng, cách tiến hành cũng rất dân chủ và người dân hưởng dân chủ cũng rất đúng đắn.

    Đương nhiên muốn thực hiện dân chủ không đơn thuần chỉ là quyết tâm, quy định mà cả điều kiện kinh tế xã hội, trình độ văn hóa nữa. Bởi vậy tôi mới nói, băn khoăn của bạn Phúc Nguyên có căn cứ, nhưng không nên nói rằng vì trình độ của dân chưa cao nên chưa thực hiện dân chủ. Nói như thế là nguy hiểm chứ không phải là nói sai. Đó là một cách nói để chúng ta hạn chế quyền dân chủ của người dân.

    Đáng sợ nhất là khi người dân quay lưng
    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Bạn đọc Nguyễn Mạnh Thắng ở TP.HCM hỏi rằng: "Dân chủ là mục tiêu ngày đầu giành chính quyền là khát vọng của nhân dân, là mục tiêu đấu tranh của Đảng vậy mà tại sao đôi lúc lại trở thành vấn đề kị húy trong một số giai đoạn. Thậm chí, có vị lãnh đạo còn nói rằng là phải cẩn thận với trò chơi dân chủ, có nơi thì coi dân chủ là một trong những công cụ để thế lực thù địch diễn biến hòa bình, chống chế độ chúng ta. Ông suy nghĩ thế nào về vấn đề này?
    Ông Nguyễn Đình Lộc: Đây là vấn đề tương đối phức tạp. Tôi nhắc lại ý rằng: về mặt tâm lí, đôi khi trong thi hành quyền lực bản thân phía người quản lí, người có quyền cũng muốn thoải mái, muốn tùy tiện, ngại dân chủ. Chẳng hạn, bây giờ mình làm việc mà có những người cứ nói chỗ này chỗ kia, mình thế này thế kia thì cũng khó chịu. Về mặt tâm lí, cảm giác đó cũng dễ hiểu. Nhưng nếu chúng ta làm đúng pháp luật, cả 2 phía đều làm đúng luật thì chuyện không có gì phải bàn.

    Người ta có thể nói dùng pháp luật, dùng dân chủ để diễn biến hòa bình, nói như thế đã thuyết phục chưa? Liên Xô sụp đổ có phải diễn biến hòa bình đâu, cả phe xã hội chủ nghĩa, cả Đông Âu nữa, đó có phải là diễn biến hòa bình đâu. Cái đổ đó là nhân dân vùng dậy để lật đổ. Đau đớn gì hơn là trong nhiều trưởng hợp người dân quay lưng lại với chế độ. Tại sao hàng triệu Đảng viên trong Đảng như thế, có đội quân hùng mạnh như thế tự nhiên chế độ Xô Viết sụp đổ. Đau đớn lắm! Tôi nghĩ đau đớn lắm!

    Có ông bạn kể, khi báo tin cho bố ở quê biết chuyện Liên Xô không còn nữa, ông đã ôm mặt khóc. Điều đó cho thấy, với người dân rất bình thường ở một đất nước xa xôi như thế nhưng trong suy nghĩ của họ với chế độ Xô Viết như thế nào, người ta khóc vì nó không còn nữa là vì sao?

    Một lần nữa tôi cho rằng, phải luôn luôn nhớ rằng sinh ra bộ máy nhà nước là để quản lý, giữ gìn trật tự trị an, nhưng chúng ta làm không tốt nên người dân có phản ứng bằng nhiều hình thức. Có thể người ta mạnh mẽ phản kháng, nhưng điều đáng sợ hơn là nguy cơ người dân quay lưng lại với chế độ. Mà một khi người dân đã quay lưng lại với chế độ thì không gì có thể cứu vãn được.
    Chưa thấm hết đạo lý thế nào là một Đảng cầm quyền?
    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Bạn Văn Định hỏi, tại sao những điều luật đảm bảo quyền tự do dân chủ của người dân chúng ta định trình Quốc hội nhiều lần như Luật Thông tin, Luật Trưng cầu dân ý, Luật về Hội... mãi vẫn chưa làm. Tình trạng treo như thế này có hệ lụy gì không?
    Ông Nguyễn Đình Lộc: Bác Hồ đã nói rất rõ, chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ, chứ không phải Hiến pháp chung chung. Từng người dân được đặt trong điều kiện quyền tự do đồng thời bộ máy, cơ chế để thực hiện quyền quyết định công việc đất nước cũng phải rất dân chủ, nếu cả 2 mặt đó đều tốt thì sẽ có dân chủ, còn cả 2 mặt đều không tốt thì không có nền dân chủ. Chúng ta có thể phàn nàn cái này cái kia nhưng vấn đề thực chất là không giải quyết được. Cho nên cần phải xác định thật rõ thực chất dân chủ là gì. Chúng ta cứ nói nhà nước pháp quyền nhưng nói mãi vẫn dừng lại ở khẩu hiệu chứ chưa đi vào, thể chế thiết chế.
    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Vậy ai chịu trách nhiệm xây dựng thể chế, thiết chế này. Để chậm trễ như vậy ai chịu trách nhiệm?
    Ông Nguyễn Đình Lộc: Khi nói đến thiết chế là phải Quốc hội. Nhưng Quốc hội dưới sự lãnh đạo của đảng. Chẳng hạn muốn sửa Hiến pháp, phải chờ đại hội Đảng quyết, Đảng quyết rồi mới thành quyết định của Quốc hội.

    Có một vấn đề là trong một số văn kiện đã nói đến nhưng chúng ta chưa thấm hết đạo lý thế nào là đảng cầm quyền, trách nhiệm đến đâu, quan hệ với nhà nước thế nào vì vậy mà hơi lúng túng, có lúc buông lỏng, có lúc lấn sân, có lúc bao biện làm thay.

    Tôi cũng không hiểu hết tại sao Bác Hồ khi nói về Đảng thì trước hết nói Đảng ta là đảng cầm quyền. Vậy đảng cầm quyền khác đảng thường thế nào?

    Tôi đang có trong tay văn kiện Đại hội X, trong đó có phần giải thích của đồng chí Nguyễn Phú Trọng: đảng cầm quyền thì hơi hẹp, phải nói đảng lãnh đạo mới bao hết.

    Nhưng Bác Hồ đã nhấn mạnh trong di chúc đảng ta là đảng cầm quyền, vậy phải hiểu đạo lý đảng cầm quyền là thế nào? Từ lãnh đạo đến cầm quyền có là một không, và đảng cầm quyền quan hệ với dân với nước thế nào? Cả 2 cái đó chúng ta chưa làm rõ. Tôi vẫn nói, chủ thuyết chúng ta chưa rõ ràng, cần phải rõ ràng chủ thuyết rồi từ đó chuyển hóa thành quan niệm cụ thể.
    Hãy thực ngồi với nhau để tranh luận cho hết tình hết lý
    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Cuộc sống đang đặt ra yêu cầu bức thiết cho Đảng, nên chăng Đảng không né tránh, đặt thẳng vấn đề này ra tại đại hội XI?
    Ông Nguyễn Đình Lộc: Tôi có tham gia một số hội thảo bàn về văn kiện đại hội XI, lúc đầu nói sẽ sửa đổi cương lĩnh, anh em chờ đợi, hi vọng rất nhiều nhưng bây giờ đọc lại dự thảo sửa đổi thì có thấy sửa gì nhiều đâu. Có người nói đó là bước lùi chứ không phải là cải tiến.

    Giải thích vì sao cũng khó. Phải chăng trước hết vì nhận thức của chúng ta? Cũng có thể do ta thỏa mãn với những gì đã đạt được. Có người thấy cương lĩnh như thế là cơ bản lắm rồi.

    Đứng về mặt chủ thuyết phải rõ ràng. Trước đây, ta thường sao chép, nên khi vận dụng vào Việt Nam thì bị quèo quặt. Ta vốn không có thường trực HĐND, sau đó có UBND, lại có cả thường trực HĐND, HĐND, mà HĐND còn đòi có trụ sở riêng, tách biệt với UBND.

    Sang Liên Xô trước đây, sẽ thấy họ có Xô Viết chung, không có UBND hay HĐND, và trong Xô Viết có thường trực ban chấp hành của nó đóng vai trò như một bộ máy điều hành chung. Ta sau đó lại dần tách HĐND và UBND ra. Nói như thế để thấy, ngay cả khi vận dụng cái có sẵn, ta cũng làm chưa đúng, nói gì là vận dụng sáng tạo. Nghị quyết của ta có rồi, ta phải dân chủ hóa tư duy lí luận. Một những vấn đề được nêu tại đại hội X là tư duy của chúng ta chưa ngang tầm thời đại, giờ là lúc ta phải cố gắng dân chủ hóa.
    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Ta từng phê phán dân chủ phương Tây là dân chủ giả hiệu và ta phải xây dựng một nền dân chủ thực chất. Theo ông, dân chủ thực chất của ta là như thế nào?
    Ông Nguyễn Đình Lộc: Có lẽ cũng phải nhìn nhận lại ý kiến cho rằng dân chủ phương tây là dân chủ giả hiệu. Nếu là dân chủ giả hiệu, họ phải sụp lâu rồi. Đó là cách nhìn trước đây thôi. Bây giờ ta phải xem lại và đổi tư duy đó. Trong khi ta phê phán phương Tây nhiều thì chính họ lại tự điều chỉnh rất tốt, loại bỏ những yếu tố tiêu cực.

    Không phải ngẫu nhiên mà người dân lao động ở các nước đó được hưởng chế độ dân chủ. Bản thân họ đấu tranh và phe XHCN khi đó cho thấy một hình mẫu khác, để bên kia giật mình và thay đổi, tự điều chỉnh. Sự sụp đổ của Liên Xô cũng chính vì không biết tự điều chỉnh hoặc có điều chỉnh nhưng không đến nơi và không kịp thời. Liên Xô sụp đổ không phải vì bản thân chế độ XHCN là xấu mà vì họ đã đi không đúng đường, sai về cách làm.

    Chúng ta đã ngấm ra điều đó. Bây giờ ta phải nói cho rõ là phải điều chỉnh lại cho đúng. Nhưng điều chỉnh của ta chưa đến nơi. Chúng ta chưa thực ngồi với nhau để tranh luận cho hết tình hết lí, lật ngược vấn đề để tìm cho ra gốc gác của nó. Cái lo của những người tâm huyết, có trách nhiệm và gắn bó với chế độ hiện nay là làm thế nào để thoát ra được tình cảnh hiện nay, để mọi người có thể thực sự dân chủ đóng góp ý kiến và tìm ra được một cơ chế đúng.
    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Không có gì phải bàn cãi, dân chủ là nhân tố quan trọng để giải quyết các vấnđề của xã hội ta hiện nay. Việc đảm bảo vai trò, vị trí lãnh đạo của Đảng cũng chính là dân chủ. Đảng cũng đã vạch ra và đang đấu tranh cho vấn đề này. Một bạn đọc ở Nha Trang nêu vấn đề, trong các đại hội đảng, khi bài Quốc tế ca vang lên "vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian" không còn phù hợp với tình hình hiện nay, nô lệ ngày nay đã chuyển sang hình thái mới, thậm chí là nô lệ về tư tưởng, nhận thức, văn hóa. Vậy cần phải làm gì để giải phóng khỏi ách nô lệ này như tinh thần của Quốc tế ca?

    Ông Nguyễn Đình Lộc: Đó cũng là vấn đề gây nhiều băn khoăn, cần suy nghĩ đích đáng. Thực ra, bây giờ mà nói là nô lệ thì có phần nặng nề, nhưng sự phụ thuộc thì có.

    Về mặt tư tưởng, chúng ta đã thực sự tự do chưa? Theo tôi, ta chưa có được điều đó, hay đúng ra là còn thiếu. Nói là hoàn toàn chưa có thì không hẳn. Như hôm nay tôi nói như thế này cũng là tự do rồi.

    Tình hình có nhiều cải thiện nhưng đến nơi chưa, ngang tầm chưa thì chưa. Đây là điều phải sửa đổi cơ bản, tạo ra môi trường, không khí để người dân cảm nhận được rằng chế độ này là của mình, do mình làm chủ. Bác Hồ khi nói đến quyền của người dân bao giờ cũng nhấn mạnh hai chữ TỰ DO.
    Văn kiện Đảng không phải đặc quyền của ai
    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Một bạn đọc ở Phan Thiết viết: với doanh nghiệp chúng tôi, dân chủ là công bằng cơ hội, công bằng quyền tiếp cận thông tin, nguồn lực quốc gia, đặc biệt là trong kinh tế. Nhưng công bằng không phải là cào bằng. Vậy thiết chế nào để đảm bảo cho chúng tôi được quyền tiếp cận công bằng với thông tin, nguồn lực quốc gia và công bằng trong cơ hội tiến thân? Việt Nam đã có được một thiết chế như vậy hay chưa?
    Ông Nguyễn Đình Lộc: Thế nên bây giờ Quốc hội đang làm lại và chắc sẽ làm được đó là Luật Về quyền tự do tiếp cận thông tin. Những tài liệu cầm vào là thấy dấu mật sẽ phải hạn chế thế nào; Làm rõ đảng cầm quyền ra sao, công việc đảng làm là cho dân; việc đảng đang làm là việc của dân chứ không phải là việc riêng của đảng, đảng được nhân dân tin tưởng giao cho nhiệm vụ đó. Vì thế, nhân dân có quyền biết và hiểu đầy đủ về những công việc đảng đang làm.


    Việc này ta chưa xem trọng, vẫn còn coi nhẹ. Văn kiện của Đảng là đặc quyền của một số người. Điều này đòi hỏi phải thay đổi nhận thức, trở lại với quan điểm thực sự dân chủ, và vị trí, trách nhiệm của đảng cầm quyền là gì. Đảng cầm quyền là đảng giải quyết những công việc của dân, thuộc quyền của dân, mà từng người dân riêng rẽ không thể giải quyết được mà cả cộng đồng gần 90 triệu dân cùng lo. Họ tín nhiệm giao cho một tổ chức: về mặt nhà nước là giao cho Quốc hội, về mặt đảng là đảng cầm quyền, để từ đó thấy rằng đây là việc của dân, dân có quyền hiểu đủ, không phải đặc quyền của ai.

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Phải chăng chủ thuyết mà Việt Nam đang cần lúc này chính là tư tưởng của Bác Hồ, xây dựng một nước Việt Nam độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Chúng ta đang có vận hội rất lớn để thực hiện hóa mục tiêu đó. 65 năm qua, đôi khi chúng ta bị kẹt vào xung đột ý thức hệ , Việt Nam bây giờ có vận hội lớn để trở thành một nước thực sự độc lập , được tự chủ trong các quyết định cuả đất nước, cuả dân tộc mình, cộng đồng thế giới mong muốn nhìn thấy một nước Việt Nam giàu mạnh và có vai trò trong khu vực, nhưng không ai cho không cái gì, có vận hội lớn chúng ta cũng phải đối mặt với thách thức, đối mặt với sóng gió cuả thời đại. Dân chủ là chủ thuyết xuyên suốt của Hồ Chí Minh và là nền tảng cho sự độc lập và giàu mạnh của Việt Nam. Theo ông, để thực hiện chủ thuyết này, cơ chế nào để chúng ta lựa chọn được người lãnh đạo xứng đáng, dẫn dắt cả dân tộc băng lên thực hiện chủ thuyết của Bác Hồ?
    Ông Nguyễn Đình Lộc: Mong muốn của Bác Hồ rất rõ. Bác cũng công khai nêu mong muốn đó. "Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ", Bác nói vậy, chứ không phải là một hiến pháp chung chung. Trong chữ dân chủ đó hàm chứa rất nhiều điều. Điều đó được thể hiện ngay trong hiến pháp 1946.

    Tất nhiên không nên ca ngợi một chiều Hiến pháp 1946. Hiến pháp 1946 đưa vào hoàn cảnh hiện nay như thế nào không đơn giản. Chủ thuyết của Bác Hồ về Hiến pháp là rất rõ ràng. Chúng ta phải theo tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề là vận dụng như thế nào. Từ tư tưởng đó phải nghiên cứu, vận dụng thành lí thuyết Hồ Chí Minh về Hiến pháp. Việc này khó nhưng không thể không làm.

    Có lúc, ở các cấp của Đảng, ta ngại dân chủ. Ta nói dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh mà không có chữ dân chủ (phải đến sau này mới được bổ sung). Chúng ta phải làm cho rõ tại sao chúng ta ngại dân chủ. Việc bổ sung vào là do sức ép hay ta tự nguyện làm. Ta sẽ giữ như thế và thực hiện dân chủ thật sự, hay chúng ta tiếp tục ngại.

    Lâu nay ta nghe nhiều đến diễn biến hòa bình. Tất nhiên ta phải cảnh giác với diễn biến hòa bình và cũng có người muốn làm việc đó. Nhưng vì chúng ta sơ hở, không quyết tâm nên ta mới bị diễn biến. Chúng ta không làm đến nơi thì mới bị diễn biến, còn nếu chúng ta thực sự dân chủ thì không ai làm gì được.

    Tất nhiên, đụng đến những vấn đề này là những vấn đề rất cơ bản. Nếu không làm rõ với nhau từ đầu thì dễ bị quy chụp. Nói đến diễn biến thì không phải là kẻ thù nào từ bên ngoài vào diễn biến mà diễn biến ở chính trong nội bộ này. Từ trong nội bộ này có những lực lượng muốn diễn biến. Tại sao chúng ta lại để cho họ làm được như thế, và tại sao họ lại tranh thủ được người dân? Ta phải đánh gục họ đi, không phải bằng bạo lực mà bằng sức mạnh của sự đồng lòng, ủng hộ trong dân, từ niềm tin của dân. Phải đảm bảo cho được lòng tin của dân đối với Đảng. Đây là vấn đề Đảng lo nhất.

    Đã đến lúc chúng ta phải nói thẳng với nhau, nhìn thẳng vào sự thật, không tránh né những vấn đề cốt tử như vậy. Thời gian càng tiến về tương lai, chúng ta càng thấy cái vĩ đại của Bác Hồ. Người vượt qua mọi sóng gió để lãnh đạo đất nước.

    Phải làm sao tận dụng cho được lợi thế này, sức mạnh này. Vấn đề là khi người ta ra sức đề cao Hồ Chí Minh, người ta có thực sự làm theo Bác không? Đó là điều cần suy nghĩ. Người ta có thực sự: cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư không? Người ta có thực sự vì dân, vì nước, vì đảng không hay vì tính toán lợi ích riêng của mình rồi lồng vào đây, dưới danh nghĩa của đảng?

    Đó là vấn đề cần hết sức cảnh giác, ngăn chặn. Nếu làm như thế là có tội với Bác, với chế độ, với nhân dân, với lí tưởng của Bác và mục tiêu mà Bác dành cả đời để cống hiến.
    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Dân chủ thì ta sẽ lựa chọn được lãnh đạo đủ đức, đủ tài, đủ tầm lãnh đạo đất nước , nắm bắt vận hội lớn, vượt qua sóng gió và thách thức của thời đại để đưa dân tộc ta tới bến bờ vinh quang. Điều kiện trong nước và thời đại đòi hỏi chúng ta có những lãnh đạo có bản lĩnh, tầm nhìn, trí tuệ, sức mạnh để tập hợp được quần chúng nhân dân, là điểm tựa lòng tin cho nhân dân Việt Nam để đạt mục tiêu của Bác Hồ xây dựng một Việt Nam phồn vinh, văn minh, hoàn thành sứ mệnh lịch sử mà dân tộc đặt ra với Đảng.

    Nguồn: [URL]http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-09-02-da-den-luc-khong-the-tranh-ne-nhung-van-de-cot-tu-
    thay đổi nội dung bởi: hieuto, 08-12-2010 lúc 12:02
    Trả Lời Với Trích Dẫn 

0 comments:

Post a Comment

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | LunarPages Coupon Code