PGS.TS. Trần Thị Vinh, Viện Sử học
Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ ba, truy cập đường link gốc tại đây
Vương triều Lý được thiết lập vào năm
1009, ngay sau thế kỷ bản lề (thế kỷ X) – giành và giữ chính quyền từ
tay phong kiến ngoại bang của dân tộc Việt Nam. Từ khi thoát khỏi ách
thống trị của phong kiến ngoại bang, nhà nước quân chủ dân tộc Việt Nam
bắt đầu được xác lập. Trải qua các triều Ngô – Đinh – Tiền Lê, Nhà nước
quân chủ dân tộc đã dần dần được kiện toàn, nhưng vừa ra đời sau đêm
trường phụ thuộc, nhà nước thời kỳ này hãy còn non trẻ, chưa hoàn thiện
về mặt thiết chế, phải đợi đến những thế kỷ sau, bắt đầu từ thời Lý trở
đi mới có điều kiện phát triển và hoàn thiện hơn với những thể chế của
nó.
Lúc lên ngôi vua tại kinh thành Hoa Lư,
tiếp quản cơ đồ của nhà Tiền Lê, trong buổi ban đầu vua Lý Thái Tổ vẫn
giữ nguyên thể chế chính chính trị cũ. Sau khi chuyển triều đình từ Hoa
Lư ra Thăng Long, các vua nhà Lý mới bắt đầu củng cố và xây dựng một chế
độ chính trị riêng của nhà Lý cho phù hợp với chính thể đương thời. Thể
chế chính trị của nhà Lý được hoàn thiện trong các thế kỷ XI – XIII (từ
1010 – 1225) là một chế độ chính trị ổn định và thống nhất, trên có
vua, dưới vua là hệ thống chính quyền nhà nước thống nhất từ trung ương
tới địa phương. Điều hành hệ thống chính quyền nhà nước thống nhất của
nhà Lý là đội ngũ quan chức đông đảo được tuyển chọn bằng nhiều hình
thức khác nhau. Để bảo vệ vững chắc nhà nước quân chủ thống nhất và quốc
gia Đại Việt non trẻ, nhà Lý đã xây dựng một lực lượng quốc phòng vững
mạnh và một nền pháp chế phù hợp. Thể chế chính trị của nhà Lý được cụ
thể hóa bằng những mặt sau đây :
1. Cách tổ chức các cơ quan thuộc nền hành chính quốc gia
Nền hành chính quốc gia thời Lý, do Lý
Thái Tổ là người đầu tiên xây dựng, đặt nền tảng cho sự phát triển về
sau là một nền hành chính theo chế độ quân chủ tập trung quan liêu với
hệ thống chính trị thống nhất từ trung ương tới địa phương được tập
trung quyền hành vào trong tay triều đình, đứng đầu là vua.
Các cơ quan thuộc nền hành chính Trung ương :
Bắt đầu từ thời Lý, các cơ quan thuộc
nền hành chính trung ương (hay còn gọi là Tổ chức chính quyền Trung
ương) đã được kiện toàn và hoàn thiện hơn so với thời Đinh và Tiền Lê
trước đó, gồm ba bộ phận chủ yếu là: Những văn thư phòng giúp việc bên cạnh vua, Các cơ quan đầu não tại triều đình và Các cơ quan chuyên môn.
- Những văn thư phòng giúp việc bên cạnh vua,
vào thời Lý đặt chưa đầy đủ như ở thời Trần và thời Lê sơ sau đó. Từ
thời Trần và đặc biệt là thời Lê Sơ về sau, những văn thư phòng giúp
việc cho vua bao gồm đủ cả ba bộ phận, đó là: các Sảnh ( hay còn gọi là các Tỉnh như Thượng thư tỉnh, Trung thư tỉnh, Môn hạ tỉnh, Hoàng môn tỉnh và Nội thị tỉnh); Hàn lâm viện và Bí thư giám. Nhưng dưới thời Lý, Bí thư giám chưa được đặt nên chỉ mới có hai văn phòng bên cạnh vua và giúp việc cho vua là Sảnh và Hàn lâm viện.
Sảnh (gồm có Thượng thư sảnh và Trung thư sảnh), không rõ được đặt ra như thế nào và vào lúc nào dưới thời Lý. Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí thì
“đến đời vua Lý Thần Tông (1128 – 1138) có đặt chức Viên ngoại lang ở
Thượng thư sảnh, dự bàn chính sự, danh vị cũng trọng. Quan trong, quan
ngoài thường gia thêm chức ấy, như Nội thị là Lý Công Tín, Hàn Quốc Bảo
đều gia chức Viên ngoại lang”1. Sách Đại việt sử ký toàn thư cũng ghi, vào tháng giêng, năm Mậu Thân (1128), sau khi Lý Thần Tông lên ngôi đã phong Đào Thuấn làm Trung thư sảnh viên ngoại lang hành tây thượng cáp môn sứ, Lý Bảo Thần làm Thượng thư sảnh viên
ngoại lang hành đông thượng cáp môn sứ và một loạt người như Phạm
Thưởng, Đỗ Lục, Khổng Nguyên, Phạm Bảo, Kim Cát, Lý Khái, Đào Lão,
Nguyễn Hoàn làm Viên ngoại lang Thượng thư sảnh2. Như
vậy, vào thời Lý đã có cơ quan là Sảnh, nên mới có việc đặt các chức
quan của Thượng thư sảnh và Trung thư sảnh như sử sách vừa ghi.
Hàn lâm viện được lập ra đầu
tiên ở nước ta bắt đầu từ thời Lý, dưới triều vua Lý Nhân Tông (1072 –
1127) và đứng đầu Hàn lâm viện là chức quan Hàn lâm học sĩ. Sách Đại việt sử ký toàn thư ghi,
vào mùa thu, tháng 8, năm Bính Dần (1086), triều đình đã tổ chức thi
những người có văn học trong nước, sung vào làm quan ở Hàn lâm viện. Mạc
Hiển Tích trúng tuyển, được bổ vào làm Hàn lâm học sĩ3. Sách Lịch triều hiến chương loại chí cũng
ghi, “đời Lý đã đặt Hàn lâm viện và đặt chức Học sĩ (trong đời NhânTông
Mạc Hiển Tích làm Hàn Lâm học sĩ)”4. Hàn lâm viện có nhiệm vụ trông coi
việc soạn thảo những chế, cáo và chiếu biểu của vua. Chức Hàn lâm học
sĩ, đến các thời Trần và Lê Sơ còn gọi là Hàn lâm phụng chỉ và Hàn lâm
học sĩ phụng chỉ, là chức vụ rất trọng, thường dùng Thái sư, Mật viện
kiêm nhiệm. Công việc của quan Hàn lâm phụng chỉ là soạn đặt tờ chiếu
thay vua5.
- Các cơ quan đầu não tại triều đình
Cùng với việc đặt các cơ quan đầu não
tại triều đình, nhà Lý đã đặt ra những chức quan đứng đầu triều. Những
chức quan đứng đầu triều đều là những quan lại được vua uỷ nhiệm trực
tiếp điều khiển toàn bộ nền cai trị trong nước. Đó là Tể tướng và Á tướng.
Chức vụ Tể tướng từ thời Đinh
trở về trước gọi là gì không rõ, đến thời Tiền Lê, Lê Đại Hành mới đặt
ra chức Tổng quản coi việc quân dân, tóm giữ việc nước, tức là công việc
của Tể tướng6. Bắt đầu từ thời Lý, khi mới dựng nước, vua Lý Thái Tổ đã
cho Trần Cảo làm tướng công7 tức giữ chức Tể tướng. Đến đời vua Lý Thái
Tông “dùng chức Phụ quốc Thái uý giữ chính sự, chức nhiệm cầm cân, tức
là Tể tướng”8. Tiếp đến đời Lý Nhân Tông lại thêm vào mấy chữ “Kiểm hiệu
bình chương quân quốc trọng sự”, xem ra chức vụ càng trọng. Có người
làm chức vụ này lại mang danh chức trong hàng Tam thái (Thái sư, Thái
phó, Thái bảo) và Tam thiếu (Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo). Vào thời
Lý đã có những ng-ười từng giữ chức vụ Tể tướng với nhiều danh vọng như:
Lý Thường Kiệt làm Thái phó phụ quốc thượng tướng quân9 dưới triều vua
Lý Thánh Tông; Lý Đạo Thành làm Thái phó Bình chương quân quốc trọng
sự10 dưới triều vua Lý Nhân Tông; Tô Hiến Thành giữ chức Nhập nội kiểm
hiệu Thái phó Bình chương quân quốc trọng sự11 dưới triều vua Lý Anh
Tông và sau đó có Thái sư Đỗ An Di cũng kiêm chức Đồng bình chương sự12 ở
triều Lý Anh Tông…
Á tướng là chức vụ của viên quan đứng sau Tể tướng và đứng ở vị trí thứ hai tại triều đình. Vào thời Lý, chức Á tướng là Tả, Hữu tham tri chính sự.
Á tướng có nhiệm vụ giúp Tể tướng điều khiển mọi việc trong nước, còn
gọi là Phó tướng. Vào thời kỳ này, nhà Lý còn cho đặt thêm chức Hành khiển cũng là chức đứng sau Tể tướng và chuyên lấy trung quan (hoạn quan) để đảm đương chức vụ ấy, rồi gia thêm danh hiệu là “Nhập nội hành khiển Đồng trung thư môn hạ bình chương sự”13. Theo ghi chép trong sách Lịch triều hiến chương loại chí thì chức hàm này “rất trọng vì đó là chức quan giữ then chốt về chính sự”14.
Dưới Tể tướng và Á tướng – hai chức quan đứng đầu và đứng thứ hai trong triều, là các cơ quan chính yếu như: Khu mật viện và các Bộ.
Khu mật viện được lập ra từ thời Lý. Đứng đầu Khu mật viện là hai chức quan Tả sứ và Hữu sứ15
trông coi việc binh. Làm việc trong Khu mật viện đều là những quan thân
cận nhà vua và chỉ bàn tới các việc cơ mật trong triều. Dưới triều vua
Lý Thái Tổ có Ngô Đinh được làm Khu mật sứ16. Sang thời Lý Thái Tông thì
có Lý Đạo Kỷ làm Tả khu mật và Xung Tân làm Hữu khu mật17. Những người
này đều là công thần thân cận được vua Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông ban
chức tước ngay từ sau khi nhà vua lên ngôi.
Các Bộ, vào thời Lý nói chung chưa thấy có sự phân định rõ ràng. Tuy vậy, ở thời kỳ này, chức Thượng thư đứng
đầu bộ đã bắt đầu được đặt, ví dụ dưới triều vua Lý Nhân Tông, Mạc Hiển
Tích, Đoàn Văn Khâm, Nguyễn Công Bật vv…đều được giữ chức Thượng thư.
Phan Huy chú viết trong Lịch triều hiến chương loại chí rằng:
“Chức Thượng thư đặt ra bắt đầu từ thời Lý, nhưng tên các bộ chia đặt
thế nào chưa rõ”18. Chức Thị lang cũng đã được đặt ở thời kỳ này. Sách Lịch triều hiến chương loại chí ghi,
năm 1118 “đặt chức bộ Thị lang”19. Biên niên sử thì chưa ghi đầy đủ tên
các Bộ của thời Lý mà chỉ thấy nhắc đến tên của hai Bộ, là Bộ Lễ và Bộ
Hộ qua hai sự kiện ghi vào năm Mậu Tuất (1118), Tả thị lang Bộ Hộ là Lý
Tú Uyên chết20 và năm Giáp Thìn (1124), Nội thường thị là Lê Bá Ngọc làm
Thị lang Bộ Lễ21. Điều này cũng được Phan Huy Chú nhấn mạnh là “Đời Lý
buổi đầu đặt quan, đã có những chức Trung thư thị lang, Bộ thị lang,
nhưng các bộ không đặt đủ”22. Có lẽ do sự ghi chép không đầy đủ trong
chính sử nên sự hiểu biết về các Bộ của thời Lý từ trước tới nay cũng
chưa được đầy đủ. Nhưng theo nguồn tài liệu văn bia của thời Lý đã đư-ợc
dịch và công bố trong tập Thơ văn Lý – Trần, xuất bản năm
1977, thì vào thời Lý đã có đầy đủ các bộ, nhất là từ triều vua thứ tư
của nhà Lý là Lý Nhân Tông (1072 – 1127) trở đi. Theo lời chú cuối cùng
của Bia tháp Sùng Thiện Diên Linh ở chùa núi Long Đội (thuộc xã
Đội Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam) dựng vào ngày 6 tháng 7, niên
hiệu Thiên Phù Duệ vũ thứ hai (1121) cho biết, người được vâng sắc chỉ
của vua Lý Nhân Tông để soạn bài văn của bia này là Nguyễn Công Bật, đang giữ chức Triều liệt, Hình bộ Thượng thư, Binh Bộ Viên ngoại lang đồng tri phiên công viện chư sự và người viết chữ bài văn bia là Lý Bảo Cung, đang giữ chức Hữu thị lang, Thượng thư, Công Bộ Viên
ngoại lang đồng tri thẩm hình viện sự, thượng kinh xa đô uý, tử kim
ngư23. Dưới triều vua Lý Nhân Tông còn có Trần Văn Khâm cũng từng giữ
chức Thượng thư Bộ Công24, Phùng Giáng Tường giữ chức Thượng thư Bộ Binh25. Hoặc Từ Anh Nhĩ từng giữ chức Thượng thư Bộ Lại dưới triều vua Lý Cao Tông (1176 – 1210)26. Trong Văn bia về Thái uý Lý công27nước Đại Việt (Cự
Việt quốc Thái uý Lý công thạch bi minh tự ) khi nói về công trạng của
Thái uý có đoạn ghi: “Năm Đinh Mùi đời vua Thần Tông (1127), Thái uý
được truyền vào chầu ở nơi nội cấm, chức vị bao trùm cả sáu bộ thượng thư28. Như
vậy, theo ghi chép trong chính sử cộng với những ghi chép trong văn bia
Lý – Trần thì vào thời Lý đã có đủ sáu Bộ, đó là các bộ: Lại, Lễ, Hộ, Binh, Hình và Công.
- Các cơ quan chuyên môn
Để giúp việc cho các cơ quan đầu não tại
triều đình, các vua nhà Lý cũng như các vua nhà Trần và nhà Lê sau đó
đều đặt ra các cơ quan chuyên môn, gồm: Quốc sử viện, Thái chúc viện, Quốc tử giám, Các cơ quan coi về hình án (Đình uý ty, Ngũ hình viện), Ngự tiền tam cuộc (Cận
thị, Chi hậu và Học sĩ – trông coi về việc binh của nhà vua)… Nhưng,
vào thời Lý chưa đặt đầy đủ các cơ quan chuyên môn này. Cơ quan chuyên
môn đầu tiên được đặt vào thời Lý là Quốc Tử giám. Quốc Tử giám là cơ quan có nhiệm vụ trông coi về việc giáo dục trong nước.
Quốc Tử giám được lập bắt đầu
từ thời Lý, vào năm 1076, dưới triều vua Lý Thánh Tông, nhưng tên các
chức quan của cơ quan này chưa rõ như thế nào. Sang thời Trần mới thấy
sử ghi về việc đặt chức Tư nghiệp Quốc tử giám (Chu Văn An làm chức này), thời Lê Sơ đặt rất nhiều tên như các chức Tế tửu, Trực giảng, Bác sĩ, Giáo thụ, Ngũ kinh bác sĩ… Sách Đại việt sử ký toàn thư ghi
về việc lập Quốc tử giám vào thời Lý như sau: vào “mùa thu, tháng 8,
làm Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối29, vẽ Thất thập
nhị hiền30 bốn mùa cúng tế. Hoàng Thái tử đến học ở đây”31.
CÁC CƠ QUAN THUỘC NỀN HÀNH CHÍNH TRUNG ƯƠNG
VUA
VĂN PHÒNG BÊN CẠNH VUA
CƠ QUAN ĐẦU NÃO TẠI TRIỀU ĐÌNH
Sảnh (Thượng thư sảnh,Trung thư sảnh)
- Viên ngoại lang
Hàn lâm viện
- Hàn lâm học sĩ
Quan đầu triều
- Tể tướng (Phụ quốc Thái uý)
- Á tướng (Tả, Hữu Tham tri chính sự) )
Khu mật viện
- Tả sứ
- Hữu sứ
Lục Bộ
- Thượng thư
- Thị lang
CƠ QUAN CHUYÊN MÔN
Quốc Tử giám
Nhìn vào sơ đồ tổ chức các cơ quan thuộc
nền hành chính Trung ương của thời Lý dễ nhận thấy, vào thời kỳ này so
với những thời kỳ sau đó, bộ máy chính quyền Trung ương của thời Lý tuy
chưa được hoàn thiện và chưa đặt đầy đủ các cơ quan, song đã có sự kiện
toàn đáng kể so với những thời kỳ trước. Đó là những cố gắng rất lớn của
nhà Lý trong buổi đầu dựng nghiệp.
Các cấp hành chính ở địa phương
Ngay trong năm 1010, khi đã ổn định một
số công việc lớn mang tầm quốc gia như dời chuyển kinh đô, kiến lập kinh
thành, kiện toàn bộ máy bộ máy chính quyền ở cấp Trung ương, vua Lý
Thái Tổ cũng đã tiến hành xây dựng bộ máy hành chính các cấp cơ sở, làm
nền tảng vững chắc cho toàn bộ hệ thống chính quyền nhà nước.
Công việc đầu tiên mà nhà vua tiến hành
là cho chia lại các khu vực hành chính trong nước. Đơn vị hành chính
đứng đầu cấp chính quyền địa phương thời Lý gọi là phủ, Lộ. Ngay từ khi vừa dời đô ra Thăng Long, vua Lý Thái Tổ đã cho đổi châu Cổ pháp, quê hương của nhà Lý làm phủ Thiên Đức, đổi vùng kinh thành Hoa Lư cũ của nhà Đinh – Tiền Lê thành phủ Trường Yên32. Đến cuối năm đó (tháng 12 năm 1010), nhà vua bắt đầu cho đổi 10 Đạo có từ thời Đinh và Tiền Lê làm 24 Lộ. Vùng núi thì gọi là châu hay trại. Một số nơi ở xa kinh đô cũng gọi là trại, như việc cho đổi châu Hoan, châu Ái làm trại33. Năm 1014, lại cho đổi phủ Ứng Thiên (Ứng Hoà, Hà Nội ngày nay) thành Nam Kinh34. Năm 1023, đổi trấn Triều Dương( thuộc Quảng Ninh ngày nay) thành châu Vĩnh An35. Năm 1036, đổi châu Hoan thành Nghệ An châu trại36. Sau lại đổi châu Ái thành phủ Thanh Hoá.
Như vậy, ta có thể hình dung được toàn bộ cấp hành chính địa phương của thời Lý theo một hệ thống từ trên xuống dưới như sau :
Trên là cấp phủ, lộ (ở đồng bằng) và châu hay trại (ở vùng xa kinh đô hoặc miền núi). Dưới phủ, lộ, châu là cấp huyện hoặc (hương), giáp và cuối cùng là thôn. ở Kinh đô thì nhà Lý đặt ra thành các phường, gồm 61 phường (như phường Thái Hoà, phường Cơ Xá, phường Yên Thái…).
Các đơn vị hành chính vào thời kỳ này,
cụ thể ra sao không thấy tài liệu ghi chép đầy đủ. Căn cứ vào một số
sách Địa chí viết vào những thế kỷ sau như Dư địa chí của Nguyễn Trãi (thế kỷ XV) và Đại Nam nhất thống chí của
Quốc sử quán triều Nguyễn (thế kỷ XIX) chúng ta có thể hình dung được
một cách tương đối về vị trí của một số phủ, lộ, châu ở thời kỳ này. Ví
dụ: Lộ Hải Thanh, lộ Trường Yên, phủ Lỵ Nhân lúc bấy giờ, nay thuộc vào
đất của các tỉnh Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình. Lộ ứng Thiên là vùng
Kinh đô Thăng Long và một phần đất phía nam Hà Nội và một phần đất của
tỉnh Hà Tây ngày nay. Lộ Bắc Giang là thuộc đất tỉnh Bắc Giang bây giờ.
Phủ Thanh Hoá thuộc đất tỉnh Thanh Hoá ngày nay. Châu (hay trại) Nghệ An
thì tương ứng với vùng đất tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ.
Nhưng, nhìn chung cách gọi phủ, lộ, châu
hay trại ở thời kỳ này vẫn chưa được nhất quán. Có thể do phương thức
quản lý khác nhau của từng vùng đất mà nhà Lý đặt ra tên gọi khác nhau.
Như những vùng đồng bằng phía bắc thì gọi thống nhất là phủ và lộ. Còn
những miền xa kinh đô như Thanh Hoá, Nghệ An thì gọi là châu, có lúc đổi
là trại, rồi lại đổi thành châu, thành phủ vv…Lại có những nơi ở vùng
núi xa thì không gọi là châu mà gọi là đạo. Ví dụ vùng Tây Bắc (dọc theo sông Đà) lúc bấy giờ lại không gọi là châu mà gọi là đạo Lâm Tây vv.
Mỗi phủ (lộ, châu) được chia ra làm nhiều huyện. Đứng đầu đơn vị hành chính cấp huyện là viên Huyện lệnh.
Tên đơn vị hành chính cấp huyện ở thời Lý không được ghi trong chính sử
mà chỉ thấy ghi trong tài liệu văn bia. Theo văn bia chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh dựng
tại chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh (Thanh Hóa) vào ngày 19 tháng 10 năm
Mậu Tuất (1118) cho biết, Chu Công là người được triều đình nhà Lý cử
coi giữ trấn Thanh Hóa sau khi Lý Thường Kiệt về triều đình giữ chức Tể
tướng lần hai, vào ngày Ất Mùi, niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ 6
(1115), Chu Công đã “kính vâng chiếu chỉ, tới giữ quận phù, quyền thống
lĩnh các việc quân châu của năm huyện và ba nguồn thuộc trấn
Thanh Hóa”37. Khi Chu Công cho dựng chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh, ông đã
sai một viên huyện lệnh trông coi việc này. Văn bia vẫn còn ghi rằng:
“Đương khi dân chúng nghỉ ngơi, cấy cày rảnh việc. Ông bèn sai huyện lệnh Lê
Chiếu trông coi việc dựng chùa”38. Như vậy, theo nguồn tài liệu này thì
vào thời Lý đã có đơn vị hành chính cấp huyện và người đứng đầu cấp
huyện là Huyện lệnh. Còn đơn vị hành chính cấp huyện rộng hẹp ra sao thì
tài liệu không cho biết chính xác. Ngoài tài liệu văn bia, trong sách Việt điện u linh,
Lý Tế Xuyên cũng nhắc tới tên huyện vào thời Lý, qua sự kiện Uy Minh
vương Lý Nhật Quang khi giữ chức Tri châu châu Nghệ An, ông đã cho nhân
dân khai phá đất đai mở mang được 6 huyện…39 ở kinh đô tương đương với
cấp này thì gọi là phường, ở miền núi lại gọi là sách hay động.
Cấp hương dưới thời Lý cụ thể
thế nào không thấy sử sách nói rõ, nhưng sử cũ lại nhắc tới tên hương,
qua nhiều sự kiện khác nhau. Như những sự kiện sau đây:
- Năm 1010, vua Lý Thái Tổ đã hạ lệnh cho các hương ấp, nơi nào có chùa quán đổ nát đều phải sửa chữa lại40.
- Năm 1027, trong vụ dẹp loạn ba vương
giữ ngôi báu cho vua Lý Thái Tông, Lê Phụng Hiểu, một trong những công
thần được sử nhắc đến là người hương Băng Sơn ở Ái châu (nay thuộc huyện Hoằng Hóa, Thanh Hoá). Sau ông còn được nhà vua ban cho lộc điền gọi là ruộng ném đao ở hương Đa Mi41.
- Năm 1068, vua Lý cho đổi hương Thổ Lỗi thành hương Siêu loại vì là nơi sinh của Nguyên phi42.
- Năm 1128, người Chân Lạp vào cướp hương Đỗ Gia ở châu Nghệ An43.
- Năm 1131, người ở hương Thái Bình là Nguyễn Mãi dâng hươu trắng44.
- Đến năm 1198, vào cuối thời Lý biên niên sử vẫn còn ghi tên hương, như “người hương Cao Xá ở châu Diễn là Ngô Công Lý chiêu tập những kẻ vô lại…làm loạn”45. Hoặc sách Việt sử lược khi viết về thời Lý cũng nhắc nhiều đến tên hương, như “trong hương vua ở, có cây gạo bị sét đánh…”46, “con chó ở chùa ứng Thiên hương Cổ Pháp đẻ một con chó trắng…”47.
Đơn vị hành chính cấp hương được
đặt ở nước ta từ thời thuộc Đường (năm 662) dưới thời Thứ sử Khâu Hoà.
Lúc này hương được chia làm đại hương và tiểu hương. Trong khoảng đời
Trinh Nguyên (785 – 805), viên đô hộ Triệu Xương bỏ tên đại, tiểu hương
chỉ gọi chung là hương. Đến thời Hàm Thông (860 – 874), Cao Biền chia
đặt lại hương thuộc, có tất cả 159 hương48. Khi chính quyền về tay họ
Khúc, Khúc Hạo lại cho đổi hương thành giáp. Sách An Nam chí nguyên ghi:
“Giữa niên hiệu Khai Bình (907 – 910) nhà Lương, Tiết độ sứ Khúc Hạo
lại đổi hương làm giáp, đặt thêm 150 giáp, cộng với số giáp đã có từ
trước tất cả là 314 giáp”49.
Qua các triều Ngô, Đinh và Tiền Lê không
thấy biên niên sử nhắc đến tên hương, nhưng có lẽ đơn vị hương đã phải
có từ trước khi triều Lý thành lập, vì ngay từ đầu triều Lý đã thấy sử
ghi tên hương và trong suốt thời Lý cho đến cuối triều Lý vẫn thấy biên
niên sử ghi rất nhiều về đơn vị hành chính cấp hương. Vậy, hương phải là
một đơn vị hành chính cấp cơ sở vì nó được tồn tại khá phổ biến dưới
thời Lý. Hương lúc này qui mô chắc cũng lớn, có lẽ phải lớn hơn tổng và
tương đương với huyện sau này. Vì năm 1068, vua Lý cho đổi hương Thổ Lỗi
– nơi sinh của Nguyên phi ỷ Lan thành hương Siêu loại, thì sau này
hương Siêu Loại lại được đổi làm huyện Siêu Loại. Huyện Siêu loại còn
tồn tại cho đến thế kỷ XIX, huyện này có tới 6 tổng và 68 xã thôn50.
Như vậy, hương thời Lý có thể tương
đương với cấp huyện hoặc có nơi gọi hương là huyện và có nơi lại gọi
huyện là hương do chưa có sự nhất quán về tên gọi các đơn vị hành chính
của thời kỳ này như vừa nhắc ở trên.
Về tên gọi hương hay đơn vị hành chính
cấp hương ở thời Lý có phải đồng nghĩa với đơn vị giáp hay không, hiện
cũng chưa xác định được do chưa có tư liệu để chứng minh. Mặc dù từ đầu
thế kỷ X, Khúc Hạo đã cho đổi hương thành giáp, nhưng đến thời Lý hai
đơn vị hành chính này vẫn hiện tồn, vừa có hương lại vừa có giáp. Như
vậy tên gọi hương lúc này không đồng nghĩa với tên gọi giáp. Do đó hương
và giáp phải là hai đơn vị riêng biệt, chứ không phải là một như ở thời
kỳ trước. Tuy nhiên, hai cấp hành chính này cụ thể ra sao thì chưa khảo
được vì chưa đủ tư liệu.
Giáp ở thời Lý cụ thể như thế
nào cũng không thấy sử sách ghi chép đầy đủ nhưng chắc chắn vào thời kỳ
này, đơn vị giáp hãy còn tồn tại vì vào thời Khúc – Ngô – Đinh – Tiền
Lê, giáp là đơn vị hành chính khá phổ biến. Các chức Quản giáp và Phó quản giáp đã được đặt ra để trông nom công việc của giáp. Đến thời Lý, vẫn còn thấy sử nhắc tới tên giáp, như năm 1029 “Giáp Đãn Nãi ở Ái châu làm phản…vua thân đi đánh giáp Đãn
Nãi”51. Vào thời vua Lý Thái Tông, khi Uy Minh Vương Lý Nhật Quang được
cử làm Tri châu châu Nghệ An, ông đã cho nhân dân khai phá mở mang xây
dựng và phát triển vùng đất này rồi lập hộ tịch, kê khai được 6 huyện, 4
trường, 60 giáp52 như vừa nhắc ở trên. Như
vậy, đơn vị Giáp cho đến thời Lý vẫn còn hiện tồn khá quen thuộc. Chỉ
riêng một châu Nghệ An mới được mở mang thêm mà Lý Nhật Quang đã đặt
được 60 giáp như vậy là rất đáng kể.
Đơn vị thôn cũng được nhắc đến vào thời Lý qua sự kiện Lê Phụng Hiểu đi đánh dẹp cuộc tranh giành địa giới của hai thôn Đàm Xá và Cổ Bi53 ở châu Ái.
Tại những đơn vị hành chính các cấp của
chính quyền địa phương, nhà Lý cũng đã đặt một hệ thống quan chức để
giúp triều đình quản lý công việc ở đây.
Quan lại đứng đầu cấp phủ, lộ thời kỳ này là Tri phủ, Phán phủ 54. Đứng đầu cấp châu là Tri châu, có những châu ở xa (biên giới) nhà Lý đều đặt chức Quan mục, thường
dùng những hào trưởng (hay tù trưởng – TG) tại địa phương để giữ những
chức đó55. Những châu có địa thế quan yếu như châu Nghệ An, vua Lý đã cử
tôn thất nhà Lý đến để trấn trị, như dưới thời vua Lý Thái Tông, triều
đình đã cử Uy Minh vương Lý Nhật Quang làm Tri châu56 coi giữ châu đó
trong suốt 16 năm. Đối với những miền biên viễn xa triều đình, một mặt
nhà Lý đã dùng chính sách Ki mi để ràng buộc và một mặt dùng các tù
trưởng người địa phương theo chế độ thế tập để cai quản. Vào thời kỳ
này, ở châu Qui Hoá và Chân Đăng có họ Lê, ở châu Lạng có họ Thân, ở
châu Vị Long có họ Hà, ở châu Phú Lương có họ Dương, châu Quảng Nguyên
có họ Nùng… Chính sách của nhà Lý là cho phép họ thực sự được quản lý
vùng đất của mình theo chế độ thế tập nhưng phải thần phục triều đình và
phải giữ chế độ cống phú đều đặn.
Ở cấp huyện, như đã nói ở trên là có
chức Huyện lệnh. Tại hương không thấy có tài liệu ghi chép, song có lẽ
chức quan làm việc tại đây cũng tương đương với chức quan ở cấp huyện.
Còn chức quan quản lý cấp giáp có lẽ là Quản giáp và Chủ đô. Những viên
quan này kiêm thêm cả nhiệm vụ thu thuế. Vì vào thời Lý, khi triều đình
giao cho quan lại đi thu thuế Hoành đầu, nhà nước đã cho phép những viên
Quản giáp và Chủ đô được cùng với người đi thu thuế, ngoài 10 phần phải
nộp vào nhà nước, họ được lấy một phần, nếu không làm đúng thì bị xử
tội. Sách Đại việt sử ký toàn thư ghi :”Nếu Quản giáp, Chủ đô
và người thu thuế thông đồng nhau thu quá lệ, tuy xảy ra đã lâu nhưng
không có người tố cáo thì Quản giáp, Chủ đô và người thu thuế cũng phải
tội như nhau57″. Chính sử còn ghi cả những việc các viên Quản giáp ở các
nơi dâng sản vật địa phương lên vua, như vào năm 1130 “Quản giáp nội
tác là Chu Thủy dâng cá diếc vàng”và tiếp đó “Quản giáp Phù Thu Liễu là
Phi Nguyên dâng chim trắng”58… Những viên Quản giáp và Chủ đô này phải
chăng là các chức quan cai quản tại đơn vị hành chính cấp giáp giống như
chức Quản giáp dưới thời họ Khúc vậy.
CÁC CẤP HÀNH CHÍNH ĐỊA PHƯƠNG
Phủ, Lộ (đồng bằng) – Tri phủ – Phán phủ
Châu Trại, Đạo (miền núi) – Tri châu – Quan mục (miền núi xa)
Hương – Huyện
- Huyện lệnh Phường (ở Kinh đô)
Giáp
- Quản giáp
- Chủ đô
Thôn
Nhìn lại toàn bộ cách thức tổ chức nền
hành chính quốc gia thời Lý, chúng ta có thể thấy được bước tiến đáng kể
của vương triều Lý trong việc củng cố, xây dựng và kiện toàn hệ thống
chính trị trong bối cảnh đất nước ổn định về mọi mặt ở các thế kỷ XI –
XII. Đây là đóng góp đáng kể của nhà Lý sau đóng góp to lớn có ý nghĩa
lịch sử trọng đại là việc dời chuyển Kinh đô và kiến lập Kinh thành
Thăng Long.
Phương thức tuyển dụng quan lại cho bộ máy hành chính quốc gia
Để điều hành
bộ máy hành chính quốc gia, nhà Lý đã chú ý ngay tới việc xây dựng một
hệ thống quan chức theo phong cách riêng của dòng họ Lý. Để xây dựng
được một hệ thống quan chức theo phong cách riêng của dòng họ Lý, các
vua nhà Lý một mặt đã tìm cách đẩy nhanh quá trình quí tộc hóa tầng lớp
quí tộc dòng họ Lý, một mặt đã sử dụng cất nhắc những công thần khai
quốc và cuối cùng là xúc tiến dần dần việc đào tạo đội ngũ quan lại nho
sĩ mới, bổ sung vào bộ máy chính quyền Nhà nước. Phương thức tuyển dụng
quan lại dưới thời Lý được tiến hành bằng ba con đường chính là Tuyển cử, Nhiệm tử và
Khoa cử.
Tuyển cử: Buổi ban đầu nhà Lý
rất coi trọng phương thức tuyển cử để bổ sung thêm đội ngũ quan lại mới,
vào giúp việc triều đình. Được dự vào hàng tuyển cử đều thuộc tầng lớp
trên, từ những người trong thân tộc và những người có công.
Nhiệm tử: Dùng con cháu các
quan được tập ấm cũng là một phương thức lựa chọn để lấy người làm quan.
Nhưng đến thời Lý, chế độ nhiệm tử không còn coi trọng như ở thời Đinh –
Lê, vì nó không thể đảm bảo chất lượng của đội ngũ quan chức trong tình
hình mới. Khi chưa mở được khoa cử để tuyển chọn nhân tài thì nhà Lý
vẫn còn có thêm hình thức nộp tiền để trao quan tước.
Nộp tiền: Phương thức này ở
thời Lý chưa được thịnh hành. Không thấy sử cũ ghi về mức tiền nộp và
mức trao quan tước cụ thể, chỉ biết “Người quyên nộp tiền, bắt đầu bổ
làm Lại, nộp lần thứ hai được bổ làm Thừa tín lang, làm việc xứng chức
thì bổ làm Tri châu”59. Hình thức chính thống trong phương thức tuyển
dụng quan lại cho một chính thể quân chủ phải là khoa cử.
Khoa cử: Tuyển chọn nhân tài
qua con đường học vấn bắt đầu có từ thời Lý. Lần đầu tiên trong lịch sử
chế độ phong kiến quân chủ Việt Nam, khoa cử được sử cũ nhắc đến vào năm
Ất Mão (1075). Nho học bắt đầu được coi trọng và đội ngũ Nho sĩ đỗ đạt
bắt đầu được gia nhập vào trong thiết chế Nhà nước. Nhưng vào thời Lý,
khoa cử mới bắt đầu, chưa trở thành chế độ thường xuyên, số lượng Nho sĩ
đỗ đạt cũng chưa nhiều và khoa cử chưa chiếm vị trí quan trọng trong
phương thức tuyển dụng quan lại của thời Lý.
Tuy vậy, chất lượng của đội ngũ quan
chức làm việc trong bộ máy hành chính nhà nước thời Lý khá đảm bảo, vì
đội ngũ quan lại thời Lý vừa không được hưởng chế độ lương bổng thường
xuyên của triều đình lại vừa phải trải qua một chế độ tuyển chọn tương
đối qui củ và chế độ khảo khóa nghiêm ngặt. Nhờ thế, vương triều Lý cũng
như thể chế chính trị thời Lý mới có điều kiện tồn tại vững vàng trong
hơn hai thế kỷ, góp phần đưa quốc gia Đại Việt thời Lý phát triển lên
một bước mới.
2. Cách tổ chức lực lượng quốc phòng thời Lý
Để tăng cường bảo vệ nhà nước quân chủ
cũng như bảo vệ quốc gia Đại Việt non trẻ, nhà Lý đã xây dựng được một
lực lượng quốc phòng khá hùng hậu, thể hiện ở cách thức tổ chức quân đội
của nhà Lý.
Quân đội thời Lý được phiên chế thành hai loại: Quân trong và quân ngoài. Quân trong còn gọi là cấm quân, hay cấm binh. Loại
quân này luôn đóng ở trong thành và có nhiệm vụ bảo vệ kinh thành. Quân
ngoài là quân ở các phủ, lộ, châu, tức là quân đội ở các địa phương,
gọi là lộ quân hay sương quân. Ngoài ra, vào thời kỳ này còn có thêm lực lượng dân binh, tức hương binh ở đồng bằng và thổ binh ở
miền núi. Dưới thời Lý, cấm binh tinh nhuệ hơn binh lính ở các phủ, lộ,
châu, nhưng khi có chiến tranh thì quân ở các phủ, lộ, châu với số
lượng đông đảo lại là lực lượng đóng góp quan trọng.
Tổ chức quân cấm vệ
Ngay từ những năm đầu triều Lý, để chỉnh
đốn lực lượng bảo vệ vua và triều đình, vua Lý Thái Tổ đã chú ý ngay
tới lực lượng cấm quân, năm 1011 nhà vua đã cho đặt quân Tả Hữu túc xạ
(tức quân theo hầu xe vua, gồm 2 đội tả và hữu). Mỗi đội 500 người60.
Năm 1028, khi vừa lên ngôi, vua Lý Thái
tông cũng đã tăng cường ngay lực lượng cấm quân để bảo vệ kinh thành.
Đặt 10 vệ cấm quân là: Quảng Thánh, Quảng Vũ, Ngự Long, Bổng Nhật và
Trừng Hải. Mỗi vệ lại chia ra làm hai Tả, Hữu trực, đi quanh để bảo vệ
cấm thành61. Mỗi vệ quân có 200 người, đều có tả hữu và phải túc trực
thường xuyên62. Năm 1051, Vua Lý Thái Tông còn cho đặt Tuỳ xa long quân ở
trong và ngoài thành63 (tức quân theo xe vua). Tả kiêu vệ tướng quân
Trần Nẫm được cử trông coi đội quân này.
Năm 1059, vua Lý Thánh Tông cho định
quân hiệu, tên gọi là: Ngự Long, Vũ Thắng, Long Dực, Thần Điện, Bổng
Thánh, Bảo Thắng, Hùng Lược và Vạn Tiệp. Mỗi loại quân hiệu này đều chia
ra làm: tả và hữu. Cấm quân thì đều phải thích lên trán ba chữ Thiên tử quân64.
Năm 1104, Vua Lý Nhân Tông đã cho định
lại binh hiệu của quân cấm vệ65. Tiếp đến năm 1118, lại cho tuyển đại
hoàng nam, người nào khoẻ mạnh thì sung vào làm binh các đô Ngọc Giai,
Hưng Thánh, Vũ Đô và Ngự Long, tất cả 350 người66.
Năm sau (1119), trước khi đi đánh dẹp
động Ma Sa, vua Lý Nhân Tông đã cho duyệt cấm binh ở các binh tào Vũ
Tiệp, Vũ Lâm vv… người nào khoẻ mạnh cho làm hoả đầu ở các đội quân Ngọc
Giai, Hưng Thánh, Bổng Nhật, Quảng Thánh, Vũ Đô, người nào kém hơn thì
cho làm binh67.
Cấm binh ngoài việc thích trên trán ba chữ Thiên tử quân,
còn được xăm mực hình rồng vào người. Năm 1118, vua Lý Nhân Tông còn ra
lệnh “cấm nô bộc của các nhà dân trong ngoài kinh thành không được
thích dấu mực vào chân như cấm quân cùng là xăm hình rồng ở mình, ai
phạm thì sung làm quan nô”68.
Quân đội nhà Lý nói chung và cấm quân
nói riêng phải tuân theo một kỷ luật nghiêm ngặt. Năm 1028, khi đem quân
đến đánh dẹp quân của Khai Quốc vương ở phủ Trường Yên, vua Lý Thái
Tông đã hạ lệnh cho quân sĩ rằng: “ai cướp bóc của cải của dân thì
chém”69. Quân lính mà bỏ trốn cũng bị phạt rất nặng. Năm 1042, triều
đình có chiếu chỉ rằng: “các quan chức đô (chức quan chỉ huy quân cận
vệ), ai bỏ trốn thì phạt 100 trượng, thích vào mặt 50 chữ và xử tội đồ.
Các quân sĩ trốn vào núi rừng và đồng nội cướp của người thì xử 100
trượng, thích vào mặt 30 chữ. Người coi trấn trại mà bỏ trốn thì cũng
phạt như thế ”70. Năm sau (1043), triều đình lại tiếp tục xuống chiếu
rằng: “quân sĩ bỏ trốn quá một năm, xử 100 trượng, thích vào mặt 50 chữ,
chưa đến 1 năm thì xử theo mức tội nhẹ, kẻ nào quay lại thì cho về chỗ
cũ. Quân sĩ không theo xa giá cũng xử trượng như thế và thích vào mặt 10
chữ”71.
Cấm quân thời Lý có vai trò quan trọng
hơn quân ở ngoài các châu, lộ. Ngoài nhiệm vụ bảo vệ kinh đô mới của
quốc gia Đại Việt trong đó có nhà vua và hoàng tộc, cấm quân còn là lực
lượng chủ yếu để dẹp trừ bạo loạn, đặc biệt là các sự biến cung đình.
Vào năm 1028, trước loạn tam vương, Vũ vệ tướng quân Lê Phụng Hiểu đã
chỉ huy quân cấm vệ dẹp loạn bảo vệ ngôi vua cho Lý Thái Tông. Trong vụ
dẹp loạn Đỗ Anh Vũ năm 1150, cấm quân cũng đóng vai trò quan trọng.
Trong những lần vua Lý đi chinh phạt dẹp loạn ở một số địa phương, cấm
quân cũng từng là lực lượng nòng cốt tham gia dưới trướng của nhà vua.
Vai trò nòng cốt của cấm quân nhà Lý biểu hiện rõ nét trong cuộc kháng
chiến chống Tống, khi Lý Thường Kiệt chỉ huy cấm quân kết hợp với quân
các châu lộ “tiên phát chế nhân”(1075) và đánh trận quyết chiến chiến
lược trên chiến trường Như Nguyệt năm 1077.
Vì cấm quân đóng vai trò quan trọng như
vậy nên vào thời Lý cấm quân được hưởng chế độ lương lộc của triều đình.
Cấm quân cứ mỗi năm mỗi người được cấp 10 bó lúa. Ngày Khai hạ (mồng 7
tháng giêng) hàng năm mỗi người được cấp 3 tiền và một tấm vải nhỏ. Ngày
tết Nguyên Đán, trong lễ đại triều hội, ban ăn thì có các thứ bánh tây,
cá mắm và cơm gạo nếp cái. Lương bổng thì đều cấp bằng gạo tẻ72.
Tổ chức quân ở các phủ lộ châu
Ngoài việc tăng cường lực lượng quân
chính qui bảo vệ kinh thành và chính quyền quân chủ, nhà Lý còn chú ý
tăng cường lực lượng quân đội đóng ở các phủ, châu, lộ do các trấn thủ
chỉ huy.
Quân đội loại này dưới thời Lý không có
số lượng nhất định. Dân đinh cứ đến tuổi hoàng nam (18 tuổi) và đại
hoàng nam (20 tuổi) là phải ghi vào sổ vàng và phải có nghĩa vụ vào quân
đội. Quân đội ở các phủ, lộ, châu được chia làm hai hạng. Binh lính ở
các châu miền xuôi gọi là chính binh. Binh lính ở miền thượng du và các
châu xa gọi là phiên binh. Phiên binh được chia thành từng đội riêng
không cho lẫn lộn với chính binh.
Từ thời Lý Thần Tông (1128 – 1138), nhà
vua đã đặt lệ cho quân lính các lộ chia nhau phục dịch mỗi phiên một
tháng, hết hạn lại trở về làm ruộng, để phiên khác ra thay gọi là chế độ
ngụ binh ư nông. Lực lượng chính của quân đội ở các châu lộ
hay là quân ngoài vào thời Lý phần lớn đều xuất thân từ nông dân các
làng xã. Nên với chính sách ngụ binh nông của nhà Lý, những
nông dân mặc áo lính khi hữu sự họ sẵn sàng ra trận, khi hết chiến
tranh, họ lại trở về với đồng ruộng của mình. Vì thế chỉ có cấm binh mới
được hưởng chế độ lương lộc của triều đình, còn quân các phủ, châu, lộ
thì phải tự túc. Sách Lịch triều hiến chương loại chí, mục Binh
chế chí cũng nói rõ rằng “ngoại binh thì không có lương, cứ luân phiên
đến canh, hết phiên canh cho về nhà cày cấy trồng trọt để tự cấp73”.
Trong sách Việt sử tiêu án Ngô Thì Sĩ cũng đánh giá cao về chế
độ “tự túc binh cường”này của nhà Lý “Chế độ binh lính của nhà Lý…mỗi
tháng lên cơ ngũ một lần gọi là đi canh, hết hạn canh lại về làm ruộng,
quân không phải cấp lương…không cần phí tổn nuôi lính mà có công hiệu
dùng sức lính, cũng là chế độ hay”74.
Phép chọn lính
Để có được một lực lượng quân đội hùng
hậu bảo vệ đất nước và vương triều, nhà Lý đã đề ra phép tuyển chọn binh
lính bằng cách cho kiểm soát hộ tịch thật là nghiêm ngặt. Dân đinh đến
18 tuổi đều phải biên tên vào sổ bìa vàng, gọi là hoàng nam, đến 20 tuổi
thì gọi là đại nam (hay đại hoàng nam). Nhà Lý qui định, ai nuôi tư nô
chỉ được nuôi những người ch-ưa đến tuổi hoàng nam. Người nào nuôi giấu
những hạng hoàng nam, đại nam thì phải phạt tội. Năm 1043, vua Lý Thái
Tông xuống chiếu cho các quan chức đô( quan chức đô – quan giữ việc cai
quản quân cấm vệ), cứ ba người cùng được nuôi một người làm gia nô, nếu
người nào nuôi ẩn giấu một đại nam thì cả ba người cùng phải tội75. Để
bảo vệ đại hoàng nam một lực lượng quan trọng sung vào quân ngũ, vua Lý
tiếp tục “xuống chiếu cho các quan chức cứ 3 người cùng đảm bảo cho một
người, nếu có ai chứa giấu đại nam thì ba người bị tội cả”76. Sau đó,
năm 1083, vua Lý Nhân Tông còn cho kiểm soát lại số hoàng nam, định làm
ba bậc (Đại hoàng nam, Hoàng nam và Tiểu hoàng nam)77. Sách Toàn thư ghi
cụ thể hơn là năm 1083 vào “mùa xuân, vua thân duyệt các hoàng nam định
làm 3 bậc”78. Nhờ có cách kiểm soát dân đinh chặt chẽ nhà Lý mới tiến
hành tuyển dân vào lính được thuận tiện.
Năm 1160, vua Lý Anh Tông sai Tô Hiến
Thành và Phí Công Tín tuyển dân đinh, người nào mạnh khoẻ thì sung vào
quân ngũ và cho chọn các tướng hiệu, người nào thông thạo binh pháp, am
tường võ nghệ thì chia cho cai quản79.
Đến đời vua Lý Cao Tông (năm 1179), triều đình lại cho tuyển các đinh nam, người nào mạnh khoẻ sung vào quân ngũ80.
Đối với việc tuyển người vào quân cấm
vệ, nhà Lý cũng lưu ý tới những gia đình nhiều đinh hoặc ít đinh. Năm
1146, vua Lý Anh Tông đã xuống chiếu cho các quan, quản giáp và chủ đô,
khi tuyển người sung vào cấm quân thì phải chọn ở những nhà đông người,
không được lấy con nhà cô độc, làm trái bị trị tội81.
Tuy nhiên, vào thời Lý và cả thời Trần
sau đó, phép tuyển binh cụ thể ra sao chưa thể biết rõ. Nói chung, người
nào trúng tuyển thì sung vào quân ngũ, người hạng kém thì biên tên vào
sổ, có việc mới gọi ra, niên hạn cũng không nhất định và bao nhiêu đinh
lấy một lính cũng không rõ82.
Với việc xây dựng lực lượng quân đội và
cách tuyển chọn như trên, nhà Lý đã có được một tổ chức quân đội khá
vững mạnh. Khi bàn về nền binh bị qua các thời đại, Phan Huy Chú đã viết
trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, mục Binh chế chí rằng:
“Cái chiến công dẹp quân Chiêm, phá quân Tống (Lý Thái Tông dẹp quân
Chiêm Thành, Lý Nhân Tông phá quân Tống), cái oai hùng hai lần đánh bại
quân Nguyên (Trần Nhân Tông hai lần phá quân Nguyên), cũng đủ cho biết
cái binh lực của hai đời cường thịnh thế nào”83.
Quân đội thời Lý có hai bộ phận là: quân
bộ và quân thuỷ. Quân bộ có các binh chủng: bộ binh, tượng binh, kỵ
binh và lính cung nỏ. Quân thuỷ có những đội thuyền lớn như chiến hạm và
thành thạo thuỷ chiến, từng hành quân sang đất Tống trong chiến dịch
“tiên phát chế nhân”của Lý Thường Kiệt
Quân đội thời Lý số lượng cụ thể như thế
nào sử sách không ghi rõ. Chỉ biết năm 1025, vua Lý Thái Tổ đã cho
“định binh làm giáp, mỗi giáp 15 người, dùng một người làm quản giáp.
Lại định các cấp bậc quản giáp”84.
Ban chỉ huy
Vào thời Lý, chức quan đứng đầu hàng võ
là Đô thống. Ban chỉ huy lúc đó có thể gồm những chức quan võ lớn ở kinh
thành như: Nguyên súy, Tổng quản Khu mật sứ, Khu mật tả hữu sứ, Tả hữu
kim ngô Thượng tướng, Đại tướng, Đô tướng, các Vệ tướng quân, Chỉ huy
sứ85…
3. Xây dựng nền Nền pháp chế quốc gia
Cùng với việc xây dựng lực lượng quốc
phòng, bảo vệ quốc gia Đại Việt non trẻ và tăng cường sức mạnh cho nhà
nước quân chủ, nhà Lý cũng đã chú ý tới nền pháp chế của đất nước. Nền
pháp chế của quốc gia Đại Việt thời Lý được hình thành với việc ban hành
bộ luật thành văn đầu tiên trong lịch sử, đó là bộ Hình thư. Vào
năm 1042, vua Lý Thái Tông sai quan Trung thư san định các luật lệnh cũ
và châm chước thói tục trong dân gian biên soạn thành bộ Hình thư. Về
việc này biên niên sử đã ghi cụ thể rằng: “Trước kia, việc kiện tụng
trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ luật văn, cốt làm
cho khắc nghiệt, thậm chí nhiều người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm
thương xót, sai Trung thư san định luật lệnh, châm chước cho thích dụng
với thời thế, chia ra môn loại, biên thành điều khoản, làm thành sách Hình thư của
một triều đại, để cho người xem dễ hiểu. Sách làm xong xuống chiếu ban
hành, dân lấy làm tiện. Đến đây phép xử án được bằng thẳng rõ ràng”86.
Bộ Hình thư ra đời đánh dấu một bước
tiến quan trọng trong đời sống pháp luật của đất nước. Vì trước đó vào
thời Đinh và Tiền Lê, nhà nước chưa có một hệ thống pháp luật. Khi bộ
luật được ban hành giúp cho việc xử án trong nước được thuận lợi và rõ
ràng. Nên cùng lúc ban bố bộ luật, vua Lý đã cho đổi niên hiệu là Minh
Đạo và cho đúc tiền mang niên hiệu Minh Đạo87.
Hình thư thời Lý – bộ luật thành văn đầu
tiên được soạn gồm 3 quyển88 nhưng đến nay đã bị thất truyền. Tuy bộ
luật không còn, để tiếp cận với từng luật định nhưng qua nhiều pháp lệnh
còn ghi lại trong biên niên sử, chúng ta cũng có thể hình dung phần nào
về tính chất của nền luật pháp thời Lý.
Tháng 11 năm 1042, ngay sau khi ban bố
Hình thư, nhà Lý đã có những điều luật qui định bổ sung về việc chuộc
tội cho những đối tượng là người già và trẻ em, người đau yếu và những
thân thuộc của nhà vua, bao gồm “những người từ 70 tuổi trở lên, 80 tuổi
trở xuống, từ 10 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống và những người ốm yếu
cho đến những thân thuộc của nhà vua để tang từ 9 tháng, 1 năm trở lên,
phạm tội thì cho chuộc, nếu phạm tội thập ác89 thì không được theo lệ
này”90. Năm 1071, lại qui định thêm về mức nộp tiền chuộc là “người được
nộp tiền chuộc tội phải tuỳ theo tội nặng hay nhẹ mà bắt nộp tiền nhiều
ít khác nhau”91.
Đối với nhà nước quân chủ cũng như lợi
ích của tầng lớp quí tộc quan liêu, luật pháp thời Lý luôn đứng ra bảo
vệ. Nhà Lý đã ban hành những điều luật nghiêm ngặt bảo vệ nơi ở và làm
việc của vua và triều đình, như khu vực Hoàng thành, cung điện… Năm
1060, vua Lý Thánh Tông ban lệnh cấm “lính Ngự thuyền hoả, Củng thánh
hoả, Tuỳ long hoả và bọn nhà bếp không được ra vào thềm Ngự, không được
nói chuyện với bọn tiểu chi hậu và đưa tin tức, trao đồ vật, đi lại với
nhau. Kẻ nào trái lệnh bị tội chết, gặp khi xá tội cũng không được
tha”92. Năm 1150, vua Lý Anh Tông xuống chiếu “cấm bọn hoạn quan không
được tự tiện vào trong cung, ai phạm thì bị tội chết. Nếu canh giữ không
cẩn thận để người khác vào cung cũng bị tội như thế”93. Đối với các
quan làm việc trong triều, cũng có lệnh cấm “không được đi lại nhà các
vương hầu, ở trong cung cấm không được hội họp nhau năm ba người bàn
luận chê bai, ai phạm thì bị trị tội. Kẻ nào phạm việc qua lại bên ngoài
phía đầu hành lang chứa khí giới của đô phụng quốc vệ thì xử 80 trượng,
tội đồ ; nếu vào trong hành lang ấy thì xử tử. Linh phụng quốc vệ trong
hành lang ấy có chiếu chỉ mới được cầm khí giới, không có chiếu chỉ mà
tự tiện mang khí giới đi quá ra ngoài phía đầu hành lang thì xử tử”94.
Đối với những người có thái độ chống đối
nhà vua hoặc triều đình, nhà Lý cũng đã có những hình phạt thích đáng,
thậm chí xử tội chết. Biên niên sử còn ghi lại sự kiện vào năm 1035, vua
Lý Thái Tông khi thân chinh đi đánh dẹp vụ nổi loạn ở châu Ái, có Định
Thắng vương Nguyễn Khánh đi theo, nhưng Nguyễn Khánh đã ngấm ngầm cấu
kết với nhà sư họ Hồ và mấy người em nuôi là Đô thống Đàm Toái Trạng,
Hoàng đệ là Thắng Càn và Thái Phúc ở lại kinh sư, mưu làm phản. Được
tin, nhà vua “xuống chiếu bắt bọn Khánh đóng cũi đưa về kinh sư”95, rồi
sau đó chính nhà vua đã phải ra ngự tại điện Diên Khánh để xét án những
người phản nghịch này. Nguyễn Khánh, sư Hồ “đều phải xẻo thịt băm xương ở
chợ Tây, còn những người khác thì xét theo tội nặng nhẹ”96. Vào thời Lý
còn có một loại hình phạt rất thảm khốc giống thời cổ là đóng người vào
đinh trên một tấm gỗ đem bêu ở chợ rồi mới mang ra pháp trường. Sử cũ
ghi vào năm 1109, vua Lý xét án nghịch đảng Tô Hậu, Kỷ Sùng97. Hai người
này đều phải “lên ngựa gỗ”mà chết98. Năm 1192, có người tên là Lê Vãn ở
giáp Cổ Hoằng (Hoằng Hoá, Thanh Hoá ) làm phản. Cũng bị đóng cũi đưa về
kinh sư và cũng bị “lên ngựa gỗ”mà chết99.
Đối với những người bị mắc tội phản
quốc, hình phạt thời Lý cũng rất tàn khốc. Ngay từ khi bộ Hình thư chưa
ra đời, nhà Lý cũng đã có những hình phạt rất thích đáng đối với những
kẻ đào vong hại nước. Năm 1011, sau khi vua Lý Thái Tổ được vua Tống
phong làm Giao chỉ quận vương, nhà vua đã cử viên ngoại lang là Lý Nhân
Nghĩa và Đào Khánh Văn sang thăm nước Tống để đáp lễ vua Tống, nhưng
Khánh Văn đã trốn ở lại nước Tống, bị người Tống bắt trả lại . Vua Lý
Thái Tổ đã cho xử tội bằng cách đánh gậy chết100.
Đối với dân đinh, nguồn nhân lực bổ sung
thường xuyên cho quân ngũ và tăng cường sức lao động cho sản xuất nông
nghiệp cũng được nhà Lý bảo vệ bằng pháp luật. Năm 1042, sau khi ban
hành bộ Hình thư, nhà Lý còn định rõ điều mục về các lệnh cấm, trong đó
có lệnh cấm về bán hoàng nam. Điều lệnh qui định rằng”ai bán hoàng nam ở
dân gian làm nô bộc tư gia, nếu đã bán rồi thì phạt 100 trượng và thích
20 chữ vào mặt; chưa bán mà đã phục dịch người ta thì phạt 100 trượng
và thích 10 chữ vào mặt. Kẻ tri tình mà cứ mua, cũng phạm tội, nhưng
giảm xuống một bậc”101. Năm 1043, vua Lý Thái Tông còn ra lệnh phạt
những người chứa giấu đại hoàng nam. Nhà vua xuống chiếu cho các quan
chức “cứ ba người cùng đảm bảo cho một người, nếu có ai chứa giấu đại
nam thì ba người bị tội cả”102.
Đối với các quan lại làm việc thu thuế
cho nhà nước cũng được luật pháp nhà Lý qui định cụ thể và xử phạt những
trường hợp sai phạm. Năm 1042, nhà Lý qui định về việc phú thuế của
trăm họ “cho phép người thu, ngoài 10 phần phải nộp quan, được lấy thêm 1
phần nữa, gọi là hoành đầu. Lấy quá thì xử theo tội ăn trộm, trăm họ có
người tố cáo được tha phú dịch cho cả nhà trong 3 năm, người ở kinh
thành mà cáo giác thì thưởng cho bằng hiện vật thu được”103.
Luật pháp thời Lý có điều luật rất
nghiêm về việc trị tội kẻ ăn cắp, ăn trộm. Năm 1043, vua Lý Thái Tông có
chiếu chỉ “nếu kẻ nào ăn cướp lúa mạ và tài vật của dân, nếu đã lấy rồi
thì xử 100 trượng, nếu chưa lấy được nhưng làm cho người bị thương thì
xử tội lư-u”104. Năm 1122, vua Lý Nhân Tông lại xuống chiếu rằng: “Những
tên trộm cướp trốn tránh đã bắt được mà laị bị nhà thế gia chiếm đoạt
thì nhà thế gia ấy cùng tội với người trốn. Kẻ lại đi bắt trộm cướp, bắt
được rồi mà giữ lại ở nhà mình, không dẫn đến quan thì phạt đánh 80
trượng”.
Để bảo vệ sức kéo trong nông nghiệp, nhà
Lý đã có luật định rất nghiêm ngặt.Tháng 2, năm 1117, vua Lý định rõ
lệnh “cấm giết trâu…kẻ mổ trộm trâu thì phạt 80 trượng, đồ làm khao giáp
(phục dịch trong quân), vợ xử 80 trượng, đồ làm tang thất phụ (làm việc
ở nhà chăn tằm) và phải bồi thường trâu, láng giềng biết mà không tố
cáo, phạt 80 trượng105.
Đối với chế độ tư hữu ruộng đất, nhà Lý
cũng có điều luật bảo vệ. Năm 1142, Lý Anh Tông, ban chiếu rằng: “Những
người cầm ruộng thục trong vòng 20 năm thì cho phép chuộc lại, việc
tranh nhau ruộng đất trong vòng 5 năm hay 10 năm còn được tâu kiện; ai
có ruộng đất bỏ hoang bị kẻ khác cày cấy trồng trọt trong vòng 1 năm thì
được kiện mà nhận, quá hạn ấy thì cấm. Làm trái thì xử 80 trượng. Những
ruộng hoang ruộng thuộc đã bán đứt thì không được chuộc, làm trái thì
cũng bị tội như trên. Nếu tranh ruộng ao mà lấy đồ binh khí nhọn sắc
đánh chết hay làm bị thương người thì đánh 80 trượng, xử tội đồ, lấy
ruộng ao trả lại cho người chết hoặc bị thương”106. Cùng năm này, vua Lý
Anh Tông lại xuống chiếu cho “những người bán đoạn ruộng hoang hay
ruộng thục đã có văn khế rồi thì không được chuộc lại nữa, ai làm trái
bị phạt đánh 80 trượng”107. Năm 1145, nhà vua lại xuống chiếu rằng:
“những người tranh ruộng ao của cải không được nhờ cậy nhà quyền thế,
làm trái thì đánh 100 trượng, xử tội đồ”108.
Ngoài ra pháp luật thời Lý cũng đã giành
nhiều đặc quyền đặc lợi cho tầng lớp quí tộc quan liêu, từ nhà cửa,
trang phục, đồ dùng vv…
Với việc ra đời của bộ Hình thư và những
luật lệnh khác ban hành vào thời Lý đã đánh dấu một bước tiến quan
trọng trong đời sống pháp luật của Việt Nam thời kỳ này. Tuy tính hiệu
quả còn chưa cao nhưng chắc chắn nó mang tính tích cực nhất định vì kể
từ khi bộ luật được ban hành thì “dân đều lấy làm tiện”. Đó là tính ưu
việt và tiến bộ hơn hẳn so với thời kỳ trước khi chưa có bộ luật.
* * *
Chế độ chính trị được xây dựng dưới thời
Lý trong các thế kỷ XI – XIII, tuy chưa thật hoàn mỹ như ở các thời kỳ
sau, song với thể chế thống nhất và ổn định ấy cũng đã đủ giúp nhà Lý
quản lý được một đất nước có nền kinh tế và quốc phòng vững mạnh, góp
phần đẩy lùi những nạn ngoại xâm lớn đang đe dọa tới vận mệnh của dân
tộc ( quân Tống ở phía Bắc, quân Chiêm ở phía Nam) và tạo tiền đề cho
nhà Lý xây dựng được một nền văn hóa Thăng Long mang đậm dấu ấn lịch sử.
——————————————————————
1 Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Quan chức chí, tập II, 206 trang, Bản dịch Nxb Sử học, Hà Nội 1961, tr. 23.
2 Đại việt sử ký toàn thư, Bản dịch Nxb Khoa học xã hội năm 1983, tập I, 368 trang,, quyển 3, tr..315.
3 Đại việt sử ký toàn thư tập I, quyển 2, Sđd, tr..295. Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, tập I, 1207 trang, quyển 3, Bản dịch Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998, tr. 360
. 4 Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Quan chức chí, tập II, Sđd , tr.23.
5 Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Quan chức chí, tập II, Sđd, tr. 23.
6 Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Quan chức chí, tập II, Sđd, tr. 19.
7 Đại việt sử ký toàn thư, tập I, quyển 1, Sđd, tr.239. Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Quan chức chí, tập II, Sđd, tr. 20.
8 Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Quan chức chí, tập II, Sđd, tr. 20.
9 Đại việt sử ký toàn thư, tập I, quyển 3, Sđd, tr..299. Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, tập I, quyển 4, Sđd tr. 367.
10 Đại việt sử ký toàn thư, tập I, quyển 2, Sđd, tr..280. Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, tập I, quyển 3, Sđd tr. 349. Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Nhân vật chí, tập I, 352 trang, Bản dịch Nxb Sử học, 1961, tr. 182.
11 Đại việt sử ký toàn thư, tập I, quyển 4, Sđd, tr. 344. Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Nhân vật chí, tập I, Sđd, tr. 183.
12 Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Quan chức chí, tập II, Sđd, tr. 19.
13 Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Quan chức chí, tập II, Sđd, tr. 21.
14 Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Quan chức chí, tập II, Sđd, tr. 7.
15 Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Quan chức chí, tập II, Sđd, tr. 21.
16 Đại việt sử ký toàn thư, tập I, quyển 1,Sđd, tr. 239.
17 Đại việt sử ký toàn thư, tập I, quyển 2, Sđd, tr. 256 – 257.
18 Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Quan chức chí, tập II, Sđd, tr. 21.
19 Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Quan chức chí, tập II, Sđd, tr. 6.
20 Đại việt sử ký toàn thư, tập I, quyển 3, Sđd, tr..303.
21 Đại việt sử ký toàn th ư, tập I, quyển 3, Sđd, tr..309. Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, tập I, quyển 4, Sđd tr. 374.
22 Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Quan chức chí, tập II, Sđd, tr. 22.
23 Thơ văn Lý – Trần, Bản dịch Viện Văn học, Hà Nội năm
1977, tập I, 631 trang, tr. 395, 402 và 411. Nguyên văn chữ Hán là:
天符睿武二年。辛丑。七月。初六日。立碑。朝列型部尚書。部員外郞。同知蕃工院諸事。阮公弼奉勅撰。右侍郞尚書工部員外郞。同知审刑院事。上轻车都尉紫金
鱼李宝弓奉勅书。
24 Thơ văn Lý – Trần, tập I, Sđd, tr. 335.
25 Thơ văn Lý – Trần, tập I, Sđd, tr. 521.
26 Thơ văn Lý – Trần, tập I, Sđd, tr. 525.
27 Thái uý Đỗ Anh Vũ sau được đổi làm họ Lý nên mới gọi là Thái uý Lý công.
28 Thơ văn Lý – Trần, Tập I, Sđd, tr. 468. Nguyên văn chữ Hán là: 神宗朝丁未岁迭侍帷幄。位冠六尚。
29 Bốn học trò của Khổng Tử được thờ phụ với thày ở Văn Miếu là Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tử và Mạnh Tử.
30 72 học trò giỏi của Khổng Tử.
31 Đại việt sử ký toàn thư , tập I, quyển 3, Sđd, tr.287. Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, tập I, quyển 3, Sđd tr. 345.
32 Đại việt sử ký toàn th ư, tập I, quyển 2, Sđd, tr.242. Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, tập I, quyển.2, Sđd tr. 286.
33 Đại việt sử ký toàn thư, tập I, quyển 2, Sđd, tr.243. Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, tập I, quyển.2, Sđd tr. 287.
34 Đại việt sử ký toàn thư, tập I, quyển 2, Sđd, tr.246. Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, tập I, quyển.2, Sđd tr. 292
35 Đại việt sử ký toàn thư, tập I, quyển 2, Sđd, tr.250. Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, tập I, quyển 2, Sđd tr. 297.
36 Đại việt sử ký toàn thư , tập I, quyển 2, Sđd, tr.265. Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, tập I, quyển.2, Sđd tr. 313.
37 Thơ văn Lý – Trần, tập I, Sđd, tr.374 – 375.
38 Thơ văn Lý – Trần, tập I, Sđd, tr.375.
39 Lý Tế Xuyên, Việt Điện U linh, Bản dịch NXB Văn học, Hà Nội, 1972, 173 trang, tr.53.
40 Đại việt sử ký toàn thư, tập I, quyển 2, Sđd, tr..243.
41 Đại việt sử ký toàn thư, tập I, quyển 2, Sđd, tr..253 – 254.
42 Đại việt sử ký toàn thư, tập I, quyển 3, Sđd, tr. 286.
43 Đại việt sử ký toàn thư, tập I, quyển 3, Sđd, tr. 318.
44 Đại việt sử ký toàn thư, tập I, quyển 3, Sđd, tr. 322.
45 Đại việt sử ký toàn thư, tập I, quyển 4, Sđd, tr. 356.
46 Việt sử lược, Bản dịch Nhà xuất bản Văn Sử Địa, Hà Nội, 1960, 221 trang, tr. 65.
47 Việt sử lược, Sđd, tr. 69.
48 Ngụy việt ngoại ký, dẫn theo sách Lịch sử chế độ phong
kiến Việt Nam, tập I, NXB Giáo Dục, 1960 của Trần Quốc Vượng, Hà Văn
Tấn, 503 trang, tr. 202 – 203.
49 Cao Hùng Trưng An Nam chí nguyên , q. 1 ( mục phố phường, ngoại thành, hương trấn), Bản dịch đánh máy, Viện Sử học, tr. 81.
50 Quốc sử quán triều Nguyễn Đại nam nhất thống chí, Bản dịch Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1971, tập IV, 410 trang, tr. 56.
51 Đại việt sử ký toàn thư, tập I, quyển 2, Sđd, tr..259.
52 Lý Tế Xuyên Việt điện u linh, Sđd, tr. 53.
53 Đại việt sử ký toàn thư, tập I, quyển 2, Sđd, tr..253.
54 Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Quan chức chí, tập II, Sđd, tr. 7 và 30. 55 Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Quan chức chí, tập II, Sđd, tr. 7 và 31. 56 Việt sử lược, Sđd, tr.84. 57 Đại việt sử ký toàn thư, tập I, quyển 2, Sđd, tr. 271. 58 Đại việt sử ký toàn thư, tập I, quyển 3, Sđd, tr.321.
59 Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Quan chức chí, tập II, Sđd, tr. 69.
60 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 2, Sđd, tr. 243. Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Binh chế chí, tập IV, 287 trang, Sđd, tr.5.
61 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 2, Sđd, tr. 257. Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Binh chế chí, tập IV, Sđd, tr.5.
62 Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Binh chế chí, tập IV, Sđd, tr.5.
63 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 2, Sđd, tr. 278. Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Binh chế chí, tập IV, Sđd, tr.5.
64 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 2, Sđd, tr. 283.
65 Đại việt sử ký toàn thư,bản kỷ, tập I, quyển 3, Sđd, tr. 298.
66 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 3, Sđd, tr. 303.
67 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 3, Sđd, tr. 304 – 305. Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Binh chế chí, tập IV, Sđd, tr.5.
68 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 3, Sđd, tr. 304.
69 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 2, Sđd, tr. 256.
70 Đại việt sử ký toàn thư bản kỷ, tập I, quyển 2, Sđd, tr. 271.
71 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 2, Sđd, tr. 274. Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Binh chế chí, Tập IV, Sđd, tr.27.
72 Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Binh chế chí, Tập IV, Sđd, tr.20.
73 Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Binh chế chí, Tập IV, Sđd, tr.20.
74 Ngô Thì Sĩ Việt sử tiêu án Văn hoá Á châu xuất bản, Sài Gòn, 1960, tr. 49.
75 Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Quan chức chí, Tập III, 174 trang, Sđd, tr. 48.
76 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, quyển 2, tập I, Sđd, tr. 272.
77 Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Quan chức chí, Tập III, Sđd, tr. 48.
78 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 3, Sđd, tr. 294. Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, Tập I, quyển 3, Sđd, tr. 358.
79 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 4, Sđd, tr. 345. Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Binh chế chí, Tập IV, Sđd, tr.16.
80 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 4, Sđd, tr. 350. Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Binh chế chí, tập IV, Sđd, tr.16.
81 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 4, Sđd, tr. 336. Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, tập I, quyển 4, Sđd, tr. 400.
82 Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Binh chế chí, tập IV, Sđd, tr.16.
83Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Binh chế chí, tập IV, Sđd, tr.3.
84 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 2, Sđd, tr. 250 – 251.
85 Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Quan chức chí, tập II, Sđd.
86 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, , tập I, quyển 2, Sđd, tr. 272. Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Hình luật chí, tập III, Sđd, tr.95.
87 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 2, Sđd, tr. 272.
88 Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Văn tịch chí, tập IV, 287 trang, Sđd, tr.42.
89 Tội thập ác gồm có: 1. Mưu làm lâm nguy xã tắc, 2. Mưu đại nghịch
là phá huỷ tôn miếu, cung khuyết, 3. Mưu bạn là nổi loạn theo giặc, 4.
Ác nghịch là đánh giết ông bà, 5. Bất đạo là giết người vô tội, 6. Đại
bất kính là dùng các đồ dùng giành riêng cho vua, trộm và giả mạo ấn
vua, 7. Bất hiếu là mắng chửi hay không dể tang ông bà, cha mẹ, 8. Bất
mục là đánh giết những người thân thuộc gần, 9. Bất nghĩa là dân giết
quan, trò giết thày, lính giết tướng, 10. Loạn luân là thông dâm với họ
hàng thân thuộc thê thiếp của ông cha.
90 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 2, Sđd, tr. 272. Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, tập I, quyển 3, Sđd, tr. 323 – 324.
91 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 3, Sđd, tr. 287.
92 Việt Sử lược, Sđd, tr. 97.
93 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, , tập I, quyển 4, Sđd, tr. 340.
94 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 4, Sđd, tr. 340.
95 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 2, Sđd, tr. 264.
96 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 2, Sđd, tr. 264.
97 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 3, Sđd, tr. 300, ghi là Đỗ Sùng.
98 Việt Sử lược, Sđd, tr. 123. Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 3, Sđd, tr. 300.
99 Việt Sử lược, Sđd, tr. 162. Đại việt sử ký toàn thư bản kỷ, tập I, quyển 3, Sđd, tr. 354.
100 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 2, Sđd, tr. 243 – 244..
101 Việt sử thông giám cương mục, tập I, quyển 3, Sđd, tr. 322.
102 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 2, Sđd, tr. 272.
103 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 2, Sđd, tr. 271.
104 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 2, Sđd, tr. 274.
105 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 3, Sđd, tr. 302. Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Hình luật chí, tập III, Sđd, tr.95.
106 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 4, Sđd, tr. 333. Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Hình luật chí, tập III, Sđd, tr.95.
107 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 4, Sđd, tr. 333.
108 Đại việt sử ký toàn thư, bản kỷ, tập I, quyển 4, Sđd, tr. 334. Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương loại chí, Hình luật chí, tập III, 174 trang, Sđd, tr.96.
————
0 comments:
Post a Comment