Thursday, August 15, 2013

Một số vấn đề về người bào chữa trong Luật tố tụng Hình sự 2003

Tuy Bộ luật tố tụng hình sự không nếu khái niệm thế nào là người bào chữa, nhưng căn cứ vào quy định tại các Điều 56, 57 và 58 Bộ luật tố tụng hình sự thì, người bào chữa là người được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ, những người khác được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo uỷ quyền mời hay được cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn Luật sư phân công Văn phòng luật sư cử hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, nhằm làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ họ về mặt pháp lý.
So với Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định về người bào chữa thì Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có nhiều sửa đổi, bổ sung nhằm bảo đảm việc xét xử dân chủ, khách quan, công bằng hơn theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 02-1-2002 của Bộ Chính trị.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự thì, người bào chữa có thể là: Luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân. Hiện nay, do trình độ dân trí và ý thức pháp luật của nhân dân ta còn nhiều mặt hạn chế nên khi nói đến người bào chữa là người ta chỉ nghĩ tới Luật sư còn những người khác không phải là Luật sư thì không được coi là người bào chữa. Trong qua trình soạn thảo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 cũng có ý kiến đề nghị chỉ quy định Luật sư mới là người bào chữa, còn những người khác nếu bào chữa thì quyền và nghĩa vụ của họ như đối với Luật sư, nhưng ý kiến này không được chấp nhận vì Luật sư là khái niệm nghề nghiệp, còn người bào chữa là khái niệm tố tụng. Tuy nhiên, khi nói đến người bào chữa, người ta thường nghĩ đến Luật sư, vì Luật sư là nhân vật trung tâm về hoạt động bào chữa.
Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật luật sư, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng.
Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư. Muốn được hành nghề luật sư phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư.
Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là bố mẹ đẻ, bố mẹ nuôi, người đỡ đầu, anh, chị em ruột và những người theo quy định của pháp luật đối với bị can bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không bào chữa cho bị cáo thì họ cũng có những quyền như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp, nếu họ tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa thì họ có quyền và nghĩa vụ như đối với người bào chữa. Thực tiễn xét xử cho thấy, việc xác định người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không khó nhưng lại khó ở chỗ: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người đã thành niên không có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần mà người thân thích của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tuy không phải là Luật sư, bào chữa viên nhân dân nhưng lại yêu cầu được bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vì họ là người có trình độ pháp lý, đã từng hoạt động trong các cơ quan pháp luật nay nghỉ hưu. Vậy những người này có được bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hay không ? Về vấn đề này, tuy còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng thực tiễn xét xử Toà án đã công nhận và cấp giấy chứng nhận cho họ để họ thực hiện việc bào chữa cho bị cáo.
Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhất thiết phải là người đã thành niên; không bị tâm thần; có quốc tịch Việt Nam và cư trú tại Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người có quốc tịch nước ngoài, người không có quốc tịch hoặc là người Việt Nam ở nước ngoài.
Bào chữa viên nhân dân là người được tổ chức, đoàn thể xã hội cử ra để bào chữa cho bị cáo. Hiện nay chưa có quy định cụ thể về bào chữa viên nhân dân và trong thực tế hoạt động của bào chữa viên nhân dân cũng không được tổ chức thành một hệ thống, điều kiện để trở thành bào chữa viên nhân dân cũng không được quy định, trong khi đó trong xã hội có nhiều người có trình độ pháp lý có hiểu biết về công việc bào chữa nhưng họ chưa được kết nạp vào đoàn Luật sư và họ lại được bị can, bị cáo nhờ bào chữa. Ví dụ: ông Nguyễn Văn A cán bộ của Viện khoa học Y, đã tốt nghiệp đại học Luật. Trong quá trình công tác, ông A đã bào chữa cho một số bị cáo và bảo vệ quyền lợi của một số đương sự trong vụ án dân sự; ông A tự xưng mình là “Bào chữa viên nhân dân”; mỗi lần đến Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án để liên hệ xin cấp chứng nhận là người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền lợi của đương sự, ông A đều xin giấy giới thiệu của Viện khoa học Y với chức danh là “Bào chữa viên nhân dân”; một số cơ quan tiến hành tố tụng đã cấp giấy chứng nhận bào chữa cho ông A, ông A lại sử dụng giấy chứng nhận này để đến cơ quan tiến hành tố tụng khác liên hệ xin cấp giấy chứng nhận bào chữa. Với cách này, ông A đã bào chữa cho nhiều bị cáo và bảo vệ quyền lợi cho nhiều đương sự.
Vẫn đề đặt ra là, việc cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận bào chữa cho ông A có đúng không ? Như trên chúng tôi đã nêu, khái niệm “bào chữa viên nhân dân” có từ trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và tồn tại cho đến nay, nhưng rất tiếc chưa có văn bản pháp luật nào quy định người như thế nào thì được coi là bào chữa viên nhân dân, các cơ quan tiến hành tố tụng ở trung ương cũng chưa có hướng dẫn nên mỗi nơi thực hiện khác nhau. Tuy nhiên, căn cứ vào hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao tại Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02-10-2004 về quy định tại khoản 2 Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự thì một người được coi là bào chữa viên nhân dân khi người đó được Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình. Như vậy, trường hợp của ông A tự xưng là “bào chữa viên nhân” và Cơ quan của ông A cấp giấy giới thiệu cho ông A và cơ quan tiến hành tố tụng cũng cấp giấy chứng nhận bào chữa cho ông A là không đúng với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành thì những người không được bào chữa là người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó hoặc là người thân thích của những người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó; đã tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là người làm chứng, người giám định hoặc người phiên dịch.
Một người có thể bào chữa cho nhiều người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong cùng một vụ án, nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau. Ví dụ: Trần Văn M có thù tức với Đặng Quang Ph, M đã rủ Đỗ Xuân Đ phục đánh Ph, khi gặp Ph, M rọi đèn pin để Đ dùng côn vụt nhiều cái vào đầu Ph làm Ph bị trọng thương có tỷ lệ thương tật là 65%. M và Đ đều bị truy tố theo khoản 3 Điều 109 Bộ luật hình sự và đều nhờ Luật sư Phan Trung H, đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho hai bị cáo. Trong trường hợp này, quyền và lợi ích của các bị cáo M và Đ không đối lập nhau. Thực tiễn xét xử cho thấy, việc xác định quyền và lợi ích của các bị cáo có đối lập nhau hay không trong nhiều trường hợp không phải dễ dàng, khi mà các bị cáo có mối quan hệ thân thiết như cha mẹ với con cái, vợ đối với chồng, anh chị em đối với nhau nhưng quyền và lợi ích của họ vẫn đối lập nhau. Ví dụ: Phan Anh T là giám đốc Hải quan thành phố đã cùng với vợ là Trần Thu H nhiều lần nhận hối lộ của cán bộ dưới quyền và những người khác; Trong quá trình điều tra, Trần Thu H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và chồng, nhưng Phan Anh T lại không thừa nhận và bác bỏ lời khai của vợ tại Cơ quan điều tra. Khi vụ án được đưa ra xét xử, cả Phan Anh T và Trần Thu H đều nhờ Luật sư Th bào chữa. Toà án đã giải thích cho Luật sư Th biết quyền và lợi ích của hai bị cáo T và H là đối lập nhau nên không thể cấp giấy chứng nhận cho Luật sư bào chữa cho cả hai bị cáo được. Vì vậy khi xác định quyền và lợi ích của các bị cáo có đối lập nhau hay không cần phải căn cứ vào nhiều tình tiết của vụ án mà điều quan trọng nhất là đặt ra những giả thiết, nếu gỡ tội cho người này thì có buộc tội cho người khác không ? hoặc nếu giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo này thì có làm tặng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo khác mà mình cùng bào chữa hay không ?
Nhiều người có thể cùng bào chữa cho một bị can bị cáo. Ví dụ: trong vụ án Trịnh Vĩnh B bị truy tố về tội “Vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai” và tội “đưa hối lộ” có tới 6 Luật sư đăng ký bào chữa cho bị cáo, trong đó có 4 Luật sư có mặt tại phiên toà. Việc nhiều Luật sư cùng bào chữa cho một bị can, bị cáo nói chung không có gì vướng mắc trong thực tiễn xét xử. Tuy nhiên có một số trường hợp trong cùng một vụ án có nhiều bị cáo, trong đó có bị cáo có nhiều Luật sư cùng bào chữa, nhưng Luật sư bào chữa cho bị cáo này lại bào chữa thêm cho bị cáo khác thì cần phải xác định xem quyền và lợi ích của các bị cáo có đối lập nhau không ? Ví dụ: Trong vụ án có các bị cáo A,B,C. Hai Luật sư là H và T bào chữa chi bị cáo A, riêng Luật sư T còn bào chữa cho bị cáo C, trong khi đó quyền và lợi ích của bị cáo A đối lập với bị cáo C thì Luật sư T không được bào chữa cho một trong hai bị cáo mà chỉ có thể chọn một A hoặc C.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự thì người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó hoặc là người thân thích của những người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó; đã tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là người làm chứng, người giám định hoặc người phiên dịch sẽ không được bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong vụ án đó. Như vậy, những người tham gia tố tụng khác trong cùng một vụ án như: người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vẫn có thể là người bào chữa cho bị can bị cáo trong vụ án đó. Điều này là không phù hợp, giả thiết người bị hại trong vụ án lại là người bào chữa cho bị cáo là điều không thể chấp nhận được. Bộ luật tố tụng hình sự cần quy định theo hướng: Người tham gia tố tụng trong cùng một vụ án không được bào chữa cho bị cáo, chứ không chỉ là người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó hoặc là người thân thích của những người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó; đã tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là người làm chứng, người giám định hoặc người phiên dịch. Người không có năng lực hành vi cũng không được là người bào chữa. Hy vọng rằng, khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 được sửa đổi, bổ sung các nhà làm luật quan tâm đến vấn đề này hơn.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự thì trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải xem xét, cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lý do. Đối với trường hợp tạm giữ người thì trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan điều tra phải xem xét, cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lý do. So với Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 thì đây là quy định mới tạo điều kiện để người bào chữa thực hiện việc bào chữa mà trước đây họ thường bị cơ quan tiến hành tố tụng gây khó khăn; quy định còn đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng phải nêu cao trách nhiệm, thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Như vậy, việc cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa là bắt buộc đối với cơ quan tiến hành tố tụng và giấy chứng nhận này phải được lưu trong hồ sơ vụ án như một tài liệu chính thức để Toà án cấp trên kiểm tra Toà án cấp dưới. Thực tiễn xét xử cho thấy, hầu hết các Toà án không lưu giấy chứng nhận Luật sư trong hồ sơ vụ án nên cũng khó có thể kiểm tra phát hiện những vị phạm thủ tục tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng về người bào chữa cho bị can, bị cáo. Trường hợp một người đã tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa từ giai đoạn điều tra và Cơ quan điều tra đã cấp giấy chứng nhận bào chữa cho họ, thì sang giai đoạn truy tố, xét xử Viện kiểm sát và Toà án có cần phải làm thủ tục cấp lại giấy chứng nhận bào chữa cho họ nữa không ? Đây cũng là vấn đề vướng mắc, có nơi cơ quan tiến hành tố tụng bắt người bào chữa phải làm lại thủ tục cấp lại giấy chứng nhận bào chữa, có nơi không bắt làm lại thủ tục và cũng không cần cấp lại giấy chứng nhận vẫn cho họ tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa. Quan điểm của các Luật sư thì cho rằng, từ giai đoạn điều tra Luật sư đã làm các thủ tục để được cấp giấy chứng nhận bào chữa cho bị cáo thì ở giai đoạn truy tố và xét xử cũng vẫn Luật sư đó bào chữa cho bị cáo thì không cần phải làm thủ tục để cấp lại giấy chứng nhận bào chữa nữa; quan điểm của Viện kiểm sát và Toà án, chủ yếu là Toà án thì cho rằng, người bào chữa ở mỗi giai đoạn tố tụng có quyền và nhiệm vụ khác nhau, nếu không làm thủ tục để cấp lại giấy chứng nhận bào chữa thì không bảo đảm, nếu Luật sư lại là người theo quy định của pháp luật không được bào chữa cho bị cáo thì sao. Mặt khác việc cấp lại giấy chứng nhận ào chữa còn thể hiện trách nhiệm của từng cơ quan tiến hành tố tụng đối với người bào chữa. Chúng tôi cho rằng, ý kiến của Luật sư và của Toà án hoặc Viện kiểm sát đều có nhân tố hợp lý. Bộ luật tố tụng hình sự không quy định vấn đề này, các cơ quan tiến hành tố tụng ở trung ương cũng chưa hướng dẫn, nhưng theo chúng tôi việc cấp giấy chứng nhận bào chữa phải bảo đảm sao cho đúng pháp luật và không gây khó khăn cho người bào chữa. Do đó, chúng tôi đề nghị: Nếu người bào chữa đã tham gia tố tụng từ giai đoạn điều tra; khi hồ sơ vụ án chuyển sang giai đoạn khác (truy tố hoặc xét xử), người bào chữa cần chủ động liên hệ với bị can, bị cáo để họ khẳng định lại là vẫn nhờ mình tiếp tục bào chữa cho họ; sau đó đến liên hệ với Viện kiểm sát (nếu hồ sơ vụ án ở giai đoạn truy tố) hoặc Toà án (nếu hồ sơ vụ án ở giai đoạn xét xử ); Viện kiểm sát hoặc Toà án chỉ cần kiểm tra lại nếu người bào chữa không thuộc trường hợp phải thay đổi thì cấp giấy chứng nhận bào chữa, mà không cần phải làm lại thủ tục như trường hợp cấp giấy chứng nhận người bào chữa lần đầu.
Để người bào chữa thực hiện chức năng làm sáng tổ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cạn, bị cáo và giúp đỡ bị can, bị cáo về mặt pháp lý, so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 thì Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định quyền và nghĩa vụ của người bào chữa đầy đủ và cụ thể hơn.
Về quyền, theo quy định tại khoản 1 và 2 Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự, thì Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp cần phải giữ bị mật điều tra đối với tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết tục điều tra. Trong trường hợp bắt người khẩn cấp và bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Để thực hiện được quy định này, một mặt cơ quan tiến hành tố tụng phải tạo điều kiện thuận lợi để Luật sư tham gia, mặt khác đối với người bào chữa, nhất là đối với người bào chữa là Luật sư cần bố trí thời gian và thực hiện đúng các yêu cầu, thông báo của cơ quan tiến hành tố tụng.
Người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong các hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can; đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch; thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật Nhà nước, bí mật công tác; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; gặp người bị tạm giữ, gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam; đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra; tham gia hỏi và tranh luận tại phiên toà; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, kháng cáo bản án hoặc quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử cho thấy, các cơ quan tiến hành tố tụng đã tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi để người bào chữa thực hiện các quyền của mình. Tuy nhiên trong một số trường hợp, nhất là đối với Cơ quan điều tra đã nêu những lý do để từ chối không cho người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, thậm chí vụ án đã có kết luận điều tra, không thuộc trường hợp phải giữ bí mật điều tra đối với tội đặc biệt xâm phạm an ninh quốc gia nhưng vẫn không cho người bào chữa tham gia; Rất ít trường hợp Cơ quan điều tra đồng ý để người bào chữa có mặt khi hỏi cung bị can; ở giai đoạn xét xử, một số Toà án không cho người bào chữa photocopy các tài liệu có trong hồ sơ vì lấy lý do Bộ luật tố tụng hình sự chỉ cho phép ghi chép chứ không cho photocopy. Những tồn tại này, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã sửa đổi, bổ sung tương đối cụ thể về quyền của người bào chữa và nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng. Các cơ quan tiến hành tố tụng cần nghiêm chỉnh chấp hành những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và tạo điều kiện để người bào chữa thực hiện đầy đủ quyền của họ khi họ tham gia tố tụng. Đây cũng là một trong những điều kiện để nâng cao trình độ nghiệp vụ của người tiến hành tố tụng vì có người bào chữa tham gia và bảo đảm cho họ thực hiện đầy đủ quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự cũng tức là buộc người tiến hành tố tụng phải cẩn thận hơn, thực hiện đúng hơn các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về hoạt động điều tra, tránh được những hậu quả đáng tiếc như một số trường hợp đã xảy ra dẫn đến việc cán bộ điều tra phải bị thay đổi, thậm chí bị kỷ luật vì vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra. Bảo đảm cho người bào chữa thực hiện quyền của họ cũng tức là bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa (quyền nhờ người khác bào chữa).
Theo Điều 19 Bộ luật tố tụng hình sự thì tại phiên toà, người bào chữa còn có quyền bình đẳng với kiếm sát viên trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận trước Toà án. Toà án có trách nhiệm tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Đây không chỉ là một quyền của người bào chữa mà còn là nguyên tắc cơ bản trong luật tố tụng, nhưng trên thực tế nguyên tắc này chưa được thực hiện một cách đầy đủ với đúng nghĩa của nó, biểu hiện của việc vi phạm nguyên tắc này theo các xu hướng trái ngược nhau. Có trường hợp tại phiên toà, Kiểm sát viên không tôn trọng người bào chữa, như nhận xét thái độ của Luật sư, nhắc nhở Luật sư khi Luật sư đặt những câu hỏi đối với người tham gia tố tụng, thậm chí dùng những lời lẽ có tính chất thoá mạ, quát nạt khi không đưa ra được những chứng cứ sắc bén để bác bỏ luận điểm của người bào chữa. Ngược lại, cũng không ít trường hợp người bào chữa (mà chủ yếu là Luật sư) đã không hiểu được nội dung cửa quyền bình đẳng với Kiểm sát viên trước Toà án nên đã có những yêu cầu trái với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, như đòi ngồi ở vị trí như Kiểm sát viên, đòi bình đẳng với Kiểm sát viên trong tất cả những những hoạt động tố tụng, trong khi trình bày lời bào chữa của mình đã không đưa ra những chứng cứ gỡ tội cho bị cáo hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo mà lại nhận xét thái độ, tác phong của Kiểm sát viên.v.v...
Về nghĩa vụ, theo quy định tại khoản 3 Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự thì người bào chữa có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo. Tuỳ theo mối giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Việc giao nhận tài liệu, đồ vật giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản; giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ; không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng; tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi dục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; có mặt theo giấy triệu tập của Toà án; không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Người bào chữa làm trái pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
So với Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 thì Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định thêm một số quyền, đồng thời quy định thêm một số nghĩa vụ đối với người bào chữa. Thực tiễn hoạt động bào chữa của người bào chữa cho thấy, các quy định trên của Bộ luật tố tụng hình sự được người bào chữa thực hiện đúng sẽ góp phần cùng với cơ quan tiến hành tố tụng xác định sự thật vụ án, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tuy nhiên, cũng còn không ít trường hợp, do không hiểu thấu đáo quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định, nên người bào chữa đã không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình khi làm nhiệm vụ bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Có Luật sư khi bào chữa đã không làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho bị can, bị cáo mà lại buộc tội bị can, bị cáo. Ngược lại có Luật sư đã sử dụng mọi biện pháp, kể cả những biện pháp mà  pháp luật cấm để biện bạch, cố tình đổi trắng thành đen vì những khoản thù lao mà thân chủ trả rất hậu. Có Luật sư “xui” bị cáo giả vờ ốm để trì hoãn phiên toà, có Luật sư vừa mới khai mạc phiên toà, không cần xin phép chủ toạ phiên toà đã lớn tiếng tuyên bố: “Toà án đưa vụ án ra xét xử là vi phạm nghiêm trọng pháp luật”; có Luật sư lợi dụng mối quan hệ với Toà án để tác động nhằm làm giảm trách nhiệm cho bị cáo do mình bào chữa mà không sử dụng các biện pháp để làm sáng tỏ những tình tiết xác định bị can, bị cáo vô tội hoặc giảm trách nhiệm cho bị can, bị cáo; có Luật sư cố tình không có mặt tại phiên toà hoặc nêu ra những lý do không chính đáng để xin hoãn phiên toà như: vì phải bào chữa ở vụ án khác không về kịp hoặc vì chưa có thời gian nghiên cứu hồ sơ v.v... Mặc dù pháp luật đã quy định người bào chữa không được tiết lộ bí mật mà mình biết được khi làm nhiệm vụ nếu tiết lộ bí mật điều tra thì tuỳ trường hợp phải chịu trách nhiệm theo các Điều 263, 264, 286, 287, 327, 328 Bộ luật hình sự , nhưng có nhiều trường hợp những bí mật nhà nước, bí mật điều tra, bí mật công tác và cả bí mật về đời tư mà người tham gia tố tụng yêu cầu giữ kín vẫn bị người bào chữa tiết lộ, thậm chí dùng nó để gỡ tội cho bị can, bị cáo mà mình nhận bào chữa. Ví dụ: Trong vụ án Phan Anh T và đồng bọn bị đưa ra xét xử tại thành phố Hồ Chí Minh, một Luật sư bào chữa cho bị cáo đã đặt ra câu hỏi: “Vì sao mà Cơ quan điều tra lại biết HeRi Long Tài chuyển 1.600.000 USD ra khỏi Việt Nam mà phục bắt quả tang”, rõ ràng câu hỏi này của Luật sư đã vi phạm điều cấm và bị chủ toạ phiên toà yêu cầu bị cáo không phải trả lời câu hỏi này của Luật sư, vì nếu để bị cáo trả lời thì cũng tức là bí mật điều tra sẽ bị tiết lộ.
Người bào chữa là do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ lựa chọn, nhưng trong những trường hợp bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố hoặc bị đưa ra xét xử về tội mà khung hình phạt đối với tội ấy là tử hình hoặc bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, thì tuỳ thuộc vào giai đoạn tố tụng mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án phải yêu cầu Đoàn Luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình. Việc phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho bị cáo và việc Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho bị cáo là nghĩa vụ của Đoàn luật sư và của Văn phòng luật sư.  Quy định này là nhằm bảo đảm quyền được bào chữa của bị can, bị cáo trong những trường hợp mà họ không có khả năng tự bào chữa được. Nếu đã cử mà bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ vẫn từ chối hoặc yêu cầu thay đổi người bào chữa thì cơ quan tiến hành tố tụng phải chấp nhận yêu cầu của họ.
Thực tiễn xét xử có một số Toà án đã hiểu không đúng quy định này, nên trong một số trường hợp lúng túng trong việc yêu cầu Đoàn Luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho bị cáo. Ví dụ: Trong vụ án Trương Văn Cam, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh phân cử người bào chữa cho bị cáo Trương Văn Cam, nhưng Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh không phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho bị cáo, mà trực tiếp cử Luật sư không thuộc Văn phòng luật sư nào mà chỉ là thành viên của Công ty hợp danh, nên Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh không chấp nhận để Luật sư này bào chữa cho Năm Cam. Về phía Toà án cũng có trường hợp lẽ ra không cần phải yêu cầu Đoàn Luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho bị cáo, nhưng vẫn yêu cầu. Ví dụ: Bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi (chưa thành niên) nhưng khi đưa vụ án ra xét xử họ đã hơn 18 tuổi (đã thành niên), bị cáo không mời người bào chữa và không thuộc trường hợp khác quy định tại khoản 2 Điều 57  Bộ luật tố tụng hình sự, nhưng Toà án vẫn yêu cầu Đoàn Luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho bị cáo vì sợ vi phạm Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự.
Việc cử người bào chữa cho bị cáo tại phiên toà nói chung được thực hiện nghiêm túc, nhưng việc cử người bào chữa cho bị can trong giai đoạn điều tra chưa được quan tâm đúng mức, có nhiều trường hợp Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát không yêu cầu Đoàn Luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho bị can ở giai đoạn điều tra, có trường hợp Luật sư đăng ký bào chữa cho bị can, nhưng hơn ba tháng vẫn chưa được Cơ quan điều tra cấp giấy chứng nhận để họ thực hiện nhiệm vụ. Chúng tôi cho rằng, việc người bào chữa tham gia tố tụng ngay từ khi khởi tố bị can đối với bị can là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất phải là điều bắt buộc và mọi hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra phải có sự có mặt của người bào chữa.
Với những quy định mới về người bào chữa trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và việc chấp hành đúng các quy định này sẽ góp phần làm cho việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, bảo đảm dân chủ, công bằng hơn. Tuy nhiên, để các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 được thực hiện các cơ quan có thẩm quyền cần ban hành các văn bản giải thích hướng dẫn cụ thể từng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về chế định người bào chữa.
Nguồn: Thạc sỹ: Đinh Văn Quế

0 comments:

Post a Comment

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | LunarPages Coupon Code