Hanoinet - Luật Quốc tịch Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ tư thông qua ngày 13-11-2008 và
đã được Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 28-11-2008. Luật gồm sáu
chương, với 44 điều, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-7-2009.
f quy định của Luật, quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của
cá nhân với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm phát sinh
quyền, nghĩa vụ của công dân Việt Nam đối với Nhà nước và quyền, trách
nhiệm của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với công dân
Việt Nam.
Nhận thức rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề quốc tịch đối với một
quốc gia, ngay sau khi tuyên bố độc lập, Nhà nước ta đã rất quan tâm tới
việc ban hành pháp luật về quốc tịch Việt Nam, quy định ai là công dân
Việt Nam. Ngày 20-10-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh
đầu tiên số 53/SL quy định một số vấn đề cơ bản nhất về quốc tịch Việt
Nam.
Sau khi miền nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất về một
Nhà nước, Quốc hội đã ban hành Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1988 và tiếp
theo là Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998.
So với bối cảnh ban hành Luật năm 1998, thì hiện nay đất nước ta đã có
nhiều thay đổi quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội; uy tín và
vị thế quốc tế của nước ta ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Vấn đề quốc tịch Việt Nam cũng cần có những đổi mới cho phù hợp.
Ðể đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, phát triển đất nước trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện chủ trương, chính sách của
Ðảng và Nhà nước ta về đại đoàn kết toàn dân tộc, coi người Việt Nam
định cư ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời và là một nguồn
lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng
cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước,
do vậy Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ tư thông qua Luật Quốc tịch Việt
Nam với nhiều nội dung mới quan trọng sau đây:
Thứ nhất là về nguyên tắc quốc tịch (Ðiều 4). Ðể bảo đảm tính xuyên
suốt, truyền thống của nguyên tắc một quốc tịch, đồng thời được áp dụng
một cách mềm dẻo hơn, khắc phục được mâu thuẫn trong Luật hiện hành,
giải quyết được những vướng mắc trong thực tiễn, Luật tiếp tục khẳng
định nguyên tắc một quốc tịch, những trường hợp ngoại lệ có thể đồng
thời có quốc tịch nước ngoài được quy định cụ thể trong các điều luật.
Việc khẳng định một số ngoại lệ có thể có hai quốc tịch không có nghĩa
là từ bỏ nguyên tắc một quốc tịch mà chỉ là sửa đổi nguyên tắc này cho
mềm dẻo hơn, phù hợp hơn so với Luật năm 1998. Những trường hợp ngoại lệ
này là những trường hợp được Chủ tịch nước cho phép khi xin nhập quốc
tịch Việt Nam (khoản 3 Ðiều 19), xin trở lại quốc tịch Việt Nam (khoản 5
Ðiều 23); trường hợp quốc tịch của trẻ em là con nuôi (Ðiều 37) và
trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã nhập quốc tịch nước
ngoài, nhưng vẫn mong muốn giữ quốc tịch Việt Nam (khoản 2 Ðiều 13).
Ðiểm mới thứ hai là việc đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam (Ðiều 13). So
với Luật Quốc tịch 1998, Luật quy định rõ về việc người Việt Nam định cư
ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật
Việt Nam trước ngày Luật này có hiệu lực thì vẫn còn quốc tịch Việt Nam
và trong thời hạn năm năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, phải đăng
ký với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước nơi người đó định cư để giữ quốc
tịch Việt Nam (khoản 2 Ðiều 13).
Việc quy định phải đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam là giải pháp cụ thể để
trong một thời gian nhất định Nhà nước ta xác định được những ai trong
số hơn ba triệu người Việt Nam định cư ở nước ngoài còn muốn giữ quốc
tịch Việt Nam. Qua đó, xác định rõ ràng tình trạng quốc tịch của họ, tạo
điều kiện để làm tốt công tác quản lý về quốc tịch, thực hiện nhiệm vụ
bảo hộ công dân cũng như các chính sách ngày càng rộng mở của Ðảng và
Nhà nước đối với công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài. Luật cũng bổ
sung quy định việc không đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam là căn cứ để xác
định mất quốc tịch Việt Nam theo khoản 3 Ðiều 26.
Ðiểm mới thứ ba là giải quyết vấn đề nhập quốc tịch Việt Nam đối với
người không quốc tịch đã cư trú ổn định tại Việt Nam. Luật quy định
"Người không quốc tịch mà không có đầy đủ các giấy tờ về nhân thân nhưng
đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam từ hai mươi năm trở lên tính
đến ngày Luật này có hiệu lực thi hành và tuân thủ Hiến pháp, pháp luật
Việt Nam thì được nhập quốc tịch Việt Nam theo trình tự, thủ tục và hồ
sơ do Chính phủ quy định" (Ðiều 22). Ðây là quy định rất quan trọng, tạo
cơ sở pháp lý để giải quyết cho một bộ phận những người đang thường trú
ở Việt Nam, chưa có quốc tịch Việt Nam mong muốn được nhập quốc tịch
Việt Nam theo một trình tự, thủ tục đơn giản, nhưng vẫn bảo đảm tuân thủ
đúng thẩm quyền của Chủ tịch nước trong việc quyết định cho nhập quốc
tịch Việt Nam.
Ðiểm mới thứ tư là, bổ sung trình tự, thủ tục giải quyết các việc về
quốc tịch (các Ðiều 21, 25, 29, 32 và 34) nhằm cải cách thủ tục hành
chính, công khai, minh bạch hóa các trình tự, thủ tục này; quy định thời
gian giải quyết hồ sơ ở từng công đoạn trong quy trình, tương ứng với
trách nhiệm và tính chất công việc phải giải quyết của từng cơ quan, rút
ngắn đáng kể thời gian giải quyết các việc về quốc tịch, tạo điều kiện
cho người dân có cơ sở pháp lý yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền
giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các việc về quốc tịch.
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 là một đạo luật rất quan trọng, trực
tiếp xác định ai là công dân Việt Nam, qua đó làm phát sinh quyền, nghĩa
vụ của công dân Việt Nam đối với Nhà nước và quyền, trách nhiệm của Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với công dân Việt Nam.
Luật có nhiều quy định mới, thông thoáng đối với người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, là một đóng góp quan trọng cho việc thực hiện Nghị quyết số
36 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài,
góp phần quan trọng vào việc thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân
tộc của Ðảng và Nhà nước ta.
Theo Nhân Dân
0 comments:
Post a Comment