Monday, August 12, 2013

KHẢO CỨU VỀ VĂN HIẾN ĐẠI VIỆT QUA TRƯỜNG HỢP HOÀNG ĐẾ LÊ THÁNH TÔNG (5 kỳ)


Tác giả: Trần Trọng Dương, 
Viện nghiên cứu Hán Nôm
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển,
đăng lại tại Tạp chí Tia sáng, ngày 30/1/2012
truy cập đường link gốc  tại đây



Những hành xử của Lê Thánh Tông cả trước và sau khi lên ngôi không những tỏ rõ “khí lượng thiên tử” mà còn cho thấy ông đã được đào tạo một cách bài bản như thế nào về quan niệm trị nước theo tiêu chuẩn của Nho giáo. 
Lê Thánh Tông thuộc loại hình nhân vật lịch sử đáng chú ý. Có thể có nhiều cách phân loại khác nhau. Từ quan điểm hiện đại, nhiều người coi ông như một mẫu hình nhà văn hóa của Đại Việt hay nhà chính trị lỗi lạc, nhà thơ lớn của Đại Việt vào thế kỷ XV. 


Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, nghiên cứu bất cứ một lĩnh vực nào thì người nghiên cứu nên tự đặt mình vào bối cảnh thời đại cũng như bối cảnh tri thức của thời đại đó, tộc người đó. Điều này sẽ giúp chúng ta có được cái nhìn từ bên trong, tránh đi lối nhìn đã “hiện đại hóa” của đời sau. Chính vì vậy, bài viết xuất phát từ việc khảo về khái niệm văn hiến trong bối cảnh tri thức Nho gia Việt Nam cũng như “văn hiến Đại Việt” qua trường hợp Hoàng Đế Lê Thánh Tông, để ngõ hầu lý giải được phần nào những đóng góp lịch sử của vị hoàng đế này đối với lịch sử và dân tộc


Với thức nhận như trên, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu về từ nguyên của khái niệm “văn hiến” trong bối cảnh tri thức của Nho gia1. Kết quả có thể tóm lược như sau. Về mặt tự nguyên, Văn có bốn nghĩa: văn tự, ngôn ngữ, văn thư, và văn chương2, cũng như trỏ những tư liệu nói chung có liên quan đến điển chương chế độ, hiến chỉ người hiền tài, chủ thể sáng tạo có học thức. Có thể biểu diễn cấu trúc khái niệm văn hiến qua mô hình sau:   


 


Các quá trình hoạt động văn hóa xã hội trên (Sáng tạo văn tự, ghí tái ngôn ngữ; Dịch thuật; Mở mang giáo hóa; Thiết định pháp độ; Thiết định phong tục) đều có thể quy vào quá trình kiến tạo văn hiến và có thể coi như là những tiêu chuẩn để chúng tôi tiến hành khảo sát từng tiêu chí cụ thể qua trường hợp hoàng đế Lê Thánh Tông. Việc khảo sát này dựa trên những thư tịch cổ còn lại, cũng có khi có sự kế thừa các kết quả nghiên cứu trước đây. Vì vậy, bài viết sẽ mang dáng dấp một bài tổng thuật, đôi chỗ có phát hiện mới cũng chỉ mang tính chất bổ sung.


Thân Nhân Trung trong Thánh Tông Chiêu lăng bi minh viết: “cập sinh, thiên tư nhật biểu, thần thái anh dị, càn kiện khôn thuận, chí tính thuần toàn, kỳ kỳ nhiên, ngực ngực nhiên, chân tác Hậu chi thông minh, biểu bang chi trí dũng” nghĩa là [vua sinh ra] tư trời rạng rỡ, thần thái anh dị, có cái cương kiện của quẻ càn, có cái nhu thuận của quẻ khôn, tính nết thuần toàn, chững chạc thay, vời vợi thay! Thực là [tư chất] thông minh của bậc Hoàng đế, thực là [khí tượng] trí dũng của kẻ biểu bang”3.


Khi Thái Tông mất, hai đại thần Lê Khả và Lê Xí phò Nhân Tông hoàng đế lên ngôi. Niên hiệu Thái Hòa năm thứ 3 (1445), ông được phong tước Bình Nguyên vương, phủ đóng ngay tại kinh đô, hàng ngày cùng các vị vương khác vào Kinh diên học tập. Như ta biết, Tư Thành là em út, cách ứng xử của Nho gia cũng đã nằm lòng. Giữ hiếu đễ với anh, cũng tức là tỏ lòng trung với nước. Mặt khác, những bài học lịch sử mà Nho giáo đã đưa ra trong kinh sử trước đây về mối quan hệ anh em trong hoàng tộc, khiến ông nhận thực rõ ràng hơn về vị thế của mình. Phương thức ứng xử “giữ phận”, “ẩn mình” có thể nói là cách tốt nhất để “hành đạo”. Cho nên, lúc ấy, quan giữ chức Kinh diên là Trần Phong, thấy ông “cử chỉ đoan chính, thông tuệ hơn người” cũng đã giật mình. Còn Tư Thành cũng đã ngay lập tức đọc được việc mình bị “đọc”, nên “càng dè dặt, không dám lộ vẻ anh hoa, mà chỉ lấy sách vở cổ kim và nghĩa lý thánh hiền làm thú, ...suốt đêm không rời quyển sách; thiên tài cao cả mà việc chế tác lại rất lưu tâm, yêu việc thiện, mến người hiền luôn luôn không mỏi.” Đến khi loạn Nghi Dân nổ ra, ông vẫn thản nhiên không tham gia chính sự, bình tĩnh như không có chuyện gì xảy ra. Đây chính là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất khiến các đại thần thời bấy giờ như Nguyễn Xí, Đinh Liệt, Lê Lăng, Lê Niệm, ...mới nhận ra rằng ông là “bậc minh tuệ, độ lượng trầm nhã, vượt trên nhân quần” nên mới đón rước ông về nối ngôi hoàng đế.


Có thể nói, những hành xử của Lê Thánh Tông cả trước và sau khi lên ngôi không những tỏ rõ “khí lượng thiên tử” mà còn cho thấy ông đã được đào tạo một cách bài bản như thế nào về quan niệm trị nước theo tiêu chuẩn của Nho giáo.


“Vua tư trời sao siêu, anh minh quyết đoán, có hùng tài đại lược, võ giỏi văn hay, ... Các sách kinh sử, các sách lịch toán, các việc thánh thần, cái gì cũng tinh thông.” (Vũ Quỳnh 1453-1516, ĐVSKTT. T3. nxb KHXH. H.)


Qua lời trên của Vũ Quỳnh, có thể thấy, Lê Thánh Tông đã/ được trang bị cho mình mọi kiến thức cần thiết nhất để sau này ông đứng ở ngôi vị thiên tử. Hiếu đễ để thuận lòng người, hợp ý trời. Khi đã gặp thời, “phi long tại thiên” thì dùng “chư khoa bách nghệ” để ứng phó và xử lý mọi công việc. Dùng võ là để bình định thiên hạ, oai chấn tứ di, đánh dẹp các thế lực cát cứ ở trong và ngoài nước. Dùng văn để giáo hóa thiên hạ. Dùng đức để cải hóa nhân tâm. Dùng pháp để răn dè sai trái. Có thể nói, bản thân Lê Thánh Tông xét cả về tư chất cũng như đức độ, cũng như tầm tri thức là vị vua “kiểu mẫu” theo đúng kinh sách của Nho gia. Ở khía cạnh này, có thể coi nhân vật Nhà Nho- Hoàng đế là loại hình nhân vật đáng chú ý hơn cả để nghiên cứu về khía cạnh “hiến” trong khái niệm văn hiến. Bậc hiền vương Lê Thánh Tông là biểu hiện tiêu biểu nhất cho văn hiến Đại Việt vào thế kỷ XV. Bởi từ bối cảnh tri thức và bối cảnh thời đại, Hoàng đế vừa là sản phẩm của thời đại ấy lại vừa là nhân tố quan trọng nhất tạo tác nên thời đại đó.


Sở dĩ nói, Lê Thánh Tông là hiền vương bởi ông là một trong hai vị vua thực hiện một cách đầy đủ nhất những tiêu chuẩn của quan niệm Nho giáo chính thống. “Hiền” là một khái niệm của Nho, là một phức thể định hình cụ thể giữa hai yếu tố “tự tu” và “kinh tế”. Hiền là một danh từ trỏ chung cho những nhân vật ngưỡng mộ và thực hành đức trị theo những mô hình cổ đại thời Chu. Đời sau, người ta còn dùng các từ hiền nhân, hiền sĩ. Nhưng về cấp độ và vị thế chính trị thì hiền chia làm hai loại: 1. Hiền thần và 2. hiền vương. Trong đó hiền vương là người thực hiện một cách hoàn bị những bài học đạo đức (nội thánh) và chính trị (ngoại vương)4 theo nguyên lý và hình mẫu có sẵn. Không chỉ có vậy, khái niệm hiền của Nho gia còn được gia cố bởi nhiều tiêu chí khác, như chúng tôi đã thảo luận khi đề cập về Sĩ Nhiếp5.





Dù là với tiêu chí nào đi chăng nữa thì Lê Thánh Tông là một thực thể sống động cho những nguyên tắc hành xử và hoạt dộng xã hội của Nho gia. Điều ấy sẽ dần dần được đề cập đến như dưới đây.


---


Chú thích

1. Trần Trọng Dương. Từ nguyên của từ “văn hiến” qua bối cảnh tri thức Nho giáo Việt Nam- Trung Hoa. Hội thảo “Việt Nam và Trung Quốc – những quan hệ văn hoá, văn học trong lịch sử”. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp Hồ Chí Minh. 2011.



2. Xem thêm cách phân suất từ nguyên của Liam Kelley.2003. Vietnam as a ‘Domain of Manifest Civility’ (Văn hiến chi bang). Journal of Southest Asian Studies, Vol.34, No. 1, pp 63-76.


3. Biểu bang: đại diện tiêu biểu của đất nước. Một số bản dịch trước đây dịch thành “trí dũng đủ để giữ nước.”


4. “Nội thánh ngoại vương” là khái niệm của Nho gia. THÁNH là khái niệm trỏ phạm trù đạo đức; VƯƠNG là khái niệm trỏ phạm trù chính trị. Trong số bát điều mục cơ bản nhất của Nho gia, thì cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân là thuộc về NỘI THÁNH; tề gia, trị quốc, bình thiên hạ là thuộc về NGOẠI VƯƠNG. NỘI THÁNH là cái gốc, cái căn cốt, cái cơ bản, cái tiền đề tiên quyết cho NGOẠI VƯƠNG. NỘI THÁNH là nội dung là phương pháp là cái quyền uy tối thượng cho nhân luân và chính trị. Bậc thánh nhân, chỉ cẩn tự mình hoàn thiện nhân cách bản thân cũng đã là đồng thời hoàn tất công việc NGOẠI VƯƠNG rồi. Đây là lý thuyết căn bản nhất cho khái niệm chính trị “vô vi nhi thiên hạ trị” của Nho gia. Câu thơ của Đỗ Pháp Thuận (915-990) vô vi cư điện các, xứ xứ tức đao binh là một ví dụ điển hình cho tư tưởng ĐỨC TRỊ của Nho gia. Tiếc rằng, giới nghiên cứu tư tưởng triết học trong nhiều năm qua, đã đem khái niệm bên ngoài “tề- trị- bình” coi là hạt nhân quan trọng nhất của Nho gia, từ đó dẫn đến nhiều hệ lụy nghiêm trọng khác.


5. Trần Trọng Dương. 2011. bdd.





Nằm trong hoạt động kiến tạo văn hiến, Lê Thánh Tông là một trong những vị vua có nhiều trước thuật có giá trị, ông đã sai Nho thần biên soạn nhiều bộ sách mang tính học thuật, có ý nghĩa thiết lập những giá trị mới có khuynh hướng Nho hóa về nhiều phương diện như lịch sử, chế độ, pháp luật, dân tục, ngôn ngữ, văn hóa, văn học... 

Các sách trước tác của Lê Thánh Tông

Về các tập thơ chữ Hán, Lê Thánh Tông có các tập Minh Lương cẩm tú 明 良 錦 繡, Quỳnh Uyển cửu ca瓊 苑 九 歌, Chinh Tây kỷ hành 征西紀行, Cổ Tâm bách vịnh 古心百詠, Châu cơ thắng thưởng 珠璣勝賞, Văn minh cổ xúy 文明鼓吹, Anh hoa hiếu trị 英華孝治, Cổ kim cung từ thi tập 古今宮詞詩集, Xuân vân thi tập 春雲詩集. Trong đó, ba tập cuối hiện đã mất. Minh lương cẩm tú 明 良 錦 繡 gồm 18 bài, phần đa vịnh các cửa biển từ cửa Thần Phù đến Hải Vân quan. Đại Việt thông sử  大越通史 của Lê Quý Đôn ghi nhận, tập thơ do từ thần biên tập thơ ngự chế và các bài do bề tôi họa lại1. Quỳnh Uyển cửu ca 瓊 苑 九 歌 là tập thơ do vua tôi xướng họa nhân dịp hai năm liền được mùa theo chín chủ đề: 1. Phong niên (được mùa), 2. Quân đạo (đạo làm vua), 3. Thần tiết (tiết làm bề tôi), 4. Minh lương (vua sáng tôi hiền), 5. Anh hiền (các bậc anh tài hiền triết), 6. Kỳ khí (khí lạ), 7. Thảo tự (chữ Thảo), 8. Văn nhân, 9. Mai hoa. Tập thơ còn 1 bài tựa của Lê Thánh Tông và bài bạt của Đào Cử.  Chinh tây kỷ hành 征西紀行 là tập thơ nhật ký theo lộ trình tiến đánh Chiêm Thành từ năm 1470 đến 1471, gồm ba mươi bài. Cổ tâm bách vịnh 古心百詠 là tập thơ “họa thơ vịnh sử của nhà Nho đời Minh là Tiên Tử Nghĩa. Các từ thần là Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận phụng bình. Thơ đều làm theo thể ngũ ngôn tuyệt cú.”2  Châu cơ thắng thưởng 珠 璣勝賞 như tên của nó là những vần thơ châu ngọc được viết khi du ngoạn cảnh núi sông danh thắng của đất nước, như chùa Sài Sơn, núi Chiếu Bạch, động Long Quang,... gồm 20 bài. Văn minh cổ xúy 文明鼓吹 là tập thơ Lê Thánh Tông cùng các hoàng tử và triều thần viết3 nhân dịp về bái yết sơn lăng, viếng thăm lăng mộ hoàng tộc để tỏ lòng hiếu kính tổ tiên, cầu cho quốc thái dân an. Xuân vân thi tập 春雲詩集 là một tuyển tập các tác phẩm thơ của Lê Thánh Tông, không biết có phải được tập hợp ngay khi tác giả còn sống hay không. Nhưng theo Phan Huy Chú khen thì tập thơ này “bài nào cũng có khí khái mạnh mẽ, lời ý bay bướm.”4 Ba tập thơ sau cùng đến nay đã không còn. Tuy nhiên, qua nhiều cổ thư khác như Đại Việt sử ký toàn thư, Toàn Việt thi lục, Thiên Nam dư hạ tập, Hoàng Việt thi tuyển,... thì Lê Thánh Tông còn khoảng 150 bài không thuộc các tập thơ trên. Số lượng tác phẩm thi văn của Lê Thánh Tông thực tế có thể còn nhiều hơn, nhưng còn lại đến nay chỉ có khoảng 350 bài5.


Văn chữ Hán Lê Thánh Tông còn để lại khá phong phú với khoảng hơn 40 sắc phong, chỉ dụ. Nhất là tập truyện Thánh Tông di thảo 聖宗遺草 với gần 20 truyện ngắn.


Ngoài thơ chữ Hán, Lê Thánh Tông còn có khá nhiều thơ Nôm, tập trung chủ yếu trong Hồng Đức quốc âm thi tập 洪 德國音詩集. Hiện vẫn chưa có con số thống kê chính xác các bài thơ Nôm của ông. Nhưng bài văn Nôm Thập giới cô hồn quốc ngữ văn 十戒孤魂國語文 có thể coi là bài văn biền ngẫu có giá trị bậc nhất của thế kỷ XV.


Các sách thời Hồng Đức


Là một mẫu điển hình nhất của người hành đạo nhập thế, Lê Thánh Tông hơn ai hết ý thức được việc phải biên soạn lịch sử với tư cách là những công cụ để nối liền đạo thống. Bộ Đại Việt sử ký toàn thư có thể coi là một sản phẩm của Nho học thế kỷ XV. Bộ sách này do sử quan Ngô Sĩ Liên biên soạn theo chỉ dụ của Lê Thánh Tông năm 1479. Để biên soạn được bộ sử này, hoàng đế đã nhiều lần xuống chiếu sưu tầm tư liệu, sách vở và dã sử dân gian. Sách Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn có chép về việc này như sau: “Hồi đầu Quang Thuận, hạ chiếu tìm tòi các dã sử, thu thập những truyện ký cổ kim còn chứa ở tư gia, hạ lệnh cho đem dâng lên tất cả. Khoảng năm Hồng Đức, nhà vua lại hạ chiếu cầu những sách còn sót, lại đem chứa cất ở bí các. Trong dịp này, có người đem dâng những sách lạ, sách bí truyền, đều được khen thưởng nhiều.”6 Có thể coi, đây là những hoạt động xây dựng kho tư liệu sử liệu dân tộc đầu tiên sau thời thuộc Minh. Từ kho sử liệu này, Ngô Sĩ Liên đã biên soạn nên cuốn sử ký của triều đại mình. Cụ thể là, ông đã dựa vào truyền thuyết và các dã sử để biên soạn phần Ngoại kỷ - đây cũng là lần đầu tiên lịch sử của Đại Việt được kéo dài thêm 2000 năm từ đời Hồng Bàng đến nhà Thục Triệu, đến nhà Ngô. Ở các phần Bản kỷ (10 quyển, từ nhà Đinh đến Lê Thái Tổ), Ngô Sĩ Liên dựa vào hai bộ chính sử có trước đó là Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và Sử ký tục biên của Phan Phu Tiên rồi tiếp tục bổ sung sử liệu mới, phê phán đúng sai, sửa sang chau chuốt lời văn cũng như thêm phần lời bàn. Bộ sách được viết theo thể thức biên niên, gồm 15 quyển. Đây là bộ sử quan phương còn lại đến nay, được coi là bộ sử có giá trị nhất, có quy mô hệ thống nhất theo quan điểm thời bấy giờ.


Thiên Nam dư hạ tập 天南餘暇集 là bộ sách lớn nhất do Lê Thánh Tông chủ biên sai các văn thần như Đỗ Nhuận 杜 潤, Nguyễn Trực 阮 直 biên soạn vào năm 1483. Sách được biên soạn theo loại sách hội yếu, thông điển, gồm 100 quyển ghi chép đầy đủ các chế độ, luật lệ, văn thư, điển lệ, các giấy tờ văn thư hành chính (như chiếu, dụ, cáo, sắc...). Hiện nay, bộ sách đã tàn khuyết gần hết, chỉ còn lại 10 tập chép tay viết về các mảng quan chế, điều luật, bản đồ, sớ văn; Thơ, văn, điển lệ, điều luật, chinh chiến, quan chức, thiên văn, địa lí, lịch sử… của nhà Lê, từ Lê Thánh Tông trở về trước. Cụ thể như sau: 1. Điều luật và Quan chế (A.334/1 – 10)7; 2. Bình thi văn (A.334/2); 3.Liệt truyện, Tạp thức (A.334/3); 4.Khảo sử (A.334/4)8; 5.Thi tập; Đối liên (A.334/5); 6.Phú tập (A.334/6); 7.Thi tiền tập; Chinh tây kỉ hành; Minh lương cẩm tú và Quỳnh uyển cửu ca (A.334/7 và VHv.1313/a); 8.Chinh Chiêm Thành sự vụ; Chinh Tây kỉ hành (A.334/8); 9.Điển lệ; Phú tập (A.334/9); 10.Thiên hạ bản đồ; Quan chế (A.334/10). Ngoài ra còn thấy chép cả một số tác phẩm của Lê Thánh Tông bài Lam Sơn lương thủy phú, bài văn tế Nôm Thập giới cô hồn quốc ngữ văn. Theo đánh giá của Bùi Duy Tân: “Thiên Nam dư hạ tập là bộ tùng thư hội điển quy mô bậc nhất thời Trung đại. Sự xuất hiện của bộ sách thể hiện ý thức xây dựng điển chương chế độ cho một đất nước có văn hiến của Lê Thánh Tông và các văn thần thời Hồng Đức.”9


Ngoài ra, những năm thuộc niên hiệu Hồng Đức đời Lê Thánh Tông còn biên soạn và bàn hành hai bộ sách khác là Lê triều quan chế 黎 朝 官 制 (6 quyển, ghi Chế độ quan chức triều Lê, gồm quan tước, phẩm trật, thể lệ tuyển bổ, phong tặng, tập ấm v.v.) và Sĩ hoạn châm quy (đã mất?). Ba bộ sách về hệ thống luật pháp, điển chế trên có lẽ ít nhiều tiếp thu bộ Hình thư (6 quyển) do Nguyễn Trãi san định vào năm Đại Bảo triều Lê Thái Tông (1440-1442). Và cả bốn bộ này lại là cơ sở cho các sách hình luật được biên soạn các đời vua sau đó như Trị bình bảo phạm (1 quyển, 50 điều) đời vua Lê Tương Dực (1509-1516), Quốc triều điều luật (6 quyển) năm Cảnh Hưng thứ 30 (1769), Khám tụng điều lệ (2 quyển) năm Cảnh Hưng thứ 38 (1777), Quốc triều thiện chính tập (7 quyển?), Thiện chính tục tập (8 quyển) chép chính lệnh từ sau đời Trung hưng đến năm Cảnh Hưng thứ 20 (1759).


Tập bản đồ thời Hồng Đức còn lại có Hồng Đức bản đồ 洪 德 版 圖, An Nam quốc Trung đô tịnh tam thập thừa tuyên hình thế đồ thư 安南國中都並三十承宣形勢圖書, An Nam địa chí 安 南 地 輿 志, Thiên hạ bản đồ 天 下 本 圖, Toản tập Thiên Nam lộ đồ thư纂 集天南路圖書 vẽ năm Hồng Đức 21 (1490),... gồm bản đồ toàn quốc, bản đồ Trung Đô (Thăng Long) và 13 bản đồ thuộc 13 thừa tuyên (Thanh Hóa, Nghệ An, Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Lạng Sơn, An Bang, Thuận Hóa, Quảng Nam), trong đó có ghi rõ 49 châu, 181 huyện, 53 phủ, các núi, sông, thành trì, đường sông, đường bộ, đường biển. Trong số 49 bản đồ, có 14 bản đồ đời Lê10, trong đó phần đa đều tiếp thu từ bản đồ được vẽ vào thời Hồng Đức. Nhóm thứ nhất gồm các bản đồ hình thế, dùng cho việc quản lý hành chính hoặc học tập, như Bản quốc dư đồ, Bắc Kỳ các tỉnh toàn đồ... Ở loại bản đồ này, người vẽ thường quan tâm đến các chi tiết như cương vực, ranh giới các tỉnh, phủ, huyện, sông, biển, núi, thành trì, nơi đô hội...


Cuốn Hồng Đức niên lệ thể thức 洪德 年 例 體 式 là sách ghi thể thức các loại giấy tờ trình báo, cung khai, khám nghiệm, chúc thư, văn khế... và một số điều luật về bộ và hình thời Hồng Đức. Cuốn Hồng Đức thiện chính 洪 德 善 政ghi 76 điều luật của đời Hồng Đức về ruộng đất, nông tang, hôn nhân, chia gia tài, chúc thư, văn tự v. v. Cuốn Quốc triều Hồng Đức niên gian thư cung thể thức 國 朝 洪 德 年 間 諸 供 體 式 ghi thể thức lấy cung, làm giấy tờ, khám nghiệm và các điều luật về hình, hộ dưới thời Hồng Đức (1470 - 1479) như: cách xử phạt việc đánh người bị thương tích, việc người bị đánh chết sau 18 ngày, việc tranh chấp ruộng đất, việc xử vợ chồng không có con...


Ngoài các thư tịch cổ nêu trên, triều Lê Thánh Tông cũng để lại số lượng lớn các di sản văn khắc, trong đó đáng kể đến các bia đề danh tiến sĩ tại Văn miếu tại Hà Nội, các văn bản thơ ma nhai, biển gỗ được in khắc ở nhiều nơi như Hòa Bình, Hải Dương, Lai Châu, Hà Tây, Quảng Ninh,... Các sắc phong cổ thời này cũng được ghi chép tản mát trong nhiều thần tích, thư tịch địa bạ, cổ chỉ, xã chí khác, và đến nay chưa có ai thực hiện việc sưu tầm thống kê toàn bộ.


---


1. Lê Quý Đôn. 1978. Đại Việt thông sử. Nxb KHXH. Hà Nội. tr.108.


2. Phan Huy Chú. 1961. Lịch triều hiến chương loại chí. Phần Văn tịch chí. (Đào Duy Anh hiệu đính). Nxb. Sử học. Hà Nội. tr.76.


3. Phan Huy Chú. 1961. sdd. tr.76.


4. Phan Huy Chú. 1961. sdd. tr.76.


5. Mai Xuân Hải. 2007. Lê Thánh Tông và thơ chữ Hán. trong “Lê Thánh Tông- về tác gia và tác phẩm”. Nxb Giáo dục. H. tr.432.


6. Lê Quý Đôn. Sdd.


7. Các ký hiệu sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm.


8. Nguyễn Thanh Tùng trong bài “Về lai lịch tập II, III, IV của bộ Thiên Nam dư hạ tập (10 tập) hiện còn.” (Thông báo Hán Nôm học 2010, bản thảo sắp in) đã phát hiện ra rằng, các tập II, III, IV có khả năng là các ngụy thư do đời sau chép sách Tầu mà làm ra. Tuy nhiên, chúng tôi mới chỉ được nghe báo cáo, chưa được đọc chính văn bải viết trên, nếu có gì sai sót xin tác giả bài viết và bạn đọc lượng thứ.


9. Bùi Duy Tân. 2007. bdd. sdd.tr.33.


10. Trần Nghĩa. 1990. Bản đồ cổ Việt Nam. Tạp chí Hán Nôm, số 02/ 1990.


-----------------------------


Không chỉ thực hiện những chính sách ngôn ngữ văn tự phù hợp với bối cảnh lịch sử của đất nước và tình hình văn hóa của khu vực, điều đáng nói hơn là Lê Thánh Tông và các triều thần thi nhân của mình đã tiến hành thành công một cuộc cải cách về ngôn ngữ thơ ca thế kỷ XV.

Về văn tự Từ thời Lý Trần cho đến thời Lê Thánh Tông, Đại Việt sở dĩ đã được coi là nước văn hiến bởi lẽ các triều đại này đã thực hiện những chính sách ngôn ngữ văn tự phù hợp với bối cảnh lịch sử của đất nước và tình hình văn hóa của khu vực.
Đến triều Lê Thánh Tông, Đại Việt vẫn sử dụng chính sách song ngữ (tiếng Hán và tiếng Việt) và tam văn tự (chữ Hán, chữ Sancrit và chữ Nôm). Tuy nhiên, có sự phân chia khả năng hành chức cho từng ngôn ngữ và các hệ thống chữ viết. Tiếng Hán (chữ Hán) được coi là ngôn ngữ của nhà nước, ngôn ngữ quan phương dùng cho việc quản lý hành chính (công văn giấy tờ), ngoại giao với khu vực, ghi chép lịch sử, văn học, tôn giáo và khoa cử. Tiếng Việt và chữ Nôm được coi là tiếng bản ngữ và văn tự bản sắc, dùng để giao tiếp thường nhật (kể cả khi thiết triều?)1. Đây đồng thời là công cụ giao tiếp giữa triều đình với các cấp quản lý phía dưới và với dân chúng. Và quan trọng nhất, nó là công cụ giao tiếp chính thức của toàn bộ cộng đồng cư dân Việt.
Tuy nhiên, xét ở khía cạnh kiến tạo văn hiến, Lê Thánh Tông có đóng góp lịch sử nhất định ở phương diện này. Ông là vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử, đưa chữ Nôm và ngôn ngữ bản địa (tiếng Việt) vào sáng tác thơ ca cung đình. Tập thơ Nôm lớn nhất thế kỷ XV - Hồng Đức quốc âm thi tập (HĐQATT) có thể coi là một kho tàng về ngôn ngữ tiếng Việt cổ thế kỷ này. Tập thơ là những sáng tác thơ Đường luật của Lê Thánh Tông và triều thần với nội dung khá phong phú, gồm ba trăm hai mươi tám bài (328) với độ dài văn bản là 18368 lượt chữ (so với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi có hai trăm năm tư (254) bài với độ dài văn bản là 14224 lượt chữ).
Cải cách ngôn ngữ dân tộc
Điều đáng nói hơn nữa là Lê Thánh Tông và các triều thần thi nhân của mình đã tiến hành thành công một cuộc cải cách về ngôn ngữ thơ ca thế kỷ XV. Nhiều người vẫn coi Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là một đỉnh cao không thể vượt qua. Từ định kiến đó, một số ý kiến coi HĐQATT là một sự “giậm chân tại chỗ” hay là “vệt kéo dài” của ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Trãi đầu thế kỷ XV. Chúng tôi cho rằng, quan niệm như vậy xuất phát từ mục đích nghiên cứu của giai đoạn đó: đề cao tuyệt đối thơ Nguyễn Trãi để làm nổi bật tính nhân dân, tính dân tộc của tác phẩm, hạ thấp thơ văn cung đình của triều thần vua tôi Lê Thánh Tông để phê phán những tệ lậu của chế độ phong kiến.
Thực tế, Lê Thánh Tông đã tạo ra một đỉnh cao khác về ngôn ngữ nghệ thuật vào thế kỷ XV. Đỉnh cao này đã được ông chuẩn bị một cách bài bản và học thuật2. Trong Hồng Đức quốc âm thi tập hàng loạt các thủ pháp tu từ mới đã được thiết lập.
Lần đầu tiên, lối ngôn ngữ thơ cảm giác được hiện thực hóa bằng cách sử dụng các từ láy thuần Việt. Các từ láy tập trung với mật độ dày đặc, để tạo nên những hiệu ứng đa chiều từ tất cả các giác quan:
Rỡ rỡ cửa vàng ngày Thuấn rạng
Làu làu phiến ngọc lịch Nghiêu phân

Cao vòi vọi ngôi hoàng cực

Khắp lâng lâng phúc thứ dân

(
Nguyên đán)

Cũng lần đầu tiên các từ láy đi đôi với lối điệp từ để tạo sóng âm:
Mặt làu làu, vóc thỏ thanh thanh
Tròn tròn, méo méo in đòi thuở

Xuống xuống, lên lên suốt mấy canh

Tháng tháng liếc qua, lầu đỏ đỏ

Đêm đêm liền tới, trướng xanh xanh

Theo thống kê của Vương Lộc, số lượng từ láy trong HĐQATT lên đến ba trăm bảy mươi lăm (375) đơn vị3, ví dụ như: chạnh chạnh, cạy cạy, chấp chảnh, chắm chắm, êu ếu, dặng dặng, kềnh kềnh, lam am, lom om, năm nắm, nghể ngái, tha la, xun xoăn, lởm thởm,… Kỹ thuật này sau đó đã trở thành một thủ pháp quen thuộc rất hay được các chúa Trịnh sử dụng trong các tập thơ Nôm Ngự đề Thiên hòa doanh bách vịnh, Lê triều ngự chế quốc âm thi, Kiền nguyên ngự chế thi tập. Truyện Kiều cũng không ít lần sử dụng biện pháp tu từ học này, ví dụ như: trông vời bạt lệ phân tay, góc trời thăm thẳm, ngày ngày đăm đăm…
Lê Thánh Tông cũng là người đầu tiên đưa ngôn ngữ dân gian vào hoạt động sáng tạo nghệ thuật cung đình. Thực ra, dùng các ngữ liệu của văn học dân gian vào việc sáng tác thơ Đường luật đã bắt đầu thấy từ Nguyễn Trãi. Nhưng thơ Nguyễn Trãi là thơ ở ẩn; dân dã cũng là có lý do khách quan và chủ quan riêng của nó. Còn thơ trong HDQATT thì cái dân dã ấy, cái dân gian ấy lại bắt nguồn từ ý định nghệ thuật chủ quan. Đáng nói hơn, đó là nhận thức của một vị vua “sùng Nho chuộng Chữ” như Lê Thánh Tông. Nhận thức ấy của ông đã truyền sang cho cả các Nho thần tài hoa của mình, ví dụ những câu như: mướp đắng khen ai đổi mạt cưa, hay chớ chơi chống bỏi trẻ xem khinh, hay Kìa ai vẽ rắn sự còn gương.

Không những thế, Lê Thánh Tông và các hiền thần của mình còn ý thức một cách sâu sắc về việc tận dụng từ vựng thuần Việt và hạn chế một cách tối đa các từ Hán Việt trong thơ của mình. Theo thống kê của Bùi Duy Tân, từ thuần Việt trong HĐQATT chiếm hơn 70% (khoảng 2400 từ), từ Hán Việt chiếm 30% (khoảng 1000 từ)4. Số liệu này càng có ý nghĩa khi chúng ta biết trong tiếng Việt hiện đại, từ vựng gốc Hán chiếm đến 70% đến 80%. Ví dụ:
Sông trăng lạt vẻ sao thưa,
Gác cũ, rêu đầy, lấp dấu thơ.

Mưa tạnh, hoa sầu, chiều lạt mạt,

Xuân về, én thảm, tiếng u ơ.

Đêm tàn, ruột thắt, hồn xơ xác.

Gối chiếc, châu đằm, giấc ngẩn ngơ.

Lá thắm, thơ bài, mong bắt chước,

Nước xuôi, thơ ngược, biết bao giờ…?

(Hoài viễn bài 16)

Bài thơ không có một từ Hán Việt song tiết nào, chỉ có 12 từ Hán đã gia nhập khá sâu vào tiếng Việt như: hoa, xuân, tạnh,chiếc, sầu, châu, hồn, mong, thảm, én, gác, thơ. Về mặt phong cách học, đây rõ ràng là một kỹ pháp khác hẳn so với đời sau, như trường hợp thơ Bà Huyện Thanh Quan với lối thơ đài các mà xa xăm kiểu “lối xưa xe ngựa hồn thu thảo, nền cũ lâu đài bóng tịch dương”. Lần đầu tiên, kỹ xảo âm thanh được sử dụng như một phương pháp tạo nghĩa, tạo cảm giác. Cũng là lần đầu tiên, một tác giả viết tiếng Việt đã “hình dung khởi điểm về điều rằng tổ chức âm thanh là có nghĩa”5 và ý thức về “những lặp lại về nhịp điệu”6. Các kỹ thuật này tân kỳ đến mức, nói như Vương Lộc, “nếu lấy ra khỏi tập thơ, khó có thể nghĩ rằng nó đã được viết ra cách đây năm thế kỷ”7. Đến đây, người viết đột nhiên nhớ đến những câu kiểu như Thơ mới của Phạm Thái: “buồn đốt lò vàng hương nhạt khói, sầu nâng chén ngọc rượu không hơi” (thơ tế Trương Quỳnh Như). Nhưng cái ấn tượng về cách chơi chữ “nước xuôi> < thơ ngược” quả cũng khiến người đọc giật mình.
Lần đầu tiên, thơ Nôm Việt xuất hiện lối tư duy ngôn ngữ nghệ thuật theo hệ hình. Nhà thơ đã tổ chức bài thơ bằng cách thiết lập các phương trình đồng đẳng, để tạo nên những biểu tượng thơ đa chiều8:
Chín vạc đặt yên bằng núiAi rằng sự chẳng đến muôn dân

(Ông đầu rau)

Ba ông đầu rau (một vật rất đỗi dân gian) là đồ dùng để đặt nồi nấu nướng. Từ đó, Lê Thánh Tông đã đặt ra các hệ phương trình bất ngờ:
Ông đầu rau (dùng để đặt nồi) = ba chân vạc (của đỉnh, vạc)
Muôn dân (nhờ đó mà nấu nướng) = trăm họ được nhờ

Mặt khác, tác giả cũng đã sử dụng lại một hệ phương trình biểu tượng song trùng khác trong truyền thống mỹ học của Nho gia:
Chín vạc = biểu tượng truyền quốc = tượng trưng cho giang sơn đất nước
Nấu canh (trong vạc) = điều canh = chăn dân, vỗ trị quốc gia

Và phương trình bất ngờ nhất, thú vị nhất là:
ông đầu rau = người ở dưới khuông phò bách tính và xã tắc = Thừa tướng.
Nói như Nguyễn Phan Cảnh, thì Lê Thánh Tông ở đây đã thực hiện thao tác cơ bản nhất của hoạt động sáng tạo nghệ thuật: “tùy theo nội dung của tiêu chí lựa chọn để lập phương trình”9. Theo chúng tôi, đây là một trong những kỹ xảo thơ phức tạp nhất trong kho tàng văn học cổ của dân tộc. Biểu tượng ông đầu rau có lẽ cũng là hình tượng thơ độc đáo trong lịch sữ mỹ học Nho giáo. Điều đáng nói hơn nữa là lối tư duy ngôn ngữ này đã được Lê Thánh Tông sử dụng một cách triệt để, từ đó ông sáng tạo ra một thể loại mới.  Đó là lối thơ vịnh vật- khẩu khí với hàng loạt các hệ hình như: thằng bù nhìn- tướng soái, con cóc- ông vua, quả dưa- hiền thần, đám khoai- gia tộc,…
Có thể nói, những đóng góp trên của Lê Thánh Tông về mặt ngôn ngữ dân tộc, cụ thể là ngôn ngữ nghệ thuật là không thể phủ nhận. Không những thế, những đóng góp ấy còn thể hiện ở một số mặt khác về mảng Hán văn Việt Nam trung đại, như bài viết sẽ bàn dưới đây.

---
1. Chúng tôi cho rằng, có khả năng, tiếng Hán (văn ngôn) chỉ được dùng cho các văn bản. Còn khi thảo luận, thì tiếng Việt đã được dùng trong các buổi chầu với tư cách là một ngôn ngữ sống động.

2. Chứng cớ là ông đã ra lệnh sưu tầm thơ Nôm Nguyễn Trãi (cũng như các tác phẩm khác). Đọc Nguyễn Trãi nằm lòng đến mức ông đã phải thốt lên rằng: “Ức Trai tâm thượng quang Khuê- Tảo”.

3. Vương Lộc. (tb2007). Một vài nhận xét bước đầu về ngôn ngữ trong Hồng Đức quốc âm thi tập. trong “Lê Thánh Tông- về tác gia và tác phẩm”. Nxb Giáo Dục. H. tr.656.

Theo Nguyễn Phạm Hùng thì số lượng từ láy lớn hơn, 552 từ, chiếm 21,36% mẫu khảo sát (2584 lượt chữ). Xem “Lê Thánh Tông- về tác gia và tác phẩm”. Nxb Giáo Dục. H. tr.644-645.

4. Bùi Duy Tân. 1983. Hồng Đức quốc âm thi tập- một tác phẩm lớn của văn học tiếng Việt thế kỷ XV. Tạp chí văn học. số 3 năm 1983. tb2007. trong “Lê Thánh Tông- về tác gia và tác phẩm”. Nxb Giáo dục. tr.590.

Cũng trong bài viết này, tác giả cung cấp một số số liệu khác thú vị. “Nếu so sánh tỷ lệ số lượt từ xuất hiện, tức độ dài văn bản và số lượng của các từ khác nhau, thì ở Hồng Đức quốc âm thi tập là 15242/3383= 4.5, ở Quốc âm thi tập là 11057/2235= 4.9. Cách sử dụng kho từ vốn có của các tác giả Hồng Đức quốc âm thi tập phong phú hơn đổi mới hơn Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi tập.

5. IU.M.Lotman. 2004. Cấu trúc văn bản nghệ thuật. Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. tr.200.

6.  IU.M.Lotman. 2004. sdd. Tr.209-219.

7. Vương Lộc. bdd. Tr.660.

8. Như cách nói của Đỗ Lai Thúy là “biểu tượng lấp lửng hai mặt (ambivalence)… Thế giới đồ vật cũng là xã hội con người.” [xem Đỗ Lai Thúy. 2004. Lê Thánh Tông - nhà nho - hoàng đế - thi nhân. Nxb Giáo dục. H. tr.665.

9. Nguyễn Phan Cảnh. (tb 2001). Ngôn ngữ thơ. Nxb. Văn hóa Thông tin. H. tr.57.


-----------------------------------------------------
Kỳ 4: Mở mang giáo hóa

Trong các khía cạnh của sự nghiệp kiến tạo văn hiến, thì việc mở mang giáo hóa được coi là kế sách rất quan trọng cho sự phát triển bền vững của quốc gia. Lê Thánh Tông là vị vua đã kiến tạo nên một mô hình khoa cử hoàn bị, khiến cho khoa cử thời đại của ông đi đến sự hưng thịnh nhất trong lịch sử.
Sự coi trọng khoa cử về bản chất là coi trọng người tài. Lê Thánh Tông là người nhận thức một cách sâu sắc về vị trí và vai trò của kẻ sĩ trong việc xây dựng thể chế theo mô hình Nho gia cũng như cho việc xây dựng một nền văn hiến của dân tộc. Tinh thần trọng học, chuộng tài ấy thể hiện một tầm nhìn chiến lược để Đại Việt phát triển về mọi mặt ở nhiều thế kỷ sau. Lê Thánh Tông đã sai Thân Nhân Trung sai soạn bài văn đề danh tiến sỹ của Khoa thi năm Đại Bảo thứ 3 (1442) để khắc lên bia đá dựng tại Văn miếu Quốc tử giám. Bài văn đã nêu lên một tư tưởng phổ quát cho mọi thời đại: "Hiền tài quốc gia chi nguyên khí, nguyên khí thịnh tắc quốc thế cường dĩ long, nguyên khí nỗi tắc quốc thế nhược dĩ ô. Thị dĩ thánh đế minh vương mạc bất dĩ dục tài thủ sĩ, bồi thực nguyên khí vi tiên vụ dã." 賢材國家之元氣,元氣盛則國勢強以隆,元氣餒則國勢弱以污。是以聖帝明王莫不以育材取士培植元氣為先務也 (Hiền tài là nguyên khí của đất nước, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và vươn cao, nguyên khí suy thì thì thế nước yếu mà xuống thấp. Do đó, các bậc thánh đế, minh vương không ai không lấy việc đào tạo nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, bồi đắp nguyên khí làm việc quan trọng đầu tiên.). Trạng nguyên Vũ Duệ trong bài văn sách cũng có ý kiến tương tự: “nhân tài không phát triển, không lấy gì để dùng, để giữ cương thường muôn thuở, khơi dẫn nguyên khí quốc gia”. Luận điểm trên đã nêu bật mối quan hệ tất yếu giữa người hiền tài với vận mệnh quốc gia trong tiến trình phát triển của đất nước.


Lê Thánh Tông thực sự đã thực hiện một cuộc cải cách triệt để về giáo dục và khoa cử Nho học. Thứ nhất là về giáo dục. Nếu như thời Lý Trần, giáo dục Nho học chỉ thu hẹp phạm vi tứ thư ngũ kinh, thì đến thời Lê Thánh Tông đã mở rộng thêm các sách khác như Ngọc đường văn phạm, Văn hiến thông khảo, Văn tuyển, cương mục1... Ngoài ra, ông còn cho xây dựng các kho sách công ngay tại từng phủ. Triều đình cũng thực hiện chính sách cấp học bổng cũng như lương học cho các sĩ tử khi còn đang đi học. Mỗi tháng, thượng xá sinh2 được 10 quan, trung xá sinh được 9 quan, hạ xá sinh được 8 quan. Đây là điều chưa từng có trong lịch sử khoa cử Nho học. Không những thế, các sĩ tử còn được học tập trong Nhà thái học (mà trước đó chỉ dành cho các hoàng tử). Kho Bí thư và các phòng ốc ăn ở cũng được xây dựng ngay trong khuôn viên để các sĩ tử tiện theo học. Không những thế, triều đình Lê Thánh Tông còn có chính sách bổ dụng các loại sĩ tử trên. Bộ Lại và học quan của Quốc Tử giám chiếu theo các chức còn khuyết mà bổ dụng theo từng cấp để khuyến khích nhân tài. Đây là vừa là chính sách khuyến học lại vừa là chính sách đào tạo nhân tài bằng cách “học nhi hành”. Sử dụng ngay trong quá trình đào tạo, và ngược lại đào tạo trong khi sử dụng. Lê Thánh Tông còn xuống Chiếu khuyến học3 và đích thân vi hành đến các học xá. Ông cũng cho đặt chức Ngũ kinh bác sĩ, mỗi người chuyên trị một kinh để dạy học trò.


Lê Thánh Tông định khoa chế thi cử một cách quy củ từ thi Hương đến thi Hội. Năm 1462, ông định ra lệ thi Hương, cứ ba năm một lần. Đây là một bộ máy tuyển chọn nhân tài từ cấp cơ sở, nhằm chọn ra những sĩ tử xuất sắc nhất từ các địa phương. Thi Hương gồm có bốn kỳ: kỳ thứ nhất thi tứ thư ngũ kinh (5 bài), kỳ thứ hai thi thể loại (chế, chiếu, biểu, tứ lục), kỳ thứ ba thi thơ phú (thơ Đường, phú cổ thể và Ly tao) và văn tuyển, kỳ thứ tư thi văn sách (hỏi về kinh, sử và những vấn đề thời sự về trị quốc)4. Người trúng ba kỳ thi Hương được gọi là sinh đồ, trúng cả bốn kỳ được gọi là hương cống5. Trong đó, chỉ có hương cống mới được tiếp tục vào thi Hội. Trong suốt 37 năm với 12 khoa thi dưới triều Lê Thánh Tông, có khoảng 7000 sĩ tử đỗ sinh đồ, hương cống. Đây có thể coi là lượng nhân tài đông đảo nhất trong lịch sử, gấp sáu đến bảy lần so với tổng số sĩ tử của ba triều Lý- Trần- Hồ cộng lại6.


Thi Hội đời Lê Thánh Tông cũng được chuẩn quy với bốn kỳ giống như thi Hương. Tuy nhiên, cấp độ cao hơn rất nhiều. Các quan giỏi nhất, có uy tín nhất, có nhân cách nhất, giữ những chức vụ trọng yếu nhất trong triều mới được làm khám khảo. Vua đích thân ngự ở điện Kính Thiên ra đề văn sách ở kỳ tứ để hỏi về trị đạo. Đây cũng là hiện tượng đầu tiên trong lịch sử khoa cử Nho học. Về mặt thể lệ, trước đó, hễ ai đã vào đến thi Hội thì sẽ trúng cách; nhưng đến thời Lê Thánh Tông vua thân hành khảo xét nếu thấy không thực tài vẫn có thể bị xóa tên. Điều này chứng tỏ, Lê Thánh Tông rất coi trọng thực học. Từ chương thi phú kinh nghĩa suông thì vẫn không đủ, quan trọng nhất của một nhân tài là việc áp dụng lý thuyết Nho giáo vào những vấn đề thời sự của quốc gia. Tiêu chí này phần nào phù hợp với khái niệm trí thức hiện nay: trí thức phải là người “dấn thân” cho đời sống xã hội. Về bản chất, cuộc sách vấn giữa vua và sĩ tử trong thời Lê Thánh Tông là “cuộc hiến kế sách”7 của những trí thức Nho học đối với những vấn đề thời sự nóng hổi của triều đình, đất nước, là một cuộc sát hạch trình độ tư duy, khả năng vận dụng học thuyết đức trị của Nho giáo vào việc giải quyết những vấn đề của thực tế xã hội. Có khi sách vấn còn là một cách để Lê Thánh Tông thử Nho sĩ về khả năng phản biện xã hội, nhất là phản biện...chính đương kim hoàng thượng. Các sĩ tử khi thực hiện đối sách có khi phải thẳng thắn bàn đến nghĩa vụ của của quân vương, hay hình mẫu của ông vua lý tưởng. Như trạng nguyên Vũ Kiệt thì hình mẫu lý tưởng ấy là vị vua biết “dùng người hiền, cầu can gián, yên muôn vật, thương muôn dân, sùng Nho thuật...”8, ông hy vọng: “bậc thánh nhân làm việc không theo sự sáng suốt của riêng mình mà hợp với sáng suốt của thiên hạ, không theo tiêu chí của riêng mình mà hợp chí của thiên hạ”. Hay như trạng nguyên Vũ Duệ trong bài đối sách đã viết: “ba điều Trí- Nhân- Dũng là cái đức thông suốt trong thiên hạ, ý nói bậc làm vua phải sáng tỏ điều đó để trị nước.”


Văn sách đình đối thời Lê Thánh Tông còn bàn đến nhiều vấn đề thuộc nhiều lĩnh vực xã hội khác như: sửa đổi phong tục tập quán, chống tham quan ô lại, vấn đề chống thiên tai, vấn đề ngoại giao, ổn định dân cư, củng cố quốc phòng, kinh tế sản xuất... Ví dụ, khi bàn về binh phòng quân sự, Vũ Kiệt viết: “sự nhiệm mầu của cơ biến, cách thức của việc bày bố dàn trận cũng không ngoài nhân nghĩa... đạo trị nước lo dùng đức giáo hóa sau mới dùng võ công...thần mong bệ hạ nắm chắc điều tín tất có uy quyền để khích lệ tướng sĩ,...lại biết lấy lễ để cố kết nhân tâm, lấy ân phủ dụ để bền chí quân sĩ...” Hay khi bàn về việc kinh tế, trạng nguyên Vũ Dương viết: “việc làm giàu mà không có nhân nghĩa trung chính ấy cũng không thể làm dân no, nước đủ chi dùng.” Các biện pháp đưa ra đều rất cụ thể, nhưng tựu chung vấn đề cốt lõi nhất để thực hiện và giải quyết các vấn đề ấy đều dựa trên học thuyết đức trị của Nho gia. Một điều đáng chú ý nữa là những người đưa ra kế sách, sau khi cập đệ liền được đưa vào bộ máy chính trị để thực hiện, thi hành chính những kế sách mà mình đưa ra. Đó là một trong những điểm tích cực nhất của khoa cử và giáo dục đời Lê Thánh Tông. Với 502 tiến sĩ9 và 9 trạng nguyên chọn lọc được trong số mười tám nghìn (18000) sĩ tử đương thời. Trong thời gian 38 năm trị vì (so với 845 lịch sử khoa cử), tức thời gian chỉ bằng 1/22, mà thời Lê Thánh Tông đã lấy đỗ 502 / 2896 tiến sĩ, tức tỷ lệ bằng 1/6 tổng số tiến sĩ, và 9/45 trạng nguyên tức là tỷ lệ bằng 1/5 tổng số trạng nguyên trong lịch sử10. Những trí thức Nho sĩ này đã góp phần tạo nên một phong khí học thuật lớn nhất trong lịch sử, góp phần quan trọng vào việc chấn hưng đất nước, xây dựng một nền văn hiến của cả một thời đại, tạo đà để văn hóa Đại Việt tiếp tục phát triển trong nhiều thế kỷ sau này.


---


1. Lê Quý Đôn.1997. Kiến văn tiểu lục. Lê Quý Đôn toàn tập (tập 2). Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội. tr.97.
2. Thượng xá sinh là người ba lần trúng trường trong thi Hội. Trung xá sinh là người hai lần trúng trường. Hạ xá sinh - một lần.
3. Xem Mai Xuân Hải.1992. Bài văn khuyên chăm học của vua Lê Thánh tông. Tc Hán Nôm số 2/ 1992. tr.46.
4. Đại Việt sử ký toàn thư. Tập 3. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội. 1972. tr.182-183.
5. Hương cống, sinh đồ bắt đầu có từ đây.
6. Số liệu tiếp thu từ Mai Xuân Hải [2007. Khoa cử đời Lê Thánh Tông. trong “Lê Thánh Tông- về tác gia và tác phẩm”. Nxb Giáo dục. Hà Nội. tr293]
7. Chữ dùng của Nguyễn Tuấn Thịnh [2007. Văn sách đình đối thời Lê Thánh Tông với một số vấn đề thiết yếu về trị nước an dân. trong “Lê Thánh Tông- về tác gia và tác phẩm”. Nxb Giáo dục. Hà Nội. tr.303]
8. Các bài văn sách trích dẫn được dịch theo bản Lịch triều đình đối sách văn, ký hiệu: VHv.355/1-4-6, thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Bản dịch theo Nguyễn Tuấn Thịnh, bdd.
9. Theo thống kê của Mai Xuân Hải là 497 tiến sĩ.
10. Bùi Duy Tân. 2007. Lê Thánh Tông- vị hoàng đế anh minh, nhà văn hóa lỗi lạc, một văn hào dân tộc. Trong “Lê Thánh Tông- về tác gia và tác phẩm”. Nxb Giáo dục. Hà Nội. tr.31. Các số liệu thống kê của tác giả dựa vào những ghi chép trong Các nhà khoa bảng Việt Nam do Ngô Đức Thọ, Nguyễn Hữu Mùi biên soạn, Nxb. Văn hóa. Hà Nội.1993.
Con số 45 trạng nguyên là gồm cả Trại Trạng nguyên thời Trần các khoa thi năm 1256 và 1266. Và không kể Lê Quảng Chí (khoa 1478), chỉ mỗ ghi Phan Huy Chú ghi là Trạng nguyên còn các tài liệu khác đều ghi là Bảng nhãn. [chua theo Bùi Duy Tân. 2007. bdd. Chú (1) tr.31].
---------------------------------- 




Biểu hiện đóng góp nhất của Lê Thánh Tông đối với văn hiến Đại Việt chính là việc biên soạn bộ luật Hồng Đức, bộ luật kiện toàn và đồ sộ nhất ở thời điểm đó. Bên cạnh đó, Lê Thánh Tông cũng là vị hoàng đế đầu tiên đưa ra quy định về việc soạn thảo hương ước cho làng xã.


Thiết định pháp độ
Lễ nhạc vốn là một cặp đôi khái niệm trong học thuyết của Nho gia. Lễ là nghi lễ trong cúng tế (tế trời, tế xã tắc, tế tổ tông,...), nhạc là nhạc lễ tương ứng với các quy chế cụ thể về mặt âm luật, nội dung, tương ứng với từng lễ. Lễ là hình thức của đức nhân hay nói cách khác lễ là mặt điển chế hóa của một nền chính trị dùng đức. Nhạc là biểu hiện của sự trị bình xã hội, tức cái sở biểu của sự hòa bình thịnh trị. Sau, lễ nhạc dùng để trỏ chung cho luật lệ, pháp độ, thể chế chính trị, theo ngôn ngữ hiện nay là các định chế pháp lý. Chế lễ tác nhạc được coi như là hành vi kiến tạo văn hiến. Kiến tạo văn hiến có hai yêu cầu căn bản, đó là có đức và có ngôi vị (chính danh). Sách Lễ ký viết: “雖有其位茍無其徳不敢作禮樂焉雖有其徳苟無其位亦不敢作禮樂焉注言作禮樂者必聖人在天子之位”1 nghĩa là "tuy có ngôi vị mà không có đức thì không dám đặt lễ nhạc. Tuy có đức mà không có ngôi vị thì cũng không dám đặt lễ nhạc. Chú: người đặt lễ nhạc là bậc thánh nhân ở ngôi thiên tử vậy.” Cho nên, “về nguyên tắc, chỉ hoàng đế- thiên tử mới có quyền đặt định lễ nhạc, chế độ, triều nghi, quan duyệt phong tục, quyết đoán những vấn đề lãnh thổ, về quan hệ đối ngoại và phát động chiến tranh.”
Nếu quy chiếu từ quan điểm văn hiến của Nho giáo, thì Lê Thánh Tông là người gây dựng được truyền thống lập pháp, hành pháp và tư pháp một cách quy củ và bài bản trong lịch sử. Hệ thống lễ nhạc (luật pháp) của ông là một thực thể kết hợp giữa đức trị Nho gia và pháp trị của Pháp gia. Hoàng đế là người “thay trời hành đạo” thông qua việc thiết lập pháp độ, quy định hành vi của mọi thành phần cá thể, cũng như mọi loại hình nhân cách (nhân luân) trong xã hội, đặc biệt là với chính cá nhân mình. Năm 1464, khi cách chức Binh bộ Tả thị lang của Nguyễn Đình Mỹ do tội tham tang, Lê Thánh Tông có lời dụ cho bách quan như sau: “pháp luật là phép công của nhà nước, ta cùng các ngươi phải tuân theo”3. Hoàng đế, trong chế độ quân chủ tập quyền, là người cao nhất trong hệ thống hành chính, nắm giữ quyền cất nhắc, bổ nhiệm, trừng phạt, bãi miễn các vị trí trong hệ thống của mình. Chỉ trong năm 1467, vua đích thân xử tội ba trăm hai mươi ba người, xử mười lăm quan lại phạm luật. Trong số ba mươi vụ quan là can phạm thì có bốn thượng thư hai đô đốc, có kẻ còn chịu mức tử hình4. Hoàng đế cũng là vị thẩm phán tối cao có quyền quyết định sau cùng về tất cả các vụ việc. Hoàng đế cũng là vị giáo chủ độc tôn, có quyền “tế trời, tế xã tắc.” Các thần thánh trong lãnh thổ đều chịu sự quản lý của bộ Lễ (bộ máy quản lý trực thuộc hoàng đế)5. Cơ quan “quản giám bách thần” này thay vua quyết định các việc phong thần, cấp sắc, phong trật, hay bãi truất dâm thần6.
Biểu hiện đóng góp nhất của Lê Thánh Tông đối với văn hiến Đại Việt chính là việc biên soạn bộ luật Hồng Đức. Đây là bộ luật kiện toàn và đồ sộ nhất ở thời điểm đó, đề cập đến nhiều góc cạnh liên quan đến chính thể (thiện vị, đăng quang, thụ phong, định chế lập Thái tử,...); tổ chức công quyền (thủ tục biện sự của các Bộ, Sở, Nha, Viện; định chế về chế độ đình nghị; các thể lệ bầu cử, cất nhắc, biếm trích, bãi miễn,...); chế tài liên quan đến thuế khóa, tài sản (quân điền, công điền, thuế đinh, thuế điền,...); vấn đề binh bị quốc phòng (thể lệ tuyển mộ, giải ngũ, tập trận, chinh phạt...);  các vấn đề xã hội (bảo trợ xã hội: cấp chẩn, cứu tế thiên tai, mất mùa, dịch bệnh...); các thể chế liên quan đến vấn đề giáo dục khoa cử (định chế thi cử, ứng thí; việc tổ chức hương thí, hội thí, đình thí,...); định chế tín ngưỡng và tôn giáo (nghi thức quốc tế: Nam giao, Xã tắc, Thế miếu, Thái miếu; thể lệ sắc phong bách thần, bãi bỏ tà thần,...); thiết chế tài sản (trộm cắp, biển thủ, phản quốc,...); thiết chế tư pháp- đạo đức (như hôn thú, hương hỏa, thừa kế, kết khế,...).
Bộ luật này tiếp thu một cách có chọn lọc những tư tưởng pháp lý của triều Minh7, và quan trọng nhất, Lê Thánh Tông đã có những thay đổi và bổ sung hợp lý với đặc điểm văn hóa, tâm lý dân tộc, đã “phản chiếu một cách trung thực tình trạng đặc biệt của nước ta vào khoảng các thế kỷ thứ XV, XVI, XVII.”8
Sự lan tỏa văn hiến (một biểu hiện khác của giáo hóa) thời Lê Thánh Tông còn biểu hiện ở việc chuyển di luật Hồng Đức đến thiết chế cộng đồng dân tộc Thái. Tộc người này đương thời đã có những tiếp thu khá triệt để bộ luật của triều đình để biên soạn ra bộ luật Thái Mai Châu bằng tiếng Thái cổ: “dưới Trần có năm mươi chỗ mường Kinh, năm mươi nơi mường Thái. Vì bảo ban không được, dạy dỗ không nghe, vua Hồng Đức mới ban luật ban lệ xuống các mường Kinh… Từ đó đến nay, từ khi vua Hồng Đức đã định ra lệ luật, nếu việc quan không biết xử thì cứ chiểu theo các điều trong luật, trong lệ này mà xét.”9 Bộ luật Thái Mai Châu có thể coi là một bước tiến mới trong việc thể chế hóa, Nho giáo hóa xã hội người Thái. Không những thế, khi áp dụng luật Hồng Đức vào một cộng đồng cư dân miền núi, thì luật pháp đã có những biến đổi cho phù hợp với văn hóa bản địa. Điều này khiến cho tính cố kết lãnh thổ về mặt phương diện quản lý hành chính được vững chắc hơn, khiến cho các dân tộc trong cùng một lãnh thổ quốc gia có chung một nền văn hiến phổ quát nhưng đồng thời cũng giữ được những nét dị biệt về văn hóa của từng dân tộc. Đây là một trong những bước tiến đột phá, đi trước thời đại, bởi trong suốt lịch sử từ xưa cho đến nay, đây vẫn là lần duy nhất song hành hai hệ thống luật vừa thống nhất và vừa khu biệt như vậy.
Hình thức văn chương mới ở dân tộc miền núi là văn chương luật pháp. “Về phương diện văn học, đây là một cống hiến lớn của Lê Thánh Tông hay của sự giao lưu văn hóa xuôi ngược đời Lê sơ.”10 Lần đầu tiên trong lịch sử, chúng ta có được một diện mạo về văn tự và ngôn ngữ của một tộc người sống trên lãnh thổ đại Việt. Văn tự, ngôn ngữ và văn chương tiếng Thái ở thế kỷ XV- XVI là kết quả của quá trình bản địa hóa các tri thức Nho học của trí thức Thái. Một hướng mới trong nghiên cứu được mở ra cho các ngành văn tự học cổ truyền các dân tộc Việt Nam. Thay thế cho lối tư duy lưỡng phân chữ Hán- chữ Nôm trong chính sách ngôn ngữ văn tự Đại Việt là thế tam phân Hán- Nôm - Sanscrit, hay tứ phân Hán- Nôm - Sanscrit- Thái, và thực tế có thể còn nhiều hơn nữa. Điều này hết sức có ý nghĩa đối ngành ngữ văn học cổ điển của một quốc gia có nhiều dân tộc mà trước nay (thế kỷ XXI) vẫn chỉ coi lịch sử văn hóa của người Kinh là lịch sử văn hóa của đất nước.

Thiết định phong tục
Trong số 714 đầu sách phong tục (hiện còn) ghi  chép về hương ước, phong tục của khoảng 3200 xã thôn của các tỉnh Bắc bộ11, không còn văn bản hương ước nào của thời  Hồng Đức. Tuy nhiên, trong kho văn khắc hiện còn văn bản duy nhất mang tên Trăn Tân từ lệ 溱 津 祠 例 của xã Phúc Thọ (Lương Tài, Bắc Ninh) niên hiệu Hồng Đức thứ 18 (1487). Việc trên văn bia thế kỷ XV ghi các phẩm trật của thần đã khẳng định các triều vua từ triều Hồng Đức trở lên đã có chế độ sắc phong ban phẩm trật cho các vị thần. các làng xã thuộc hai huyện Thiện Tài và Gia Định mới đặt ra những qui định về lệ tế thần, những qui định này khá cụ thể và chi tiết12. Ta biết trước đó, còn có một cuốn tư ước13 của xã Tri Lễ (Kỳ Anh, Nghệ An) lập năm Bình Định thứ 3 (1420) đời Lê Thái Tổ. Bản này quy định cho toàn quan viên dân chúng trong xã phải biết sống theo lễ nước14. Có thể coi, đây là hai văn bản ghi chép về phong tục sớm nhất trong lịch sử.
Tục lệ xã Đam Khê (Ninh Bình) ghi: “muốn trị nước trước hết phải tề gia, còn trong thôn muốn yên lành phải giữ lấy tục lệ có từ thời Hồng Đức lưu truyền đến nay”15. Bài tựa trong hương ước làng Mộ Trạch (Hải Dương) ghi: “nhà nước giữ đạo trị bình ắt phải nêu rõ kỷ cương, xóm làng giữ tục thuần hậu cần phải làm rõ quy ước, theo khuôn mẫu một điều mà lập ra các điều.”16 Sách Đại Phùng tổng khoán ước 大馮總券約 (A.2875) soạn năm Chính Hòa 5 (1684) nhắc lại một số khoán ước có từ đời Hồng Đức 6 (1475)17.
Lê Thánh Tông là vị hoàng đế đầu tiên đưa ra quy định về việc soạn thảo hương ước cho làng xã. Năm Quang Thuận thứ năm (1464), ông xuống đạo dụ để thế chế hóa phong tục của các cấp địa phương. Trong đó, ông đề cao những thiết chế văn hóa Nho giáo vào đời sống dân tục, đó là những vấn đề của luân lý học để ước thúc các mối quan hệ xã hội, biến cái học “tề gia” trở thành một phương pháp “trị quốc, bình thiên hạ”, biến việc “tu thân” trở thành việc chính trị xã hội.
Những tư liệu trên cho thấy, hệ thống pháp luật thời Hồng Đức là điều kiện tiên quyết cho việc hình thành hương ước, và phong tục tập quán trong dân gian từ đời Lê sơ đến đời Lê Trung Hưng. Bởi lẽ, luật thời này chi tiết,  áp dụng khá nhiều và trực tiếp cho dân tục. Luật nhà nước là khuôn khổ cơ bản để trí thức làng xã dựa vào đó để lập ra hương ước riêng cho mình. Thực tế, hương ước là hệ thống luật tục được cộng đồng thống nhất trên cơ sở cho phép của pháp luật. Ở khía cạnh khác, các phong tục trong hương ước là những cụ thể hóa của hệ thống luật pháp của triều đình. Các văn bản hương ước cổ cho ta một hình dung khá cụ thể về nhiều khía cạnh văn hóa làng xã thời xưa như lễ khao vọng, tế tự, hội làng, lễ Phật, gia phong, các hội tư văn, làng nghề sản xuất... Có thể nói, bộ luật Hồng Đức đã có những ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa làng xã từ thế kỷ XV trở về sau. Diện mạo và bản sắc văn hóa làng Việt có được, ấy là nhờ công nghiệp lớn lao của nhiều thế hệ nhà Nho, trong đó đứng đầu và có ảnh hưởng nhất là Lê Thánh Tông, vị hoàng đế chế lễ tác nhạc- thiết định phong tục tập quán cổ truyền cho văn hiến Đại Việt18. Khảo sát những ảnh hưởng cụ thể của luật Hồng Đức đối với phong tục Đại Việt xưa và Việt Nam ngày nay còn là vấn đề bỏ ngỏ chờ những nghiên cứu chuyên sâu và quy mô hơn.
 
Kết luận: Hoàng đế Lê Thánh Tông, ở một tầm tư duy chiến lược lâu dài, đã chuẩn bị hành trang để toàn bộ xã hội văn hóa Đại Việt phát triển và lan tỏa với nhiều biên độ và tầng bậc khác nhau ở hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống trong ba bốn trăm năm sau đó. Giang sơn nhất thống, phiên thuộc trị bình, cương giới mở rộng rõ ràng, lịch sử nối dài chính thống. Các ngành khoa học, nghệ thuật, tôn giáo, ngoại giao19, quân sự, pháp chế,…đều được chuẩn bị một cách bài bản với một tầm tri thức về triết học thực dụng của một nhà Nho hành đạo. Từ bối cảnh tri thức Nho giáo, Lê Thánh Tông là người có nhiều đóng góp nhất, cho việc xây dựng đất nước với các thao tác kiến tạo văn hiến như đã nói ở trên. Thế nhưng đến nay, việc sưu tầm, dịch thuật, công bố toàn bộ các tác phẩm triết học, văn học của Lê Thánh Tông còn bỏ ngỏ. Vì thế, nghiên cứu này không tránh khỏi những chủ quan do phiến diện về tư liệu gốc.

---

1.  禮記注疏, q.53
2. Trần Ngọc Vương. Văn học Việt Nam- dòng riêng giữa nguồn chung. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 1999. tr.58
3. Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb KHXH. Hà Nội. 1985. Tập 2. tr.405.
4. Bùi Xuân Đính. 2007. Vua Lê Thánh Tông và Pháp luật. Trong “Lê Thánh Tông- về…”. Nxb.Giáo Dục. Hà Nội. tr.174.
5. Xem thêm Vũ Quốc Thông. 1973. Pháp chế sử Việt Nam.(Cử nhân luật khoa năm thứ nhất). Tủ sách Đại học Sài Gòn. tr.51-52.
6. Dâm thần (từ cổ): trỏ các thần không chính đáng theo quan điểm của Nho gia, chứ không phải là các thần...dâm.
7. “Tuy nhiên, nhà làm luật thời Hồng Đức cũng không chấp nhận toàn thể sự quy định phức tạp của luật nhà Minh, mà sau này luật nhà Thanh cũng như luật Gia Long chép lại nguyên văn. Trong sự quy định của Trung Quốc có tới bảy bản đồ, trong luật Hồng Đức, ta chỉ thấy có hai bản đồ” [xem Vũ Văn Mẫu. 1975. Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử. Q1. Sài gòn. tr.2. Chuyển dẫn theo Đoàn Văn Chúc. 2004. Văn hóa học. Nxb. Lao động. Hà Nội. tr.241.]
8. Vũ Quốc Thông. 1973. sdd. tr.21.
9. Xem Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên).1977.  Tư liệu lịch sử và xã hội dân tộc Thái. Nxb KHXH. Hà Nội. [chuyển dẫn theo Đặng Nghiêm Vạn.2007. Lê Thánh Tông và bộ luật Thái Mai Châu. Trong “Lê Thánh Tông- về…”. Nxb.Giáo Dục. Hà Nội. tr.176.
10. Đặng Nghiêm Vạn. 200. sdd. Tr.179.
11. Xem Trần Nghĩa (chủ biên). 2002.Di sản hán Nôm Việt Nam - thư mục đề yếu (Bổ di, quyển tục lệ). Nxb.KHXH. Hà Nội.
12. Phạm Thùy Vinh. 2004. Bia Trăn tân từ lệ và lệ tế thần dưới thời Hồng Đức. Tc Hán Nôm, số  2/2004, 33-37.
13. Tư ước: khoán ước mang tính luật tục của làng xã, phân biệt với pháp luật của triều đình ban hành (gọi là công ước).
14. Trần Thanh Tâm. 1963. Một số tài liệu bằng chữ viết vừa mới tìm được về mấy cuộc khởi nghĩa ở miền núi Nghệ Tĩnh. Tc Nc Lịch sử. số 5/1963. tr.58-61.
15. Chuyển dẫn theo Đinh Khắc Thuân (tuyển chọn, khảo cứu, hiệu đính). 2006. Tục lệ cổ truyền làng xã Việt Nam. Nxb KHXH. Hà Nội. tr.18.
16. Chuyển dẫn theo Đinh Khắc Thuân. 2006. sdd. tr.19-20.
17. Shimao Minoru. 2002. Sử liệu có liên quan đến việc tái biên hương ước ở Bắc bộ Việt Nam thời Lê. (Nguyễn Thị Oanh dịch). Tc Hán Nôm, số 02/2002. tr.12-22.
18. Tuy nhiên, vấn đề phong tục Đại Việt thế kỷ XV ra sao, cụ thể có những nét gì đặc biệt, cấu trúc và sự vận động của các phong tục đó trong tương quan với pháp luật thời Hồng Đức cũng như tư tưởng Nho giáo ra sao theo chiều đồng- lịch đại, bài viết tạm chưa đề cập đến. Ở đây chỉ nêu vấn đề để tương lai tiếp tục nghiên cứu.
19. Xem thêm Tạ Ngọc Liễn. 2007. Lê Thánh Tông trong chính sách đối ngoại và bảo vệ lãnh thổ Đại Việt. Theo “Hoàng đế Lê Thánh Tông- nhà chính trị tài năng…”.sdd. tr.152-162

0 comments:

Post a Comment

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | LunarPages Coupon Code