Tuesday, August 13, 2013

Cơ chế bảo vệ hiến pháp của các nước và xây dựng ở Việt Nam

I. Cơ chế bảo vệ hiến pháp của các nước trên thế giới
1. Khái niệm về bảo vệ hiến pháp

- Thuật ngữ bảo vệ hiến pháp được sử dụng ở Việt Nam và Nga. Ở Anh và Mỹ có khái niệm “jusdical review” – kiểm tra tư pháp – dùng để chỉ việc kiểm tra của cơ quan tư pháp đối với tính lập hiến của các đạo luật do cơ quan lập pháp đưa ra. Khái niệm này tương đương với khái niệm “bảo hiến” hay “ kiểm hiến”

- Bảo hiến là kiểm soát tính hợp hiến của các đạo luật, là xét xem những đạo luật được đưa ra có phù hợp với tinh thần, nội dung của hiến pháp hay không. Sự bảo hiến này nhằm vào các đạo luật do Quốc hội đưa ra.

- Tuy nhiên các chế định bảo hiến còn thực hiện nhiều chức năng khác để bảo vệ nội dung là tinh thần hiến pháp, như giải quyết tranh chấp giữa lập pháp và hành pháp, giữa liên bang và tiểu bang…
2. Các mô hình bảo vệ hiến pháp cơ bản trên thế giới

Tùy thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể là mỗi nhà nước xác định cho mình 1 mô hình hay cơ chế bảo vệ hiên pháp phù hợp.
2.1. Mô hình bảo hiến kiểu Mỹ (American model)

- Được thiết lập đầu tiên tại Mỹ vào năm 1803 trong vụ án Marbury và Madison – được xem là mô hình bảo hiến phi tập trung bởi quyền giám sát tính hợp hiến thuộc về tất cả các tòa án

- Đặc điểm :Giao cho tòa án tư pháp xem xét tính hợp hiến cuẩ các đạo luật thông qua việc giả quyết các vụ việc cụ thể, dựa vào các đơn kiện của đương sự, cá sự kiên pháp lí cụ thể mà bảo vệ hiến pháp

- Ưu điểm: liên quan trực tiếp đến những vụ việc cụ thể nên bảo vệ hiến pháp một cách cụ thể

- Nhược điểm :

+ Giao quyền bảo hiến cho tòa án nên thủ tục dài dòng

+ Chỉ bảo vệ hiến pháp từng vụ việc cụ thể do phán quyết chỉ có tính ràng buộc đối với các bên tham gia tố tụng, tranh tụng vụ việc đó

- Hầu hết các nước theo hệ thống pháp luâtj Anh – Mỹ đều áp dụng mô hình này. Ngoài ra còn được áp dụng ở một số nước theo truyền thống luật La Mã ở Mỹ latinh và một số nước ở Châu âu như Hy Lạp. Na Uy. Đan Mạch…

2.2. Mô hình bảo hiến kiểu pháp ( the Friench model)
- Ở mô hình này, chỉ được giám sát tính hợp hiến của VB được phê chuẩn bởi nghị viện nhưng chưa được ban hành bởi tổng thống

- Ưu điểm: cho phép giám sát tính hợp hiến của VBQPPL được tiến hành ngay trước khi văn bản được ban hành nên hạn chế đáng kể số văn bản vi hiến, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật

- Nhược điểm : cơ quan bảo hiến can thiệp quá sâu quy trình lập pháp của nghị viện

2.3. Mô hình bảo hiến của các nước châu Âu ( European Model)
- Thành lập cơ quan chuyên trách để thực hiện bảo vệ hiến pháp

- Kết hợp việc giả quyết các vụ việc cụ thể và những việc có tác dụng chung cho cả xã hội thông qua đề nghị của những người có thẩm quyền trong bộ máy Nhà nước.

2.4. Mô hình bảo hiến hỗn hợp kiểu Âu - Mỹ ( The mixed Model)
- Vừa trao choc ơ quan bảo hiến chuyên trách như Tòa án hiến pháp, vừa trao quyền bảo hiến co tất cả các tòa án khi giải quyết cá vụ việc cụ thể ; có quyền xem xét tính hợp hiến cảu các đạo luật và được quyền không áp dụng các đạo luật được coi là không phù hợp với hiến pháp

- Áp dụng ở Bồ Đào Nha, Thụy Sỹ, Columbia, Venezuela, Peru, Brazil.

II. Cơ chế bảo hiến của Cộng hoà Liên bang Đức (CHLB Đức ) :
1. Khái quát :
- CHLB Đức là quốc gia tiêu biểu cho việc áp dụng mô hình bảo vệ hiến pháp của các nước Châu Âu ( European Model ) tức là thành lập cơ quan chuyên trách để thực hiện bảo vệ Hiến pháp. Cơ quan này gọi là “ Toà án Hiến pháp “ hay “ Toà bảo hiến “.

- Ngay từ những thể chế như pháp viện Đế chế ( năm 1945) , Hội đồng Đế chế ( 1518 ) ở Đức đã có sự hành luật giữa các cơ quan quốc gia.

· Năm 1850, với Toàn án quốc gia Bayern, 1 toà án đặc biệt đầu tiên cho những vấn đề chung quanh Hiến pháp đã hình thành. Hiến pháp Weimar ( 1919 ) đã dự kiến 1 toà án Hiến pháp có giới hạn với Pháp viện quốc gia.

· 23/05/1949, hiến pháp CHLB Đức được công bố và tại điều 94, Toà án Hiến pháp đã được hiến định.

· 16/04/1951, luật toà án hiến pháp CHLB Đức được công bố, và tại điều 1 của luật, Toà án hiến pháp CHLB Đức được xác định là “ toà án tự chủ, độc lập với tất cả các cơ quan hiến pháp khác “ . Khác với các cơ quan hiến pháp khác, Toà án hiến pháp cẫn có sự kiến lập thông qua đạo luật này. Toà án bắt đầu làm việc 2 năm sau khi hiến pháp có hiệu lực và vào ngày 09/09/1951 các phán quyết đầu tiên được tuyên bố.

- Ở Đức, Toà án bảo hiến Liên bang vừa là cơ quan hiến pháp cao nhất của liên bang, vừa là toà án xem xét các vấn đề liên quan đến áp dụng hiến pháp. Toà án bảo hiến liên bang đảm bảo việc thực hiện hiến pháp của liên bang, Toà án Bảo hiến bang đảm bảo thực hiện hiến pháp của bang mình. Mặc dù không có quan hệ thứ bậc giữa các Toà án Bảo hiến Liên bang nhưng Toà án Bảo hiến Liên bang vẫn có vai trò quan trọng vì trên thực tế, văn bản pháp luật Liên bang có hiệu lực pháp lý cao hơn văn bản pháp luật các bang.

2. Cơ cấu:
- Toà án Bảo hiến Liên bang gồm 2 văn phòng( senate) với 16 thẩm phán, chia đều cho 2 văn phòng, một nửa do Hạ viện liên bang, một nửa do Thượng viện liên bang bầu với đa số ( 2/3 số phiếu thuận ). 6 thẩm phán được lựa chọn trong số các thẩm phán của Toà án Liên bang. 10 Thẩm phán còn lạ là những nhân vật không dưới 40 tuổi và không quá 68 tuổi, đủ điều kiện để được chọn thành dân biểu Hạ viện, đã tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật, có khả năng chuyên môn cần thiết để hành nghề thẩm phán. Thẩm phán ở Toà án Bảo hiến Liên bang không được kiêm chức vụ trong TW hay Chính phủ, nhưng có thể tham gia giảng dạy ở các trường đại học và nghiên cứu khoa học. Nhiệm kì các thẩm phán là 12 năm và không được tái nhiệm.

- Hai văn phòng của Toà Bảo hiến Liên bang ( là 1 hình thức Toà án song đôi _ Twin-Court ) có quyền hạn ngang nhau và độc lập với nhau được pháp luật quy định. Trên thực tế do có quá nhiều khiếu kiện nên 2 Hội đồng xét xử gồm 8 thẩm ohán chỉ xét xử khoảng 30 vụ mỗi năm là những vụ quan trọng nhất. Mỗi hội đồng có quyền phán quyết các vấn đề với sự hiện diện ít nhất 6 thành viên ( 6/8 ).

- Đứng đầu Toà án Hiến pháp Liên bang là Chủ tịch ( Chánh án ), sau là phó chánh án. Chánh án và phó chánh án toà án do Quốc hội và hội đồng liên bang bầu ra từ số thành viên của Đoàn chủ tịch Toà án hiến pháp liên bang theo nguyên tắc luân phiên. Nghĩa là khi Quốc hội bầu Chánh án thì Hội đồng Liên bang bầu ra Phó chánh án và ngược lại đến nhiệm kì sau.

Tuy nhiên Chánh án không có quyền chỉ thị, kỉ luật các thẩm phán, mà chỉ có quyền quản lí hành chính với các thẩm phán, như cho công tác. Việc cho thẩm phán nghỉ hưu hay miễn nhiệm thuộc quyền thủ tướng.

- Mỗi thẩm phán được chọn vào 1 văn phòng của Toà án Bảo hiến Liên bang không thể được chuyển qua văn phòng bên kia và cũng không thể thay thế. Việc thẩm phán toà này tham gia hoạt động của toà kia chỉ được phép trong trường hợp khẩn cấp mà toà đó không đủ năng lực biểu quyết hoặc trong trường hợp giải quyết đơn kiện của Tông thống Liên bang hay thẩm phán.

Bên cạnh đó, khác với thẩm phán Toà án Liên bang thông thường, thẩm phán Toàn án Bảo hiến Liên bang có những đặc thù riêng. Trước hết họ không chỉ là các cơ quan Toà án mà họ là thành viên của 1 cơ quan Hiến pháp. Vì vậy họ không phải chịu bất kì một sự giám sát hành chính ( công vụ ) nào. Trong khi đó, các thẩm phán của Toà án tối cao vẫn có thể bị kỷ luật theo quyết định của Toà án công vụ ( Toà án kỷ luật ).

3.Thẩm quyền :
Pháp luật CHLB Đức quy định rõ những vụ việc ( tranh chấp) được giải quyết ở mỗi toà.

Toà án 1 xử lý những vụ việc liên quan đến mối quan hệ giữa nhà nước và công dân ở cả hai mặt lý thuyết và thực hành. Xem xét tính không phù hợp với các quyền cơ bản của một quy định pháp luật cũng như giải quyết những khiếu nại Hiến pháp :

- Tranh chấp hoặc nghi ngờ về sự phù hợp của Hiến pháp Liên bang của Pháp luật liên bang hay tiểu bang, hay với pháp luật Liên bang của pháp luật tiểu bang, theo đề nghị của Chính phủ Liên bang, của một Chính phủ tiểu bang hoặc 1/3 số đại biểu Quốc hội.

- Về sự phù hợp của một đạo luật Liên bang hay của tiểu bang với Hiến pháp Liên bang, của một đạo luật hay pháp luật khác của một tiểu bang với luật của Liên bang theo đề nghị của một toà án. Trong trường hợp xảy ra vi hiến, việc áp dụng đao luật phải được đình hoãn. Nếu là vi hiến với hiến pháp Bang, phải có phán quyết của toà án Bảo hiến Liên bang. Nếu là vi hiến với Hiến pháp Liên bang, phải có phán quyết Toà án Bảo hiến Liên bang.

Toà án 2 xử lý các vụ việc liên quan đến mối quan hệ giữa các bộ phận và nhánh quyền lực khác nhau trong nội bộ Nhà nước : tập trung giải quyết những vấn đề tranh chấp theo luật công,phát sinh từ mối quan hệ giữa các nhánh quyền lực ( Quốc hội-Chính phủ ), giữa các cấp quyền lực ( Liên bang- Tiểu bang ) và các tranh chấp khác theo luật công.

- Về việc thực hiện quyền cơ bản của công dân : mỗi công dân có quyền đệ đơn xin Toà án Bảo hiến Liên bang phán quyết tính cách vi hiến, hợp hiến đới với cách hành xử của các cơ quan công quyền, vi phạm các quyền căn bản của mình, không những với các đạo luật thông thường của Quốc hội, mà cả đối với nghị định, pháp lệnh..của chính phủ, cho đến những bản án an ức của các Toà án Liên bang cũng như những bang mà người dân cho là vi hiến. Số các vu khiếu kiện cá nhân là rất lớn ( từ năm 1931 đến 1999 có 122 257 vụ ).

- Về việc cấm hoạt động của một Đảng chính trị : tức là xác nhận tính cách hợp pháo hay vi hiến của các chính đảng, dựa trên tổ chức nọi bộ, hoạt động của các tổ chức đó, cũng như nguyên tắc dân chủ “ Các chính đảng có mục đích hay cách hành xử của các đảng viên nhằm làm tổn thương hay loại trừ sự hiên hữu của CHLB Đức, là những chính đẩng bất hợp hiến. Về vấn đề phán quyết tính cách vi hiến sẽ do Toà án Bảo hiến Liên bang quyết định ” ( Điều 21Hiến pháp CHLB Đức 1949) . Từ năm 1931 đến 1999 có 5 vụ Toà án Bảo hiến Liên bang quyết định cấm 1 Đảng phái chính trị hoạt động.

- Khiếu nại chống một quyết định của Quốc hội về tư cách đại biểu.

- Khiếu kiện của Quốc hội hay Hội đồng Liên bang chống lại Tổng thống Liên bang :Toà án Bảo hiến Liên bang có quyền xét xử vị Nguyên thủ quốc gia bị tố cáo vi phạm hiến pháp hay luật pháp liên bang bằng hành động có suy tính trước. “ Hạ viện hoặc Thượng viện Liên bang có quyền tố cáo Tống thống Liên bang trước Toà án bảo hiến Liên bang vì có những hành đọng có suy tính vi phạm Hiến pháp hoặc lập pháp liên bang. Để có thể tố giác,đơn tố cáo phải được ít nhất 1/4 thành viên Hạ viện hoặc 1/4 thành viên Thượng viện …” ( Điều 61 Hiến pháp CHLB Đức 1949 ).

- Trừơng hợp giải thích Hiến pháp của cơ quan tối cao Liên bang khi có tranh chấp về phạm vi quyền và nghĩa vụ cơ bản.

- Tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của Liên bang và các tiểu bang , đặc biệt liên quan đến việc thực thi pháp luật Liên bang của các tiểu bang hay liên quan đến hoạt động giám sát của Liên bang. Các tranh chấp khác theo luật công giữa liên bang và các tiểu bang, hoặc giữa các tiểu bang với nhau cũng như trong nội bộ một tiểu bang, khi chúng không thể giải quyết bằng toàn án thông thường.Từ năm 1951-1999 có 106 vụ tranh chấp thuộc loại này.

- Trường hợp có nghi ngờ về khả năng trở thành pháp luật Liên bang của pháp luật quốc tế, theo đề nghị của một toà án. Theo điều 25 Hiến pháp 1949, các đạo luật quốc tế tổng quát là thành phần tất yếu của luật pháp Liên bang, có giá trị trên luật pháp Liên bang, xác định quyền và bổn phận cho dân chúng trên lãnh thổ Liên bang : “ Trong các cuộc tranh luận về luật pháp nếu không chắc chắn 1 đạo luật quốc tế có là thành phần tất yếu của luật pháp liên bang hay không và nếu đạo luật đó có đưa đến các quyền hạn và nghĩa vụ đối với cá nhân hay không, toà án phải hỏi ý kiến quyết định của Toà án Bảo hiến Liên bang” ( Điều 100, Hiến pháp CHLB Đức 1949 ).

- Trường hợp một toà án Hiến pháp Liên bang muốn giải thích hiến pháp Liên bang khac với quyết định của Toà án Hiến pháp liên bng hay một Toà án Hiến pháp Liên bang khác, theo đề nghị của chính toà án Hiến pháp tiểu bang.Tức là Toà án bảo hiến Liên bang có quyền bảo đảm việc giải thích đồng nhất các nguyên tắc nền tảng của Hiến pháp 1949 với các Toà án Bảo hiến bang “ Trong giải thích hiến pháp 1949, nếu toà án Bảo hiến của 1 bang muốn giải thích khác đường lối của Toà án Bảo hiến Liên bang, hay Toà án Bảo hiến bang giải thích khác cách giải thích của toà án Bảo hiến bang khác, Toà án Bảo hiến Liên bang phải tham khảo ý kiến của Toà án Bảo hiến Liên bang “ ( Điều 100, Hiến pháp CHLB Đức 1949 )

- Trường hợp có ý kiến khác nhau về vấn đề tiếp tục có hiệu lực của pháp luật Liên bang…

III. Hội đồng Bảo hiến của Pháp :
1. Khái quát :
- Hầu hết các nước trên thế giới và Châu Âu hiện nay, một cơ quan chuyên biệt ( Hội đồng bảo hiến hoặc Toà án Hiến pháp ) hoặc Toà án tối cao và hệ thống Toà án được trao thẩm quyền xem xét tính hợp hiến của các đạo luật của Nghị viện khi các đạo luật này đã có hiệu lực . Tức là tương tự như các hoạt động được xem là tài phán khác, tài phán Hiến pháp chỉ hướng tới xét xử các hành vi mà nguyên đơn cho là đã vi phạm pháp luật chứ không hướng tới ngăn ngừa vi phạm pháp luật xảy ra.

- Tuy nhiên, cơ chế bảo vệ Hiến pháp dựa trên hoạt động ”phòng hiến” . Hội đồng Bảo hiến ở Pháp không có quyền xem xét tính hợp hiến của các đạo luật đã có hiệu lực mà chỉ có quyền xem xét tính hợp hiến củ các đạo luật trước khi chúng được ban hành và có hiệu lực. Tức là: khi thủ tục ban hành lụât chưa hoàn thành, văn bản đó vẫn chưa được xem là luật, cho nên nếu nội dung của nó trái hiến pháp thì cũng không khác 1 bản dự thảo luật có nội dung trái hiến pháp ; hành vi vi phạm hiến pháp đã có dấu hiệu nhưng vẫn chưa đủ yếu tố cấu thành. So sánh với các nước khác có thể khẳng định mô hình bảo hiến của pháp là một mô hình bảo hiến hạn chế, vì các đạo luật đã có hiệu lực không thuộc phạm vi xem xét của cơ quan này.

2. Cơ cấu :
Điều 56 Hiến pháp 1958 quy định : Hội đồng Bảo hiến gồm 9 thành viên do Tổng thống, Chủ tịch Thượng viện , Chủ tịch Hạ viện bổ nhiệm ( mỗi người bổ nhiệm ba thành viên ), nhiệm kì 9 năm và không gia hạn. Hội đồng cải tân 1/3 thành viên sau 3 năm. Ngoài 9 thành viên kể trên, thành viên đương nhiên và vĩnh viễn là cựu Tổng thống Pháp. Chủ tịch Hội đồng do Tổng thống bổ nhiệm. Chủ tịch có quyền quyết định nếu số phiếu bằng nhau.

Thành viên của Hội đồng Bảo hiến không thể đồng thời là thành viên của Chính phủ, Nghị viện, của Hội đồng Kinh tế và xã hội. Điều 57 hiến pháp quy định : Không được kiêm nhiệm chức vụ hội viên Hội đồng bảo hiến hay chức vụ dân biểu. Thành viên của Hội đồng cũng không thể đảm nhiệm bất kì chức vụ gì của một cơ quan công cộng hoặc tham gia vào các lĩnh vực mà có thể dễ ảnh hưởng đến quyết định của Hội đồng ( Điều 5, điều 7 Luật về tổ chức). các thành viên cũng không được tham gia vào bất kì một vị trí có trách nhiệm hoặc những chức vụ trong các Đảng chính trị hoặc các nhóm lợi ích.

3.Thẩm quyền của Hội đồng Bảo hiến :
3.1. Thẩm quyền chung:
Theo Hiến pháp 1958, Hội đồng Bảo hiến được coi là cơ quan quyền lực chính trị tối cao được trao nhiều thẩm quyền trong đó có 3 loại thẩm quyền chính :

- Thẩm quyền tư vấn : Hội đồng có quyền tham gia vào quá trình thiết lập vị trí Tổng thống khi vị trí này không thực thi được nhiệm vụ của mình( Điều 7 ), và có quyền đưa ra ý kiến cho Tổng thống quyết định những biện pháp đặc biệt trong những hoàn cảnh đặc biệt.

- Thẩm quyền xem xét các tranh chấp trong bầu cử ( nghị viện và Tổng thống ) và trưng cầu ý dân : quyết định của Hội đồng Hiến pháp là quyết định cuối cùng bắt buộc thi hành với tất cả cơ quan nhà nước và không được khiếu nại. Nhưng Hội đồng Hiến pháp thường không tự mình hành động, thẩm tra, giải thích hay phán quyết nếu không có yêu cầu.

- Thẩm quyền xem xét tính hợp hiến của các đạo luật trước khi công bố và giữ gìn.

3.2. Thẩm quyền riêng :
3.2.1 Hội đồng Bảo hiến thực hiện quyền xem xét tính hợp hiến bằng hai cách :
- Đối với các quy tắc của hai viện và các đạo luật về Tổ chức, thủ tục xem xét tính hợp hiến là bắt buộc; trong khi đó, thủ tục này là tuỳ nghi đối với các đạo luật thường và các hiệp ước quốc tế.

- Trong trường hợp Hội đồng Bảo hiến được yêu cầu xem xét tính hợp hiến của các đạo luật về tổ chức, các quy tắc của 2 viện, đạo luật thường và các điều ước quốc tế, ngay lập tức việc ban hành văn bản đó bị đình chỉ.

· Nếu hội đồng Bảo hiến tuyên bố các văn bản đó không trái với hiến pháp, quá trình công bố tiếp tục được tiến hành.

· Nếu hội đồng tuyên bố văn bản đó là vi hiến, các bản văn đó không thể được công bố hay có hiệu lực ( khi 1 điều ước có 1 điều khoản bị tuyên bố là vi hiến, việc kí kết và ban hành hiệp ước đó ngay lập tức bị đình chỉ cho tới khi Hiến pháp được sửa đổi ).

3.2.2. Ngoài ra:
- Hội đồng bảo hiến có thể tham gia vào giai đoạn soạn thảo các đạo luật hoặc sửa đổi các đạo luật khi có sự tranh chấp về thẩm quyền giữa Ngịh viện và Chính phủ ( Chính phủ cho rằng những quy định của đạo luật đang được nghị viện soạn thảo chứa đựng những vấn đề không nằm trong phạm vi Điều 34 Hiến pháp ).

- Hội đồng bảo hiến có thể kiểm soát sự vi phạm của các đạo luật đã có hiệu lực trong trường hợp :

· Các đạo luật được thông qua trước khi thông qua Hiến pháp 1958.

· Các đao luật được thông qua sau 1958, có những quy định không thuộc phạm vi của lập pháp, nhưng Chính phủ lại không đệ trình vấn đề đó lên Hội đồng Bảo hiến.

IV.CƠ CHẾ BẢO VỆ HIẾN PHÁP Ở NGA
1.Khái quát:
Trên thế giới có 5 mô hình bảo hiến cơ bản. Nga là một trong những nước Châu Âu có mô hình bảo hiến kiểu Châu Âu ( European Model) tức là thành lập một cơ quan chuyên trách việc thực hiện bảo vệ hiến pháp. Cơ quan này gọi là “toà án hiến pháp” hay “toà bảo hiến”

- Đối với Nga , toà án hiến pháp là một chế định hoàn toàn mới mẻ khi năm 1991, “toà án hiến pháp Nga” lần đầu tiên được thành lập và hoật động dựa trên luật về toà án Hiến Pháp Liên Bang ở Nga 21/7/1994

- Đây là cơ quan hoạt động độc lập , có khả năng hạn chế quyền lực của cơ quan lập pháp và hành pháp trên cơ sở hiến pháp, là công cụ để bảo vệ thể chế dân chủ được hiến pháp xác lập, bảo vệ cơ cấu tổ chức liên bang, khu vực kinh tế thống nhất, tư do kinh doanh, bảo vệ quyền lợi tự do cho công dân

2. Cơ cấu
- Gồm 19 thẩm phán , nhiệm kì 15 năm, do hội đồng Liên Bang (thượng viện) bổ nhiệm theo đề nghị của thủ tướng

- Đứng đầu là chánh án toà án Hiến Pháp do các thẩm phán toà án Hiến Pháp bầu

-Trên thực tế , các thành viên của toà án hiến pháp đều gồm những nhà luật học có tầm cỡ ( trong 19 thẩm phán có 12 thẩm phán có học vị tiến sĩ khoa học , 5 thẩm phán có họ vị phó tiến sĩ)

3. Thẩm quyền
- Theo yêu cầu của Toà Án Liên Bang Nga, hội đồng Liên Bang , Đuma quốc gia(hạ viện) ,1/5 số thành viên hội đồng Liên Bang , đại biểu Đuma quốc gia , chính phủ Liên Bang Nga ,toà án tối cao Liên Bang Nga ,toà án trọng tài cao cấp Liên Bang Nga , cơ quan lập pháp, hành pháp của các chủ thể Liên Bang , toà án hiến pháp có quyền giải thích một quyết định cụ thể của hiến pháp Liên Bang hoặc sẽ xem xét tính hợp hiến của :

+ Các đạo luật Liên Bang , văn bản quy phạm của thủ tướng, hội đồng liên bang Đuma quốc gia, chính phủ Liên Bang Nga

+ Hiến páp các nước cộng hoà , điều lệ và văn bản quy phạm pháp luật của các chủ thể Liên Bang về những vấn đề thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan quyền lực nhà nước Liên Bang, những vấn đề thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan quyền lực nhà nước Liên Bang và cơ quan quyền lực của các chủ thể Liên Bang

+ Các thoả thuận giữa các cơ quan quyền lực nhà nước Liên Bang và cơ quan quyền lực nhà nước của các chủ thể Liên Bang , thoả thuận giữa các cơ quan quyền lực nhà nước của các chủ thể Liên Bang với nhau

+ Hiệp định quốc tế mà Liên Bang Nga kí kết nhưng chưa có hiệu lực

- Theo các khiếu kiện về việc vi phạm quyền và tự do của công dân đã được hiến pháp quy định và theo yêu cầu của các toà án, toà án hiến pháp kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật được áp dụng đối với các trường hợp cụ thể theo trình tự, thủ tục pháp luật Liên Bang quy định. Hoặc toà án hiến pháp có thể yêu càu các toà án cấp dưới kiểm tra lại tính hợp hiến cho việc áp dụng đạo luật cụ thể với cá nhân ,tổ chức đó =>xem xét khiếu nại là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của toà án hiến pháp

- Toà án hiến pháp giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền giữa:

+ Cơ quan quyền lực nhà nước Liên Bang

+ Cơ quan quyền lực nhà nước Liên Bsng và cơ quan quyền lực nhà nước của các chủ thể Liên Bang với nhau

-Các văn bản quy phạm pháp luật , quy định, Điều ước quốc tế bị toà án hiến pháp tuyên bố là trái với hiến pháp thì không có hiệu lực pháp lý

- Ngoài ra các chủ thể Liên Bang còn có thể thành lập toà án hiến pháp của mình để xem xét những vấn đề lien quan đến tính (không) phù hợp của các văn bản quy phạm pháp luật mà các cơ quan quyền lực nhà nước của các chủ thể Liên Bang, các cơ quan tự quản địa phương của các chủ thể Liên Bang ban hành với hiến pháp của các chủ thể Liên Bang , cũng như để giải thích hiến pháp của các chủ thể Liên Bang . Nguyên tắc, trình tự, thủ tục hoạt động của các toà án nay được quy định trong pháp luật của chủ thể Liên Bang tương ứng

- Hàng năm, toà án hiến pháp Liên Bang tuyên 30 bản án và ra khoảng 200 quyết định ( trong khi yêu cầu là 600) => mức độ giải quyết xem ra còn hạn chế

- Trước đây ,quyết định của toà án hiến pháp có căn cứ đầy đủ nhưng không phải lúc nào cơ quan nhà nước cũng thực hiện đấy đủ

- Ngày nay, uy tín của toà án hiến pháp được nâng cao . Do thủ tướng không cho phép bất kì can thiệp nào vào hoạt động của toà án hiến pháp , nghiêm chỉnh chấp hành mọi quyết định ngay cả khi không đồng ý=> mọi cơ quan nhà nước và người có chức quyền đều thừa nhận tính bắt buộc của quyết định của toà án hiến pháp

V. CƠ CHẾ BẢO HIẾN CỦA HOA KÌ
1. Khái quát
- Trên thế giới có 5 mô hình bảo hiến cơ bản. Mỹ là nước tiêu biểu cho mô hình bảo hiến kiểu Mỹ(American Model) hay mô hình “tài phán sau”, có đặc điểm là giao cho toà án tư pháp ở tất cả các cấp xem xét tính hợp hiến của các đạo luật. Mô hình này thong qua việc giải quyết các vụ việc cụ thể , dựa vào các đơn kiện của đương sự, các sự kiện pháp lý cụ thể ma bảo vệ hiến pháp

- Nguyên nhân dẫn đến mô hình này ở Mỹ là do

+ Mỹ là nước áp dụng triệt để học thuyết tam quyền phân lập : 3 cành quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình và chỉ có quan hệ kìm hãm đối trọng với nhau mà không có quan hệ tham vấn , thống nhất ý kiến giữa 3 cơ quan này như trong mô hình cộng hoà đại nghị thường thấy. Chính vì thế , ngành tư pháp hoạt động tương đối độc lập với hành pháp và tư pháp . Trao quyền “ tài phán hiến pháp “ cho ngành tư pháp tức là đã chnj được thế cân bằng quyền lực

+ Người Mỹ có châm ngôn: Chân lý luôn mang tính cụ thể . Vì thế toà án không có bổn phận xem xét những cái trừu tượng , những cái trong tương lai mà chỉ tìm ra chân lý qua hững vụ việc cụ thể đã xảy ra

+ Hiến pháp Mý không điều chỉnh 1 lĩnh vực chuyên biệt mà điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực quan hệ ,xã hội . Vì thế không thể trao quyền “tài phán hiến pháp” cho một toà án chuyen trách như: toà vị thành niên, toà về thuế… mà phải trao cho toà án tất cả các cấp

-Lần đầu tiên toà án chứng tỏ vai trò toà án hiến pháp của mình là năm 1803 trong vụ Mabury kiện Madison. Lần đầu tiên trong lịch sử tư pháp , toà án tối cao lien bang đã chứng minh “kiểm tra tư pháp”(judicial review) là chức năng tự nhiên của cơ quan tư pháp và tòa án có thể xem xét sự phù hợp của đạo luật với hiến pháp, từ chối áp dụng đạo luật đó nếu nó vi hiến

Mặc dù “kiểm tra tư pháp” là một công cụ quyền lực mạnh nhất của toà án Liên Bang nhưng quyền này lại không quy định trong hiến pháp Mỹ

- Mặc dù “quyền tài phán hiến pháp” thuộc về toà án tất cả các cấp song việc xem 1 vụ án nào đó có phải là vụ án hiến pháp hay không không phụ thuộc vào việc nó được giải quyết ở toà án nào, mà dựa trên cơ sở khi công dân khiếu nại rằng quyền của anh ta được quy định rõ trong hiến pháp đã bị xâm hại

Các vụ án hiến pháp thường thu hút sự chú ý của dư luận , có ảnh hưởng đến các vấn đề chính trị. Vì thế việc kháng cáo lên toà án tối cao Liên Bang sẽ dễ dàng được chấp nhận hơn

2. Cơ cấu
Toà án tối cao : Đứng đầu ngành tư pháp Mỹ

Toà án phúc thẩm : 13 toà

Toà án quận : 91 toà

Toà án đặc biệt

Toà hải quan Toà về các yêu sách

Toà phúc thẩm hải quan và phát minh

3. Thẩm quyền
- Mọi toà án Liên Bang đều có thể xem xét sự phù hợp của các đạo luật với hiến pháp Mỹ thông qua các hành vi xâm phạm cụ thể phát sinh từ nhiều lĩnh vực khác nhau trên thực tế, đồng thời từ chối áp dụng đạo luật đó nếu nó vi hiến, Tuy nhiên toà án chỉ có quyền tuyên bố đạo luật vi hiến chỉ áp dụng trong các vụ án cụ thể chứ không có quyền huỷ bỏ đạoluật. Tuy nhiên việc toà án từ chối áp dụng đạo luật vi hiến ở 1 quốc gia Comman Law như Hoa Kỳ cũng đồng nghĩa với việc huỷ bỏ hay vô hiệu hoá đạo luật đó, mặc dù đạoluật đó vẫn tồn tại trên giấy tờ. Trong trường hợp này toà có thể sẽ sử dụng án lệ thay cho đạo luật vi hiến

- Mặc dù quyền tài phán hiến pháp thuộc về toà án tất cả các cấp nhưng người ta thường hay nhắc đến vai trò của toà án tối cao Liên Bang

- Hiến pháp Mỹ quy định rõ , toà án tối cao Liên Bang chỉ có quyền xét xử sơ thẩm trong 2 trường hợp đặc biệt : một là khi vụ án liên quan đến quan chức cấp cao người nước ngoài , 2 là khi 1 bang là bên nguyên( hay bên bị) còn các vụ án khác, quyền xet xử sơ thẩm thuộc về toà án cấp dưới. Toà án tối cao Liên Bang chỉ thụ lý các vụ án được kháng án từ toà án tối cao Liên Bang hoặc toà án Lien Bang cấp dưới . Tuy nhiên với các vụ án thuộc thẩm quyền của toà án Liên Bang , 2 bên bao giờ cũng đem việc tranh tụng ra cơ quan tư pháp cao nhất, phán quyết chung thẩm do vị thẩm phán cao nhất đưa ra

- Nguyên tắc xác định việc giải thích hiến pháp của toà án tối cao liên quan đến tất cả các toà án cấp dưới

Ngoài ra , toà án tối cao cũng chú trọng đến việc bảo vệ quyền tự do, bình đẳng công dân thông qua kiểm tra tính hợp hiến của các phán quyết của toà án cấp dưới

Đây là bản word nội dung một phần bài thuyết trình về tài phán hiến pháp và vấn đề thành lập tòa án hiến pháp VIỆT NAM - môn luật hiến pháp VIỆT NAM do nhóm 1 cử nhân luật 1- HV Ngoại Giao chuẩn bị.
Nguồn : http://sinhvienluat.vn/diendan/showthread.php?t=8211
Trong dự thảo văn kiện Đại hội Đảng X có yêu cầu: ``Xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp, định rõ cơ chế, cách thức bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và luật trong đời sống kinh tế - xã hội``.

Việc tham khảo kinh nghiệm trong việc giám sát và bảo vệ Hiến pháp của một số nước để rút ra những kiến nghị phục vụ việc tiếp tục nghiên cứu, đề xuất hình thành một cơ chế bảo hiến có hiệu quả trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hết sức cần thiết.

I. Về khái niệm bảo vệ Hiến pháp

Ở các nước trên thế giới không có một khái niệm thống nhất về cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Thuật ngữ “bảo vệ Hiến pháp” – “правовая охрана конституция” được tích cực sử dụng ở Việt Nam, ở Liên bang Nga nhưng thuật ngữ này không được dùng nhiều ở các nước trên thế giới và ngay cả ở Nga khái niệm trên cũng chưa được đưa vào luật. Ở Anh và Mỹ có một khái niệm là “judical review” có thể tạm dịch là kiểm tra tư pháp. Bản chất của khái niệm này là dùng để chỉ việc kiểm tra của cơ quan tư pháp đối với tính hợp hiến của các đạo luật do cơ quan lập pháp đưa ra. Khái niệm này tương đương với khái niệm “bảo hiến” hay “kiểm hiến” mà một số sách trước đây về luật hiến pháp ở Việt nam hay dùng .

Bảo hiến (bảo vệ hiến pháp) về ý nghĩa cốt lõi được hiểu là kiểm soát tính hợp hiến của các đạo luật, là xem xét xem những đạo luật được đưa ra có phù hợp với tinh thần và nội dung của Hiến pháp hay không. Theo cách hiểu này, bảo hiến không nhằm vào các văn bản dưới luật. Sự bảo hiến chỉ nhằm vào những đạo luật do Quốc hội đưa ra bởi những văn kiện này đứng ở tột đỉnh của hệ cấp những hành vi pháp lý . Tuy nhiên cách hiểu bảo hiến chỉ là kiểm soát tính hợp hiến của các đạo luật là một cách hiểu theo nghĩa hẹp. Thực tiễn của chế độ bảo hiến ở các nước cho thấy, các định chế bảo hiến được sinh ra không chỉ đơn thuần là kiểm soát tính hợp hiến của hành vi lập pháp. Toà án Hiến pháp ở nhiều quốc gia châu Âu bên cạnh việc kiểm soát tính hợp hiến của các đạo luật của Nghị viện còn thực hiện nhiều chức năng khác để bảo vệ nội dung và tinh thần của Hiến pháp như giải quyết tranh chấp giữa lập pháp và hành pháp, giữa liên bang và tiểu bang, giữa trung ương và địa phương; kiểm soát tính hợp hiến trong hành vi của Tổng thống cũng như của các quan chức trong bộ máy hành pháp... Ở nghĩa rộng hơn, bảo hiến được hiểu là kiểm soát tính hợp hiến của các hành vi của các định chế chính trị được quy định trong Hiến pháp .

II. Các mô hình cơ chế bảo vệ Hiến pháp cơ bản trên thế giới

Mỗi nhà nước xuất phát từ điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể của mình mà xây dựng mô hình, hay cơ chế bảo vệ Hiến pháp phù hợp. Theo GS. TS. Trần Ngọc Đường có thể khái quát thành 3 mô hình cơ bản:

Thứ nhất là mô hình bảo hiến theo kiểu Mỹ (American Model), có đặc điểm là giao cho Toà án Tư pháp xem xét tính hợp hiến của các đạo luật. Mô hình này thông qua việc giải quyết các vụ việc cụ thể, dựa vào các đơn kiện của đương sự, các sự kiện pháp lý cụ thể mà bảo vệ Hiến pháp. Mô hình này có ưu điểm là bảo hiến không trừu tượng vì nó liên quan trực tiếp đến những vụ việc cụ thể nên bảo vệ Hiến pháp một cách cụ thể. Mô hình này cũng có nhược điểm, giao quyền bảo hiến cho Toà án Tư pháp thì thủ tục tố tụng rất dài dòng. Hơn nữa, phán quyết chỉ có tính ràng buộc đối với các bên tham gia tố tụng, tranh tụng vụ việc cụ thể đó, chỉ bảo vệ Hiến pháp từng vụ việc cụ thể. Mô hình của Mỹ, sở dĩ giao cho Toà án Tư pháp là xuất phát từ hệ thống pháp luật của các nước theo hệ thống Anh - Mỹ (Common Law), chủ yếu là án lệ. Án lệ được xem là pháp luật để xét xử.

Thứ hai là mô hình bảo vệ Hiến pháp của các nước châu Âu (European Model). Đây là kiểu thành lập cơ quan chuyên trách để thực hiện bảo vệ Hiến pháp. Mô hình này có cái hay là kết hợp được việc giải quyết các vụ việc cụ thể, đồng thời giải quyết cả những việc có tác dụng chung cho cả xã hội thông qua đề nghị của những người, cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước. Ví dụ như Tổng thống có thể đề nghị sửa đổi, bãi bỏ một văn bản nào đó của Nghị viện trái với Hiến pháp. Nó giải quyết cả ở tầm vĩ mô và cả những vụ việc cụ thể liên quan đến quyền cơ bản của người dân được yêu cầu phán xét.

Thứ ba là mô hình bảo hiến hỗn hợp kiểu Âu - Mỹ (The Mixed Model). Tức là kết hợp các yếu tố của cả 2 mô hình trên, gọi là mô hình bảo hiến của châu Âu và Mỹ, vừa trao cho cơ quan bảo hiến chuyên trách như Toà án Hiến pháp, vừa trao quyền bảo hiến cho tất cả các toà án khi giải quyết các vụ việc cụ thể có quyền xem xét tính hợp hiến của các đạo luật và được quyền không áp dụng các đạo luật được coi là không phù hợp với Hiến pháp. Mô hình này được áp dụng ở Bồ Đào Nha, Thuỵ Sỹ, và một số nước châu Mỹ Latin như Columbia, Venezuela, Peru, Braxin.

Ngoài ra cũng có mô hình giám sát thông qua các cơ quan như Nghị viện, Hội đồng nhà nước hoặc cơ quan đặc biệt nào đó của Nghị viện đảm đương luôn chức năng bảo vệ Hiến pháp .

Ngoài các mô hình cơ chế bảo vệ Hiến pháp kể trên còn có mô hình giám sát tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật kiểu Pháp (The French Model) . Theo mô hình này việc giám sát tính hợp hiến chỉ được tiến hành đối với các văn bản được phê chuẩn bởi Hạ viện nhưng chưa được ban hành bởi Tổng thống. Mô hình kiểu Pháp cho phép việc giám sát tính hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật được tiến hành ngay trước khi văn bản được ban hành do đó hạn chế đáng kể số văn bản vi hiến, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật nhưng điểm yếu của nó là tạo điều kiện cho cơ quan bảo hiến (Hội đồng Hiến pháp) can thiệp quá nhiều vào quá trình lập pháp của Nghị viện.

Lý thuyết về bảo hiến thường chia các mô hình bảo hiến bằng cơ quan tư pháp thành hai mô hình cơ bản: mô hình bảo hiến phi tập trung hoá với đại diện tiêu biểu là Mỹ và mô hình bảo hiến tập trung hoá với đại diện tiêu biểu là Đức .

Mô hình bảo hiến kiểu Mỹ được thiết lập đầu tiên tại Mỹ (năm 1803) và được xem là mô hình bảo hiến phi tập trung bởi quyền giám sát tính hợp hiến của các đạo luật thuộc về tất cả các toà án. Hầu hết các nước theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ đều áp dụng mô hình này. Ngoài ra mô hình bảo hiến kiểu Mỹ còn được áp dụng ở một số nước theo truyền thống Luật La Mã ở châu Mỹ Latin và ở một số nước châu Âu như Hy Lạp, Na Uy, Đan Mạch...

Mô hình bảo hiến kiểu châu Âu được thiết lập đầu tiên ở Áo (năm 1920) và được áp dụng ở hầu hết các nước châu Âu và một số nước châu Mỹ Latin, châu Á, châu Phi...Mô hình này được gọi là mô hình bảo hiến tập trung hoá bởi chỉ có một cơ quan chuyên trách được giao quyền giám sát, bảo vệ Hiến pháp.

III. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp ở một số nước trên thế giới
1. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp ở Mỹ

Kiểm tra tư pháp - bảo vệ Hiến pháp ở Mỹ được xem như chức năng tự nhiên của cơ quan tư pháp. Mặc dù sự kiểm tra tư pháp là một công cụ quyền lực mạnh nhất của Toà án liên bang nhưng điều này không được quy định trong Hiến pháp Mỹ .

Toà án Tối cao Liên bang Mỹ đã tự nhận cho mình vai trò kiểm tra tư pháp qua suy luận pháp lý được đưa ra lần đầu trong vụ Marbury v. Madison (1803). Trong bản án của vụ án này, Toà án tối cao liên bang đã đưa ra một nguyên tắc rõ ràng về kiểm tra tư pháp: “Trong một vụ tranh chấp mà Toà án phải xem xét, nếu một bên đương sự đưa ra sự bất hợp hiến của đạo luật mà người ta muốn đem thi hành, thì Toà án phải kiểm tra xem sự bất hợp hiến đó có thật hay không, và nếu có thật, Toà án phải từ chối áp dụng đạo luật bất hợp hiến” . Thẩm phán Marshall đã khẳng định quyền từ chối áp dụng một đạo luật trái với Hiến pháp vì cho rằng: “ Hiến phápđạo luật cơ bản và có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật của một quốc gia...Nếu toà án có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp, nếu Hiến pháp có hiệu lực pháp lý cao hơn tất cả các văn bản pháp lý thông thường khác của cơ quan lập pháp, thì toà án phải vận dụng Hiến pháp để giải quyết vụ án chứ không phải các văn bản pháp luật thông thường” .

Mọi Toà án Liên bang đều có thể xem xét sự phù hợp của đạo luật đối với Hiến pháp và từ chối áp dụng đạo luật đó nếu nó vi hiến và chỉ có Toà án Liên bang có quyền xem xét về sự phù hợp của các điều khoản trong Hiến pháp của bang với Hiến pháp Liên bang. Quá trình xem xét tính hợp hiến của Toà án Liên bang được gọi là “judicial review” .

Mặc dù quyền tài phán hiến pháp thuộc về tất cả các toà án nhưng người ta hay nhắc đến vai trò của Toà án Tối cao Mỹ (với 9 thẩm phán cao cấp do Tổng thống bổ nhiệm và Thượng nghị viện phê chuẩn với nhiệm kỳ suốt đời) vì trong một vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án Liên bang, hai bên bao giờ cũng đem việc tranh tụng ra trước cơ quan tư pháp cao nhất, phán quyết chung thẩm do vị thẩm phán cao nhất đưa ra.

Toà án Mỹ chỉ có quyền tuyên bố đạo luật không hợp hiến sẽ không được áp dụng trong vụ án cụ thể chứ không có quyền tuyên bố huỷ bỏ đạo luật đó. “Chúng ta không có quyền nói như một số người cho rằng nếu các vị Chánh án có quyền tuyên bố một đạo luật trái với tinh thần Hiến pháp là một đạo luật vô hiệu lực, các vị Chánh án sẽ có quyền quyết định theo ý nghĩ riêng của mình, thay thế quyết định do cơ quan lập pháp ban hành bằng một quyết định dựa trên ý kiến riêng của họ” . Như vậy về nguyên tắc, hiệu lực phán quyết của Toà án chỉ giới hạn trong các vụ án cụ thể. Tuy nhiên có một nguyên tắc bổ sung cho sự thiếu hụt hiệu lực toàn vẹn của các phán quyết hiến pháp là nguyên tắc xác định việc giải thích Hiến pháp của Toà án Tối cao liên quan đến tất cả các toà án cấp dưới. Mặc dù về nguyên tắc, Toà án không có quyền huỷ bỏ một đạo luật bất hợp hiến, đạo luật đó vẫn tồn tại, nhưng việc Toà án từ chối áp dụng một đạo luật bất hợp hiến trong trường hợp cụ thể trên thực tế đã vô hiệu hoá đạo luật đó. Với truyền thống tôn trọng án lệ, trong những trường hợp tương tự, nếu đương sự viện dẫn đạo luật đã bị Toà án tuyên bố bất hợp hiến, Toà thụ lý vụ án sẽ từ chối áp dụng nó.

Toà án Tối cao Mỹ chú trọng bảo vệ các quyền tự do và bình đẳng của công dân thông qua việc kiểm tra tính hợp hiến của các phán quyết của toà án ) đặc biệt trong lĩnh vực hình sự), các quyết định hành chính và các văn bản quy phạm pháp luật.

Ngay từ năm 1937, Thẩm phán Cardozzo tuyên bố: “Điều khoản về thủ tục phù hợp do pháp luật quy định (due process of law) chứa đựng các quyền gắn liền với quan niệm tự do trong khuôn khổ và tất cả các quyền có nguồn gốc từ truyền thống và lương tâm của dân tộc Mỹ, được coi như các quyền cơ bản. Trên cơ sở đó, tất cả các quyền đã được thừa nhận trong mười sửa đổi bổ sung Hiến pháp Mỹ đầu tiên và cả một số quyền mới được đưa ra ( ví dụ quyền được bảo vệ đời tư) đã được gộp vào trong nguyên tắc “due process of law” và có hiệu lực đối với cả Nhà nước liên bang và chính quyền các bang. Trên cơ sở đó đã có rất nhiều án lệ được xây dựng theo tinh thần tiến bộ về quyền tự do tôn giáo, tự do ngôn luận và các quyền trong thủ tục tố tụng hình sự, đặc biệt là dưới thời Chánh án Warren (1953-1969). Theo án lệ của Toà án Tối cao liên bang trong vụ Brown v. Board of Education of Topeka (1954), các bang có nghĩa vụ tôn trọng quyền bình đẳng giữa các chủng tộc. Nguyên tắc về bảo hộ quyền bình đẳng trước pháp luật được mở rộng áp dụng đối với các quyền chính trị và quyền bào chữa. Về quyền bình đẳng giới tính thiếu quy định cụ thể trong Hiến pháp nhưng dưới thời Chánh án Burger (1969 - 1986) và dưới thời Chánh án Rehnquist (1986 - nay), Toà án Tối cao đã phát triển án lệ theo xu hướng bảo vệ các quyền của phụ nữ, các hành vi phân biệt đối xử căn cứ vào giới tính đều bị coi là trái Hiến pháp.

2. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp ở Đức

Ở Đức, Toà án Bảo hiến Liên bang (Bundesverfassungsgericht) vừa là cơ quan Hiến pháp cao nhất của Liên bang, vừa là toà án xem xét các vấn đề liên quan đến áp dụng Hiến pháp . Toà án Bảo hiến Liên bang đảm bảo việc thực hiện Hiến pháp của Liên bang; Toà án bảo hiến của các bang đảm bảo việc thực hiện Hiến pháp của bang mình. Mặc dù không có quan hệ thứ bậc giữa các Toà án Bảo hiến, Toà án Bảo hiến Liên bang vẫn có vai trò quan trọng vì trên thực tế, văn bản pháp luật Liên bang có hiệu lực pháp lý cao hơn văn bản pháp luật của các bang.

Điều đáng chú ý là văn bản pháp lý quan trọng nhất thông qua năm 1949 của Cộng hoà liên bang Đức không được gọi là là Hiến pháp (Konstitution) mà được gọi là Luật cơ bản (Grundgesetz). Điều 1 - Điều khoản đầu tiên của Hiến pháp 1949 được dành để long trọng tuyên bố địa vị tối thượng của con người:

"Phẩm giá con người là bất khả xâm phạm. Nghĩa vụ của mọi quyền lực nhà nước là kính trọng và bảo vệ phẩm giá đó.

Dân tộc Đức nhìn nhận các quyền bất khả xâm phạm và bất khả nhượng của con người như là nền tảng của mọi cộng đồng nhân loại, của hòa bình và công chính trên thế giới. Các quyền căn bản sẽ được kể sau đây có giá trị đối với lập pháp, hành pháp và tư pháp, như là quyền có giá trị bắt buộc trực tiếp".

Với quan niệm Hiến pháp là Luật lệ nền tảng của Quốc gia và định chế Nhân bản và Dân chủ là giá trị bất di dịch, Toà án Bảo hiến Liên bang có thẩm quyền can thiệp để bảo vệ Hiến pháp trong mọi giải thích và áp dụng Hiến pháp vào đời sống thực tế:

"Toà án Bảo hiến Liên bang phán quyết trong trường hợp bất đồng ý kiến hay nghi vấn đối với việc thích hợp hay không thích hợp lý thuyết cũng như thực hành của một đạo luật Liên bang hay đạo luật của bang với Hiến pháp này hoặc việc thích hợp hay không một đạo luật của bang đối với đạo luật của Liên bang, do lời yêu cầu của Chính phủ Liên bang, của Chính phủ của một bang hay của 1/3 thành viên của Hạ viện" (Điều 93 Hiến pháp Cộng hoà liên bang Đức 1949)

Toà án Bảo hiến Liên bang là cơ quan có thẩm quyền phán quyết tính cách hợp hiến hay vi hiến các lối giải thích thành luật lệ, hoạt động, thành phần cơ chế của guồng máy nhà nước và các chủ thể khác. Như vậy, không phải vị Nguyên thủ quốc gia được giao cho bổn phận là người canh giữ Hiến pháp nữa (như trong Hiến pháp Weimar 1919) mà nhiệm vụ này đã được chuyển sang cho các thẩm phán của Toà án Bảo hiến Liên bang.

Toà án Bảo hiến Liên bang gồm 16 thẩm phán, một nửa do Hạ viện Liên bang (Bundestag) và một nửa do Thượng viện Liên bang (Bundesrat) bầu ra với đa số tuyệt đối (hai phần ba số phiếu thuận). 6 thẩm phán được lựa trong số các thẩm phán của Toà án Liên bang. 10 thẩm phán còn lại là những nhân vật ngoài 40 tuổi, hội đủ các điều kiện để được chọn thành dân biểu Hạ viện, đã tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật, có khả năng chuyên môn cần thiết để hành nghề thẩm phán. Quyền hạn và nhiệm vụ của các thẩm phán Toà án Bảo hiến Liên bang kéo dài 12 năm và không được tái nhiệm.

Toà án Bảo hiến Liên bang gồm có hai Văn phòng (Senate) có quyền hạn ngang nhau và độc lập nhau. Mỗi Văn phòng gồm 8 thẩm phán, mỗi thẩm phán được chọn vào một Văn phòng của Toà án Bảo hiến Liên bang không thể được chuyển qua Văn phòng bên kia và cũng không thể thay thế: hai Văn phòng của Toà án Bảo hiến Liên bang là một hình thức Toà án song đôi (Twin - Court). Thẩm quyền của mỗi Văn phòng được pháp luật quy định. Trên thực tế, do có quá nhiều khiếu kiện nên hai Hội đồng xét xử gồm 8 thẩm phán chỉ xét xử khoảng 30 vụ mỗi năm là những vụ quan trong nhất. Mỗi Hội đồng có quyền phán quyết các vấn đề với sự hiện diện ít nhất 6 thành viên (6/8).

Sáu Hội đồng, mỗi Hội đồng gồm ba thẩm phán chịu trách nhiệm giải quyết phần lớn các khiếu kiện được chia thành hai loại chính: loại thứ nhất là các khiếu kiện của người dân về các bản án, quyết định hay hành vi hành chính, trừ trường hợp khiếu kiện dó có liên quan đến một vấn đề chưa từng được giải quyết trước đó hoặc khiếu kiện về tính hợp hiến của một văn bản luật; loại thứ hai là xem xét kiểm tra tính hợp hiến của một văn bản pháp luật cụ thể. Toà án Bảo hiến Liên bang phải giải quyết mỗi năm khoảng 5000 vụ việc thuộc hai loại kể trên, một nửa số vụ có thời gian giải quyết kéo dài trên 2 năm và số vụ việc tồn đọng lên tới hơn 3000 vụ .

Toà án Bảo hiến Liên bang có 13 thẩm quyền khác nhau, trong số đó phải kể đến những thẩm quyền quan trọng nhất sau đây:

Phán quyết tính cách hợp hiến hay vi hiến theo nguyên tắc (abstrate Normenkontrolle) của luật pháp Liên bang cũng như luật pháp các bang:

" Toà án Bảo hiến Liên bang phán quyết trong trường hợp bất đồng ý kiến hay nghi vấn đối với việc thích hợp hay không thích hợp lý thuyết cũng như thực hành một đạo luật Liên bang hay đạo luật của một bang đối với Hiến pháp này, hoặc việc thích hợp hay không một đạo luật của Liên bang đối với đạo luật của các bang..." (Điều 93 Hiến pháp Cộng hoà liên bang Đức 1949). Tính cách hợp hiến hay vi hiến có thể xảy ra khi áp dụng vào thực tế, một đạo luật được ban hành, đó là trường hợp "kiểm soát thực tế " (konkrete Normakontrolle): "Nếu một toà án cho rằng một đạo luật mang tính cách vi hiến, việc áp dụng của đạo luật phải được đình hoãn. Nếu là vi hiến đối với Hiến pháp của bang, cần phải có phán quyết của Toà án Bảo hiến của bang, có thẩm quyền trên các việc tranh luận về Hiến pháp. Trong khi đó, nếu đạo luật mang tính cách vi hiến đối với Hiến pháp này (Luật nền tảng, Grundgesetz), cần phải có sự phán quyết của Toà án Bảo hiến Liên bang. Điều vừa kể cũng có giá trị nếu một đạo luật của bang có tính cách vi hiến đối với Hiến pháp nầy hoặc một đạo luật của bang không phù hợp với luật pháp Liên bang" (Điều 100 Hiến pháp Cộng hoà liên bang Đức 1949)
Thẩm quyền phán quyết các tranh chấp giữa Liên bang và bang hay giữa các bang với nhau. Các tranh chấp trên là điều không thể tránh khỏi trong một nhà nước liên bang. Toà án Bảo hiến Liên bang có quyền phán quyết "... trong trường hợp có sự bất đồng ý kiến về quyền hạn và nhiệm vụ giữa Liên bang và các bang, nhất là đối với việc các bang thi hành một đạo luật Liên bang hoặc bất đồng ý kiến về việc hành xử quyền kiểm soát của Liên bang", "... trong trường hợp có các sự bất đồng ý kiến về công pháp giữa Liên bang và các bang, giữa các bang với nhau, hoặc ngay cả trong nội bộ của một bang, khi không thể nhờ vào quyền tư pháp nào khác để phán quyết" (Điều 93, Hiến pháp Cộng hoà liên bang Đức 1949). Từ năm 1951 đến năm 1999 có 106 vụ tranh chấp thuộc loại này.

Phán quyết các mối tranh chấp về ranh giới của quyền và nhiệm vụ của một cơ chế Liên bang hay đối với những quyền hạn khác, được Hiến Pháp 1949 trao cho hay được xác định. Từ năm 1951 đến năm 1999 có 128 vụ tranh chấp thuộc loại này.

Xác nhận tính cách hợp pháp hay vi hiến của các chính đảng, dựa trên các nguyên tắc dân chủ, về tổ chức nội bộ cũng như hoạt động của các tổ chức đó: "Các chính đảng cộng tác để tạo nên đường hướng chính trị của dân chúng. Thành lập chính đảng là quyền tự do. Nội quy tổ chức của các chính đảng phải phù hợp với các nguyên tắc nền tảng dân chủ".

"Các chính đảng có mục đích hay cách hành xử của các đảng viên nhằm làm tổn thương hay loại trừ sự hiện hữu của Cộng hoà Liên bang Đức, là những chính đảng bất hợp hiến. Về vấn đề phán quyết tính cách vi hiến sẽ do Toà án Bảo hiến Liên bang quyết định" (Điều 21 Hiến pháp Cộng hoà liên bang Đức 1949). Từ năm 1951 đến năm 1999 có 5 vụ Toà án Bảo hiến Liên bang ra quyết định cấm một đảng phái chính trị hoạt động .

Phán quyết về các quyền được Hiến pháp bảo đảm đối với những ai lạm dụng các quyền đó để chống lại các nguyên tắc nền tảng của thể chế Dân chủ Tự do: "Ai lạm dụng quyền tự do tư tưởng, đặc biệt là tự do báo chí (Điều 5, đoạn 1), quyền tự do giảng dạy (Điều 5, đoạn 3), quyền tự do hội họp (Điều 8), tự do lập hội (Điều 9), bí mật thư tín, bưu điện và viễn thông (Điều 10), quyền tư hữu (Điều 14) hay quyền được tỵ nạn (Điều 16 a), để phá đổ định chế căn bản dân chủ và tự do, sẽ bị tước các quyền này. Tình trạng và lượng số của việc hạn chế quyền đó sẽ do Toà án Bảo hiến Liên bang phán quyết" (Điều 18 Hiến pháp 1949).

Mỗi công dân có quyền đệ đơn xin Toà án Bảo hiến Liên bang phán quyết tính cách vi hiến hay hợp
hiến (Verfassungsbeschwerde) đối với cách hành xử của các cơ quan công quyền, vi phạm các quyền căn bản của mình (Grungrechte), không những đối với các đạo luật thông thường của Quốc hội, mà cả đối với nghị định, pháp lệnh... của Chính phủ, cho đến cả những bản án oan ức của các toà án Liên bang cũng như bang mà người dân cho là vi hiến (Điều 1, 33, 38, 103, 104 Hiến pháp 1949):
"Mọi công dân Đức được hưởng các quyền dân sự và chính trị, quyền được thu nhận vào các cơ quan hành chính công, cũng như quyền được thăng tiến cấp bậc công chức không tùy thuộc vào tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai có thể bị thiệt thòi vì tùy thuộc hay không tùy thuộc vào một tôn giáo nào hay ý thức hệ nào" (Điều 33); "Mọi công dân đều có quyền bầu cử khi đủ 18 tuổi " (Điều 38, ); "Trước toà án mọi người đều có quyền phải được lắng nghe theo thể thức luật định" (Điều 103); "Tự do cá nhân chỉ có thể bị giới hạn bởi một đạo luật thông thường (do Nghị viện chuẩn y; Chính phủ, cảnh sát không được ra nghị định, pháp lệnh) và chỉ khi được thi hành tuân theo các hình thức luật định. Người bị bắt giam không thể bị khủng bố tinh thần và hành hạ trên thân xác. Chỉ có quan toà mới có quyền quyết định thời hạn bắt giữ. Cảnh sát tự quyền hạn của mình không thể cầm giữ ai đến cuối ngày hôm sau, sau ngày bị bắt. Bất cứ ai bị bắt vì tình nghi có thể bị truy tố, cùng lắm là ngày hôm sau phải được điệu đến trước quan toà. Quan toà phải báo cho đương sự biết lý do bị bắt, phải nghe ý kiến của đương sự và làm thế nào để đương sự có thể trình bày các lý chứng phản đối của mình. Quan toà phải ra trát án bắt giữ tức khắc bằng văn bản và có lý chứng, hoặc phải ra lệnh thả ngay" (Điều 104 Hiến pháp 1949).

Nền tảng của những trường hợp vừa được nêu lên để bảo vệ con người khi tự do cá nhân bị vi phạm được Hiến Pháp 1949 ghi trong hai điều 17 và 19: "Mỗi người đều có quyền đệ trình bằng văn bản, một mình hay cùng chung với những người khác, các thỉnh nguyện hay phản kháng đến các cơ quan có thẩm quyền hay đến cơ quan dân cử (Nghị viện)"; "Ai bị các cơ quan công quyền vi phạm đến các quyền của mình, có thể thưa lên cơ quan tư pháp. Bởi lẽ không có thẩm quyền nào khác hơn. Đó là thẩm quyền của cơ quan tư pháp thường nhiệm..." Như đã nói, nếu người dân không thấy thoả mãn được cơ quan tư pháp thường nhiệm ở bang hay Liên bang đáp ứng theo công lý, vì không tuân hành các điều khoản Hiến pháp, mỗi người có quyền đệ trình sự kiện đến Toà án Bảo hiến Liên bang xin can thiệp. Số các vụ khiếu kiện cá nhân rất lớn (từ năm 1951 đến năm 1999 có 122.257 vụ). Phần lớn các vụ trong số đó được giải quyết bởi các hội đồng gồm ba thẩm phán.

Những điều vừa được nêu lên cho thấy vai trò quan trọng của Toà án Bảo hiến Liên bang ở Cộng hoà Liên bang Đức, không những trong việc điều hoà để guồng máy quốc gia hoạt động hiệu quả, mà cả trong giáo dục chính trị cho người dân, làm cho họ ý thức đến địa vị hiến định của mình trước các quyền lực nhà nước.

Toà án Bảo hiến Liên bang xét xử vị Nguyên thủ quốc gia, bị Hạ viện hay Thượng viện Liên bang tố cáo là vi phạm Hiến pháp hay luật pháp Liên bang, bằng hành động có suy tính trước:

"Hạ viện hoặc Thượng viện Liên bang có quyền tố cáo Tổng thống Liên bang trước Toà án Bảo hiến Liên bang vì có những hành động có suy tính vi phạm Hiến pháp hoặc luật pháp Liên bang. Để có thể tố giác, đơn tố cáo phải được ít nhất 1/4 thành viên Hạ viện hoặc 1/4 thành viên Thượng viện..." (Điều 61, Hiến pháp Cộng hoà liên bang Đức 1949).

Toà án Bảo hiến Liên bang có quyền bảo đảm việc giải thích đồng nhất các nguyên tắc nền tảng (Grundgesetz) của Hiến pháp 1949 đối với các Toà án Bảo hiến bang: "Trong khi giải thích Hiến pháp 1949, nếu Toà án Bảo hiến của một bang muốn giải thích khác với đường lối của Toà án Bảo hiến Liên bang, hay Toà án Bảo hiến của một bang giải thích khác với cách giải thích của Toà án Bảo hiến của một bang khác, Toà án Bảo hiến bang phải tham khảo ý kiến của Toà án Bảo hiến Liên bang " (Điều 100, Hiến pháp Cộng hoà liên bang Đức 1949).

Toà án Bảo hiến Liên bang có quyền quyết định một đạo luật quốc tế có thực sự hiện hữu và thuộc thành phần luật pháp của Liên bang hay không. Theo điều 25 Hiến pháp 1949, các đạo luật quốc tế tổng quát là thành phần tất yếu của luật pháp Liên bang, có giá trị trên luật pháp Liên bang, xác định quyền và bổn phận cho dân chúng trên lãnh thổ Liên bang:

"Trong các cuộc tranh luận về luật pháp nếu không chắc chắn một đạo luật quốc tế có là thành phần tất yếu của luật pháp liên bang hay không và nếu đạo luật đó có đưa đến các quyền hạn và nghĩa vụ đối với cá nhân hay không, toà án phải hỏi ý kiến quyết định của Toà án Bảo hiến Liên bang " (Điều 100, Hiến pháp 1949)

3.Cơ chế bảo vệ Hiến pháp ở Liên bang Nga

Toà án Hiến pháp Liên bang Nga đã khẳng định được uy tín của mình và là một minh chứng cho việc Liên bang Nga đã phát triển như một nhà nước dân chủ và pháp quyền. Đối với nước Nga, Toà án Hiến pháp là một chế định hoàn toàn mới. Lần đầu tiên trong lịch sử, từ năm 1991 ở Nga xuất hiện cơ quan có khả năng hạn chế quyền lực của các cơ quan lập pháp và hành pháp trên cơ sở Hiến pháp. Toà án Hiến pháp là cơ quan độc lập, là công cụ để bảo vệ thể chế dân chủ đã được Hiến pháp xác lập, bảo vệ cơ cấu tổ chức liên bang, bảo vệ khu vực kinh tế thống nhất, tự do kinh doanh và đặc biệt là bảo vệ quyền và tự do cá nhân .

Theo quy định của Luật Liên bang Nga về Toà án Hiến pháp ngày 8 tháng 2 năm 2001, Toà án Hiến pháp Liên bang Nga bao gồm 19 thẩm phán, có nhiệm kỳ 15 năm. Điều 128 Hiến pháp Liên bang Nga 1993 quy định thẩm phán Toà án Hiến pháp do Hội đồng Liên bang bổ nhiệm theo đề nghị của Tổng thống. Chánh án Toà án Hiến pháp do các thẩm phán của Toà án Hiến pháp bầu. Trên thực tế, thành phần của Toà án Hiến pháp Liên bang Nga gồm những nhà luật học có tầm cỡ (trong 19 thẩm phán của Toà án Hiến pháp hiện tại có 12 thẩm phán có học vị tiến sỹ khoa học, 5 thẩm phán có học vị phó tiến sỹ) là đảm bảo cho các quyết định của Toà án Hiến pháp mang tính khách quan và có cơ sở khoa học.

Theo Điều 127 Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993, Toà án Hiến pháp có thẩm quyền rất rộng.
Khi có yêu cầu của Tổng thống, của một trong hai Viện thuộc Nghị viện Liên bang hoặc của 1/5 số thành viên hai Viện, của Chính phủ, của một trong hai Toà án Tối cao khác của Liên bang, của cơ quan lập pháp hoặc hành pháp của đơn vị lãnh thổ thuộc Liên bang; Toà án Hiến pháp có quyền kiểm tra, giám sát tính hợp hiến của luật, các văn bản quy phạm pháp luật khác của Liên bang, của bất kỳ đơn vị lãnh thổ nào thuộc Liên bang cũng như tính hợp hiến của các điều ước quốc tế chưa có hiệu lực.

Khi có yêu cầu của một trong các bên, Toà án Hiến pháp có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước với nhau hoặc giữa Nhà nước Liên bang với các đơn vị lãnh thổ cấu thành Liên bang.

Khi có yêu cầu của toà án hoặc người dân, Toà án Hiến pháp kiểm tra tính hợp hiến của đạo luật cụ thể áp dụng cho vụ việc có liên quan. Khi có yêu cầu của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào cho rằng quyền hiến định của họ bị xâm hại. Toà án Hiến pháp có quyền yêu cầu toà án kiểm tra tính hợp hiến cho việc áp dụng đạo luật cụ thể đối với cá nhân, tổ chức đó. Xem xét các khiếu nại của công dân được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của Toà án Hiến pháp.

Khi có yêu cầu của Tổng thống Liên bang, của một trong hai Viện thuộc Nghị viện Liên bang, của Chính phủ Liên bang hoặc của Nghị viện của đơn vị lãnh thổ cấu thành Liên bang, Toà án Hiến pháp có quyền giải thích một quy định cụ thể của Hiến pháp Liên bang.

Các văn bản pháp luật hay một số điều khoản trong các văn bản pháp luật bị Toà án Hiến pháp tuyên bố là vi hiến sẽ không có hiệu lực thi hành, những điều ước quốc tế bị tuyên bố là không phù hợp với Hiến pháp sẽ không được áp dụng .

Hàng năm, Toà án Hiến pháp Liên bang Nga tuyên khoảng 30 bản án và ra khoảng 200 quyết định. Nếu so với số đơn yêu cầu (khoảng 600 đơn mỗi năm), có thể nói mức độ giải quyết của Toà án Hiến pháp còn hạn chế. Trước đây có tình trạng là các quyết định của Toà án Hiến pháp tuy có đầy đủ căn cứ, nhưng không phải lúc nào cũng được các cơ quan nhà nước thực hiện đầy đủ . Hiện tại, uy tín của Toà án Hiến pháp đã được củng cố bởi Tổng thống Nga không cho phép bất cứ sự can thiệp nào vào hoạt động của Toà án Hiến pháp và nghiêm chỉnh chấp hành mọi quyết định của Toà án Hiến pháp, ngay cả khi không đồng ý với các quyết định đó. Hình thành một cơ chế rõ ràng là tất cả các cơ quan nhà nước và tất cả những người có chức quyền – bao gồm cả người đứng đầu nhà nước đều thừa nhận tính bắt buộc của các quyết định của Toà án Hiến pháp.

IV. Kết luận

Theo quy định của pháp luật hiện hành, ở Việt nam đã hình thành một cơ chế bảo hiến với thiết chế và nội dung giám sát hiến pháp tương đối cụ thể. Tuy nhiên chúng ta chưa có một cơ chế nào để giám sát chính hoạt động của Quốc hội và giám sát tính hợp hiến của các đạo luật, nghị quyết do Quốc hội ban hành. Nhiều thiết chế quan trọng trong giám sát và bảo vệ hiến pháp như thẩm quyền huỷ bỏ, đình chỉ văn bản trái Hiến pháp trong thực tiễn hầu như không được áp dụng . Qua nghiên cứu cơ chế bảo vệ Hiến pháp ở các nước trên thế giới, chúng ta tiếp thu được những kinh nghiệm làm cơ sở đề xuất những giải pháp hữu hiệu phục vụ việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế giám sát và bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam. Vấn đề là cần tham khảo áp dụng cách tổ chức cơ chế bảo hiến nào, vận dụng những định chế nào phải tính rất kỹ, phải nghiên cứu rất sâu chứ không vận dụng máy móc bởi ở mỗi nước một kiểu, có hình thức bảo hiến khác nhau. Chúng ta tham khảo kinh nghiệm xây dựng và vận hành cơ chế bảo vệ Hiến pháp của các nước trên thế giới vì các nước này đã đi trước nhưng đồng thời phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam.

http://my.opera.com/Pham%20Hung/blog/show.dml/1575214

0 comments:

Post a Comment

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | LunarPages Coupon Code