Tuy Bộ
luật tố tụng hình sự không nếu khái niệm thế nào là người bào chữa,
nhưng căn cứ vào quy định tại các Điều 56, 57 và 58 Bộ luật tố tụng
hình sự thì, người bào chữa là người được người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ, những người khác được người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo uỷ quyền mời hay được cơ quan tiến hành
tố tụng yêu cầu Đoàn Luật sư phân công Văn phòng luật sư cử hoặc đề
nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt
trận cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, nhằm làm
sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ họ về mặt pháp lý.
So với Bộ
luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định về người bào chữa thì Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2003 có nhiều sửa đổi, bổ sung nhằm bảo đảm việc
xét xử dân chủ, khách quan, công bằng hơn theo tinh thần Nghị quyết
số 08-NQ/TW, ngày 02-1-2002 của Bộ Chính trị.
Theo quy
định tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự thì, người bào chữa
có thể là: Luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân. Hiện nay, do trình độ dân trí
và ý thức pháp luật của nhân dân ta còn nhiều mặt hạn chế nên khi
nói đến người bào chữa là người ta chỉ nghĩ tới Luật sư còn những
người khác không phải là Luật sư thì không được coi là người bào
chữa. Trong qua trình soạn thảo Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 cũng có ý kiến đề nghị chỉ quy định Luật sư
mới là người bào chữa, còn những người khác nếu bào chữa thì quyền
và nghĩa vụ của họ như đối với Luật sư, nhưng ý kiến này không được
chấp nhận vì Luật sư là khái niệm nghề nghiệp, còn người bào chữa là
khái niệm tố tụng. Tuy nhiên, khi nói đến người bào chữa, người ta
thường nghĩ đến Luật sư, vì Luật sư là nhân vật trung tâm về hoạt
động bào chữa.
Luật sư
là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của
Luật luật sư, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng.
Công dân
Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật,
có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề
luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo
đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư. Muốn được hành
nghề luật sư phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một
Đoàn luật sư.
Người đại
diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
là bố mẹ đẻ, bố mẹ nuôi, người đỡ đầu, anh, chị em
ruột và những người theo quy định của pháp luật đối với bị can bị
cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc
tinh thần. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo nếu không bào chữa cho bị cáo thì họ cũng có những quyền như
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, họ tham gia tố tụng với tư cách là
người đại diện hợp pháp, nếu họ tham gia tố tụng với tư cách là
người bào chữa thì họ có quyền và nghĩa vụ như đối với người bào
chữa. Thực tiễn xét xử cho thấy, việc xác định người đại diện hợp
pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không khó nhưng lại khó ở
chỗ: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người đã thành niên không
có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần mà người thân thích của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tuy không phải là Luật sư, bào chữa
viên nhân dân nhưng lại yêu cầu được bào chữa cho người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo vì họ là người có trình độ pháp lý, đã từng hoạt động
trong các cơ quan pháp luật nay nghỉ hưu. Vậy những người này có
được bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hay không ? Về
vấn đề này, tuy còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng thực tiễn xét xử
Toà án đã công nhận và cấp giấy chứng nhận cho họ để họ thực hiện
việc bào chữa cho bị cáo.
Người đại
diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhất thiết phải
là người đã thành niên; không bị tâm thần; có quốc tịch Việt Nam và
cư trú tại Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác đối
với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người có quốc tịch nước
ngoài, người không có quốc tịch hoặc là người Việt Nam ở nước ngoài.
Bào chữa
viên nhân dân
là người được tổ chức, đoàn thể xã hội cử ra để bào chữa cho bị cáo.
Hiện nay chưa có quy định cụ thể về bào chữa viên nhân dân và trong
thực tế hoạt động của bào chữa viên nhân dân cũng không được tổ chức
thành một hệ thống, điều kiện để trở thành bào chữa viên nhân dân
cũng không được quy định, trong khi đó trong xã hội có nhiều người
có trình độ pháp lý có hiểu biết về công việc bào chữa nhưng họ chưa
được kết nạp vào đoàn Luật sư và họ lại được bị can, bị cáo nhờ bào
chữa. Ví dụ: ông Nguyễn Văn A cán bộ của Viện khoa học Y, đã tốt
nghiệp đại học Luật. Trong quá trình công tác, ông A đã bào chữa cho
một số bị cáo và bảo vệ quyền lợi của một số đương sự trong vụ án
dân sự; ông A tự xưng mình là “Bào chữa viên nhân dân”; mỗi lần đến
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án để liên hệ xin cấp chứng
nhận là người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền lợi của đương sự, ông
A đều xin giấy giới thiệu của Viện khoa học Y với chức danh là “Bào
chữa viên nhân dân”; một số cơ quan tiến hành tố tụng đã cấp giấy
chứng nhận bào chữa cho ông A, ông A lại sử dụng giấy chứng nhận này
để đến cơ quan tiến hành tố tụng khác liên hệ xin cấp giấy chứng
nhận bào chữa. Với cách này, ông A đã bào chữa cho nhiều bị cáo và
bảo vệ quyền lợi cho nhiều đương sự.
Vẫn đề đặt
ra là, việc cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận bào chữa
cho ông A có đúng không ? Như trên chúng tôi đã nêu, khái niệm “bào
chữa viên nhân dân” có từ trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm
1988 và tồn tại cho đến nay, nhưng rất tiếc chưa có văn bản pháp
luật nào quy định người như thế nào thì được coi là bào chữa viên
nhân dân, các cơ quan tiến hành tố tụng ở trung ương cũng chưa có
hướng dẫn nên mỗi nơi thực hiện khác nhau. Tuy nhiên, căn cứ vào
hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao tại Nghị
quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02-10-2004 về quy định tại khoản 2
Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự thì một người được coi là bào chữa
viên nhân dân khi người đó được Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ
chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ
chức mình. Như vậy, trường hợp của ông A tự xưng là “bào chữa viên
nhân” và Cơ quan của ông A cấp giấy giới thiệu cho ông A và cơ quan
tiến hành tố tụng cũng cấp giấy chứng nhận bào chữa cho ông A là
không đúng với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Theo quy
định tại khoản 2 Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành thì những
người không được bào chữa là người đã tiến hành tố tụng trong vụ án
đó hoặc là người thân thích của những người đã
hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó; đã tham gia tố tụng
trong vụ án với tư cách là người làm chứng, người giám định hoặc
người phiên dịch.
Một người
có thể bào chữa cho nhiều người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong
cùng một vụ án, nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau. Ví
dụ: Trần Văn M có thù tức với Đặng Quang Ph, M đã rủ Đỗ Xuân Đ phục
đánh Ph, khi gặp Ph, M rọi đèn pin để Đ dùng côn vụt nhiều cái vào
đầu Ph làm Ph bị trọng thương có tỷ lệ thương tật là 65%. M và Đ đều
bị truy tố theo khoản 3 Điều 109 Bộ luật hình sự và đều nhờ Luật sư
Phan Trung H, đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho hai bị
cáo. Trong trường hợp này, quyền và lợi ích của các bị cáo M và Đ
không đối lập nhau. Thực tiễn xét xử cho thấy, việc xác định quyền
và lợi ích của các bị cáo có đối lập nhau hay không trong nhiều
trường hợp không phải dễ dàng, khi mà các bị cáo có mối quan hệ thân
thiết như cha mẹ với con cái, vợ đối với chồng, anh chị em đối với
nhau nhưng quyền và lợi ích của họ vẫn đối lập nhau. Ví dụ: Phan Anh
T là giám đốc Hải quan thành phố đã cùng với vợ là Trần Thu H nhiều
lần nhận hối lộ của cán bộ dưới quyền và những người khác; Trong quá
trình điều tra, Trần Thu H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của
mình và chồng, nhưng Phan Anh T lại không thừa nhận và bác bỏ lời
khai của vợ tại Cơ quan điều tra. Khi vụ án được đưa ra xét xử, cả
Phan Anh T và Trần Thu H đều nhờ Luật sư Th bào chữa. Toà án đã giải
thích cho Luật sư Th biết quyền và lợi ích của hai bị cáo T và H là
đối lập nhau nên không thể cấp giấy chứng nhận cho Luật sư bào chữa
cho cả hai bị cáo được. Vì vậy khi xác định quyền và lợi ích của các
bị cáo có đối lập nhau hay không cần phải căn cứ vào nhiều tình tiết
của vụ án mà điều quan trọng nhất là đặt ra những giả thiết, nếu gỡ
tội cho người này thì có buộc tội cho người khác không ? hoặc nếu
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo này thì có làm tặng nặng
trách nhiệm hình sự đối với bị cáo khác mà mình cùng bào chữa hay
không ?
Nhiều
người có thể cùng bào chữa cho một bị can bị cáo. Ví dụ: trong vụ án
Trịnh Vĩnh B bị truy tố về tội “Vi phạm các quy định về quản lý và
bảo vệ đất đai” và tội “đưa hối lộ” có tới 6 Luật sư đăng ký bào
chữa cho bị cáo, trong đó có 4 Luật sư có mặt tại phiên toà. Việc
nhiều Luật sư cùng bào chữa cho một bị can, bị cáo nói chung không
có gì vướng mắc trong thực tiễn xét xử. Tuy nhiên có một số trường
hợp trong cùng một vụ án có nhiều bị cáo, trong đó có bị cáo có
nhiều Luật sư cùng bào chữa, nhưng Luật sư bào chữa cho bị cáo này
lại bào chữa thêm cho bị cáo khác thì cần phải xác định xem quyền và
lợi ích của các bị cáo có đối lập nhau không ? Ví dụ: Trong vụ án có
các bị cáo A,B,C. Hai Luật sư là H và T bào chữa chi bị cáo A, riêng
Luật sư T còn bào chữa cho bị cáo C, trong khi đó quyền và lợi ích
của bị cáo A đối lập với bị cáo C thì Luật sư T không được bào
chữa cho một trong hai bị cáo mà chỉ có thể
chọn một A hoặc C.
Theo quy
định tại khoản 2 Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự thì người đã tiến
hành tố tụng trong vụ án đó hoặc là người thân thích của những người
đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó; đã tham gia tố tụng
trong vụ án với tư cách là người làm chứng, người giám định hoặc
người phiên dịch sẽ không được bào chữa cho người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo trong vụ án đó. Như vậy, những người tham gia tố tụng
khác trong cùng một vụ án như: người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vẫn có
thể là người bào chữa cho bị can bị cáo trong vụ án đó. Điều này là
không phù hợp, giả thiết người bị hại trong vụ án lại là người bào
chữa cho bị cáo là điều không thể chấp nhận được. Bộ luật tố tụng
hình sự cần quy định theo hướng: Người tham gia tố tụng trong cùng
một vụ án không được bào chữa cho bị cáo, chứ không chỉ là người đã
tiến hành tố tụng trong vụ án đó hoặc là người thân thích của những
người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ
án đó; đã tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là người làm
chứng, người giám định hoặc người phiên dịch. Người không có năng
lực hành vi cũng không được là người bào chữa. Hy vọng rằng, khi Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 được sửa đổi, bổ sung các nhà làm luật
quan tâm đến vấn đề này hơn.
Theo quy
định tại khoản 4 Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự thì trong thời hạn
ba ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo
giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Toà án phải xem xét, cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa để
họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải
nêu rõ lý do. Đối với trường hợp tạm giữ người thì trong thời hạn 24
giờ, kể từ khi nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ
liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan điều tra phải xem xét, cấp giấy
chứng nhận cho người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ
chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lý do. So với Bộ luật tố
tụng hình sự năm 1988 thì đây là quy định mới tạo điều kiện để người
bào chữa thực hiện việc bào chữa mà trước đây họ thường bị cơ quan
tiến hành tố tụng gây khó khăn; quy định còn đòi hỏi cơ quan tiến
hành tố tụng phải nêu cao trách nhiệm, thực hiện đúng quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự.
Như vậy,
việc cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa là bắt buộc đối với cơ
quan tiến hành tố tụng và giấy chứng nhận này phải được lưu trong hồ
sơ vụ án như một tài liệu chính thức để Toà án cấp trên kiểm tra Toà
án cấp dưới. Thực tiễn xét xử cho thấy, hầu hết các Toà án không lưu
giấy chứng nhận Luật sư trong hồ sơ vụ án nên cũng khó có thể kiểm
tra phát hiện những vị phạm thủ tục tố tụng của cơ quan tiến hành tố
tụng về người bào chữa cho bị can, bị cáo. Trường hợp một người đã
tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa từ giai đoạn điều tra
và Cơ quan điều tra đã cấp giấy chứng nhận bào chữa cho họ, thì sang
giai đoạn truy tố, xét xử Viện kiểm sát và Toà án có cần phải làm
thủ tục cấp lại giấy chứng nhận bào chữa cho họ nữa không ? Đây cũng
là vấn đề vướng mắc, có nơi cơ quan tiến hành tố tụng bắt người bào
chữa phải làm lại thủ tục cấp lại giấy chứng nhận bào chữa, có nơi
không bắt làm lại thủ tục và cũng không cần cấp lại giấy chứng nhận
vẫn cho họ tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa. Quan điểm
của các Luật sư thì cho rằng, từ giai đoạn điều tra Luật sư đã làm
các thủ tục để được cấp giấy chứng nhận bào chữa cho bị cáo thì ở
giai đoạn truy tố và xét xử cũng vẫn Luật sư đó bào chữa cho bị cáo
thì không cần phải làm thủ tục để cấp lại giấy chứng nhận bào chữa
nữa; quan điểm của Viện kiểm sát và Toà án, chủ yếu là Toà án thì
cho rằng, người bào chữa ở mỗi giai đoạn tố tụng có quyền và nhiệm
vụ khác nhau, nếu không làm thủ tục để cấp lại giấy chứng nhận bào
chữa thì không bảo đảm, nếu Luật sư lại là người theo quy định của
pháp luật không được bào chữa cho bị cáo thì sao. Mặt khác việc cấp
lại giấy chứng nhận ào chữa còn thể hiện trách nhiệm của từng cơ
quan tiến hành tố tụng đối với người bào chữa. Chúng tôi cho rằng, ý
kiến của Luật sư và của Toà án hoặc Viện kiểm sát đều có nhân tố hợp
lý. Bộ luật tố tụng hình sự không quy định vấn đề này, các cơ quan
tiến hành tố tụng ở trung ương cũng chưa hướng dẫn, nhưng theo chúng
tôi việc cấp giấy chứng nhận bào chữa phải bảo đảm sao cho đúng pháp
luật và không gây khó khăn cho người bào chữa. Do đó, chúng tôi đề
nghị: Nếu người bào chữa đã tham gia tố tụng từ giai đoạn điều tra;
khi hồ sơ vụ án chuyển sang giai đoạn khác (truy tố hoặc xét xử),
người bào chữa cần chủ động liên hệ với bị can, bị cáo để họ khẳng
định lại là vẫn nhờ mình tiếp tục bào chữa cho họ; sau đó đến liên
hệ với Viện kiểm sát (nếu hồ sơ vụ án ở giai đoạn truy tố) hoặc Toà
án (nếu hồ sơ vụ án ở giai đoạn xét xử ); Viện kiểm sát hoặc Toà án
chỉ cần kiểm tra lại nếu người bào chữa không thuộc trường hợp phải
thay đổi thì cấp giấy chứng nhận bào chữa, mà không cần phải làm lại
thủ tục như trường hợp cấp giấy chứng nhận người bào chữa lần đầu.
Để người
bào chữa thực hiện chức năng làm sáng tổ những tình tiết gỡ tội hoặc
làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cạn, bị cáo và giúp đỡ bị
can, bị cáo về mặt pháp lý, so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
thì Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định quyền và nghĩa vụ của
người bào chữa đầy đủ và cụ thể hơn.
Về quyền,
theo quy định tại khoản 1 và 2 Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự, thì
Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường
hợp cần phải giữ bị mật điều tra đối với tội đặc biệt nguy hiểm xâm
phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để
người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết tục điều tra. Trong
trường hợp bắt người khẩn cấp và bắt người phạm tội quả tang hoặc
đang bị truy nã thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết
định tạm giữ. Để thực hiện được quy định này, một mặt cơ quan tiến
hành tố tụng phải tạo điều kiện thuận lợi để Luật sư tham gia, mặt
khác đối với người bào chữa, nhất là đối với người bào chữa là Luật
sư cần bố trí thời gian và thực hiện đúng các yêu cầu, thông báo của
cơ quan tiến hành tố tụng.
Người bào
chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi
cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm
giữ, bị can và có mặt trong các hoạt động điều tra khác; xem các
biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết
định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; đề nghị Cơ quan
điều tra báo trước về thời gian địa điểm hỏi cung bị can để có mặt
khi hỏi cung bị can; đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch; thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết
liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá
nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không
thuộc bí mật Nhà nước, bí mật công tác; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu
cầu; gặp người bị tạm giữ, gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam; đọc,
ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến
việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra; tham gia hỏi và tranh luận
tại phiên toà; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, kháng cáo bản án hoặc quyết
định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có
nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Thực tiễn
điều tra, truy tố và xét xử cho thấy, các cơ quan tiến hành tố tụng
đã tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi để người bào chữa thực hiện
các quyền của mình. Tuy nhiên trong một số trường hợp, nhất là đối
với Cơ quan điều tra đã nêu những lý do để từ chối không cho người
bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, thậm chí vụ án đã
có kết luận điều tra, không thuộc trường hợp phải giữ bí mật điều
tra đối với tội đặc biệt xâm phạm an ninh quốc gia nhưng vẫn không
cho người bào chữa tham gia; Rất ít trường hợp Cơ quan điều tra đồng
ý để người bào chữa có mặt khi hỏi cung bị can; ở giai đoạn xét xử,
một số Toà án không cho người bào chữa photocopy các tài liệu có
trong hồ sơ vì lấy lý do Bộ luật tố tụng hình sự chỉ cho phép ghi
chép chứ không cho photocopy. Những tồn tại này, Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 đã sửa đổi, bổ sung tương đối cụ thể về quyền của
người bào chữa và nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng. Các cơ
quan tiến hành tố tụng cần nghiêm chỉnh chấp hành những quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự và tạo điều kiện để người bào chữa thực hiện
đầy đủ quyền của họ khi họ tham gia tố tụng. Đây cũng là một trong
những điều kiện để nâng cao trình độ nghiệp vụ của người tiến hành
tố tụng vì có người bào chữa tham gia và bảo đảm cho họ thực hiện
đầy đủ quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự cũng tức là
buộc người tiến hành tố tụng phải cẩn thận hơn, thực hiện đúng hơn
các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về hoạt động điều tra,
tránh được những hậu quả đáng tiếc như một số trường hợp đã xảy ra
dẫn đến việc cán bộ điều tra phải bị thay đổi, thậm chí bị kỷ luật
vì vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra. Bảo đảm cho người bào
chữa thực hiện quyền của họ cũng tức là bảo đảm cho bị can, bị cáo
thực hiện quyền bào chữa (quyền nhờ người khác bào chữa).
Theo Điều
19 Bộ luật tố tụng hình sự thì tại phiên toà, người bào chữa còn có
quyền bình đẳng với kiếm sát viên trong việc đưa ra chứng cứ, tài
liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận trước Toà án. Toà án có
trách nhiệm tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện các quyền đó
nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Đây không chỉ là một quyền
của người bào chữa mà còn là nguyên tắc cơ bản trong luật tố tụng,
nhưng trên thực tế nguyên tắc này chưa được
thực hiện một cách đầy đủ với đúng nghĩa của nó, biểu hiện của việc
vi phạm nguyên tắc này theo các xu hướng trái ngược nhau. Có trường
hợp tại phiên toà, Kiểm sát viên không tôn trọng người bào chữa, như
nhận xét thái độ của Luật sư, nhắc nhở Luật sư khi Luật sư đặt những
câu hỏi đối với người tham gia tố tụng, thậm chí dùng những lời lẽ
có tính chất thoá mạ, quát nạt khi không đưa ra được những chứng cứ
sắc bén để bác bỏ luận điểm của người bào chữa. Ngược lại, cũng
không ít trường hợp người bào chữa (mà chủ yếu là Luật sư) đã không
hiểu được nội dung cửa quyền bình đẳng với Kiểm sát viên trước Toà
án nên đã có những yêu cầu trái với quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự, như đòi ngồi ở vị trí như Kiểm sát viên, đòi bình đẳng với
Kiểm sát viên trong tất cả những những hoạt động tố tụng, trong khi
trình bày lời bào chữa của mình đã không đưa ra những chứng cứ gỡ
tội cho bị cáo hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo mà lại
nhận xét thái độ, tác phong của Kiểm sát viên.v.v...
Về nghĩa
vụ,
theo quy định tại khoản 3 Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự thì người
bào chữa có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật
quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác
định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo. Tuỳ theo mối giai đoạn tố tụng,
khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan
đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Toà án. Việc giao nhận tài liệu, đồ vật giữa
người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản;
giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ; không được từ chối bào chữa cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu
không có lý do chính đáng; tôn trọng sự thật và pháp luật; không
được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi dục người khác khai báo gian dối,
cung cấp tài liệu sai sự thật; có mặt theo giấy triệu tập của Toà
án; không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực
hiện việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao
chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm
lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức
và cá nhân. Người bào chữa làm trái pháp luật thì tuỳ theo tính
chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa,
xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình
sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp
luật.
So với Bộ
luật tố tụng hình sự năm 1988 thì Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
quy định thêm một số quyền, đồng thời quy định thêm một số nghĩa vụ
đối với người bào chữa. Thực tiễn hoạt động bào chữa của người bào
chữa cho thấy, các quy định trên của Bộ luật tố tụng hình sự được
người bào chữa thực hiện đúng sẽ góp phần cùng với cơ quan tiến hành
tố tụng xác định sự thật vụ án, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tuy nhiên, cũng còn không ít
trường hợp, do không hiểu thấu đáo quyền và nghĩa vụ mà pháp luật
quy định, nên người bào chữa đã không thực hiện đúng quyền và nghĩa
vụ của mình khi làm nhiệm vụ bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo. Có Luật sư khi bào chữa đã không làm sáng tỏ những tình tiết
gỡ tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho bị can, bị cáo mà lại buộc tội
bị can, bị cáo. Ngược lại có Luật sư đã sử dụng mọi biện pháp, kể cả
những biện pháp mà pháp luật cấm để biện bạch, cố tình đổi
trắng thành đen vì những khoản thù lao mà thân chủ trả rất hậu. Có
Luật sư “xui” bị cáo giả vờ ốm để trì hoãn phiên toà, có Luật sư vừa
mới khai mạc phiên toà, không cần xin phép chủ toạ phiên toà đã lớn
tiếng tuyên bố: “Toà án đưa vụ án ra xét xử là vi phạm nghiêm trọng
pháp luật”; có Luật sư lợi dụng mối quan hệ với Toà án để tác động
nhằm làm giảm trách nhiệm cho bị cáo do mình bào chữa mà không sử
dụng các biện pháp để làm sáng tỏ những tình tiết xác định bị can,
bị cáo vô tội hoặc giảm trách nhiệm cho bị can, bị cáo; có Luật sư
cố tình không có mặt tại phiên toà hoặc nêu ra những lý do không
chính đáng để xin hoãn phiên toà như: vì phải bào chữa ở vụ án khác
không về kịp hoặc vì chưa có thời gian nghiên cứu hồ sơ v.v... Mặc
dù pháp luật đã quy định người bào chữa không được tiết lộ bí mật mà
mình biết được khi làm nhiệm vụ nếu tiết lộ bí mật điều tra thì tuỳ
trường hợp phải chịu trách nhiệm theo các Điều 263, 264, 286, 287,
327, 328 Bộ luật hình sự , nhưng có nhiều trường hợp những bí mật
nhà nước, bí mật điều tra, bí mật công tác và cả bí mật về đời tư mà
người tham gia tố tụng yêu cầu giữ kín vẫn bị người bào chữa tiết
lộ, thậm chí dùng nó để gỡ tội cho bị can, bị cáo mà mình nhận bào
chữa. Ví dụ: Trong vụ án Phan Anh T và đồng bọn bị đưa ra xét xử tại
thành phố Hồ Chí Minh, một Luật sư bào chữa cho bị cáo đã đặt ra câu
hỏi: “Vì sao mà Cơ quan điều tra lại biết HeRi Long Tài chuyển
1.600.000 USD ra khỏi Việt Nam mà phục bắt quả tang”, rõ ràng câu
hỏi này của Luật sư đã vi phạm điều cấm và bị chủ toạ phiên toà yêu
cầu bị cáo không phải trả lời câu hỏi này của Luật sư, vì nếu để bị
cáo trả lời thì cũng tức là bí mật điều tra sẽ bị tiết lộ.
Người bào
chữa là do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp
pháp của họ lựa chọn, nhưng trong những trường hợp bị can, bị cáo bị
khởi tố, truy tố hoặc bị đưa ra xét xử về tội mà khung hình phạt đối
với tội ấy là tử hình hoặc bị can, bị cáo là người chưa thành niên,
người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, thì
tuỳ thuộc vào giai đoạn tố tụng mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát hoặc Toà án phải yêu cầu Đoàn Luật sư phân công Văn phòng luật
sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho
thành viên của tổ chức mình. Việc phân công Văn phòng luật sư cử
người bào chữa cho bị cáo và việc Văn phòng luật sư cử người bào
chữa cho bị cáo là nghĩa vụ của Đoàn luật sư và của Văn phòng luật
sư. Quy định này là nhằm bảo đảm quyền được bào chữa của bị
can, bị cáo trong những trường hợp mà họ không có khả năng tự bào
chữa được. Nếu đã cử mà bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp
của họ vẫn từ chối hoặc yêu cầu thay đổi người bào chữa thì cơ quan
tiến hành tố tụng phải chấp nhận yêu cầu của họ.
Thực tiễn
xét xử có một số Toà án đã hiểu không đúng quy định này, nên trong
một số trường hợp lúng túng trong việc yêu cầu Đoàn Luật sư phân
công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho bị cáo. Ví dụ: Trong vụ
án Trương Văn Cam, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu
Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh phân cử người bào chữa cho bị cáo
Trương Văn Cam, nhưng Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh không phân
công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho bị cáo, mà trực tiếp cử
Luật sư không thuộc Văn phòng luật sư nào mà chỉ là thành viên của
Công ty hợp danh, nên Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh không
chấp nhận để Luật sư này bào chữa cho Năm Cam.
Về phía Toà án cũng có trường hợp lẽ ra không cần phải yêu cầu Đoàn
Luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho bị cáo,
nhưng vẫn yêu cầu. Ví dụ: Bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi (chưa
thành niên) nhưng khi đưa vụ án ra xét xử họ đã hơn 18 tuổi (đã
thành niên), bị cáo không mời người bào chữa và không thuộc trường
hợp khác quy định tại khoản 2 Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự,
nhưng Toà án vẫn yêu cầu Đoàn Luật sư phân công Văn phòng luật sư cử
người bào chữa cho bị cáo vì sợ vi phạm Điều 57 Bộ luật tố tụng hình
sự.
Việc cử
người bào chữa cho bị cáo tại phiên toà nói chung được thực hiện
nghiêm túc, nhưng việc cử người bào chữa cho bị can trong giai đoạn
điều tra chưa được quan tâm đúng mức, có nhiều trường hợp Cơ quan
điều tra hoặc Viện kiểm sát không yêu cầu Đoàn Luật sư phân công Văn
phòng luật sư cử người bào chữa cho bị can ở giai đoạn điều tra, có
trường hợp Luật sư đăng ký bào chữa cho bị can, nhưng hơn ba tháng
vẫn chưa được Cơ quan điều tra cấp giấy chứng nhận để họ thực hiện
nhiệm vụ. Chúng tôi cho rằng, việc người bào chữa tham gia tố tụng
ngay từ khi khởi tố bị can đối với bị can là người chưa thành niên,
người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất phải là điều bắt buộc
và mọi hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra phải có sự có mặt của
người bào chữa.
Với những
quy định mới về người bào chữa trong Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 và việc chấp hành đúng các quy định này sẽ góp phần làm cho
việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, bảo đảm dân
chủ, công bằng hơn. Tuy nhiên, để các quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 được thực hiện các cơ quan có thẩm quyền cần ban
hành các văn bản giải thích hướng dẫn cụ thể từng quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 về chế định người bào chữa.
|
0 comments:
Post a Comment