Trần Ngọc Liêu, Phó Chủ nhiệm khoa Khoa học quản lý, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Trong bài viết này, tác giả đã xuất phát từ góc độ triết học để phân
tích nhằm góp phần làm rõ thêm khái niệm “nhà nước pháp quyền" trên một
số khía cạnh cơ bản: định nghĩa khái niệm, nội dung và bản chất của nhà
nước pháp quyền. Theo tác giả, nhà nước pháp quyền là một trình độ phát
triển tất yếu đạt tới của nhà nước.
"Nhà nước pháp quyền tư bản
chủ nghĩa" là hình thức chưa thể hiện hết nội dung của nhà nước pháp
quyền, còn "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” là nhà nước đã thể
hiện hết nội dung của nhà nước pháp quyền, là nhà nước pháp quyền theo ý
nghĩa đầy đủ nhất. Trên cơ sở đó, tác giả xác định một sô nội dung chủ
yếu cần được thực hiện nhằm xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thực tiễn trong nước và thế giới thời
gian qua đã chứng minh vai trò to lớn của lý luận đối với sự tồn tại và
phát triển của mỗi quốc gia dân tộc. Việc nhận thức một cách sâu sắc bản
chất của các quá trình xã hội, các quan hệ xã hội có ý nghĩa quan trọng
trong việc đưa ra các quyết sách chính trị. Việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay cần phải được tiến hành trên
cơ sở một khung lý luận vững chắc, có vai trò giá đỡ cho tư duy khi giải
quyết các nhiệm vụ cụ thể liên quan. Nội dung then chốt nhất trong đó
chính là phải làm rõ "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" là
gì? Muốn vậy, trước hết cần xác định rõ nội hàm của khái niệm nhà nước
pháp quyền".
Vận dụng các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lê nin về nhà nước, trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân, theo định hướng nhận thức của Đảng ta về
vấn đề Nhà nước pháp quyền Việt Nam và kế thừa thành quả của các nhà
khoa học Việt Nam, chúng tôi mạnh dạn phát biểu một định nghĩa về khái
niệm "nhà nước pháp quyền" như sau:
Nhà nước pháp quyền là khái
niệm dùng để chỉ xã hội tổ chức theo cách quyền lực của nhân dân được
thể chế hóa thành pháp luật và được đảm bảo thực thi bâng bộ máy nhà
nước cũng như các thiết chế chính trị - xã hội khác nhằm mang lại quyền
lợi cho nhân dân.
Trước hết, chúng tôi cho rằng, "nhà nước pháp
quyền" tồn tại với tính cách một khái niệm. Điều đó có nghĩa là, "nhà
nước pháp quyền" tồn tại trong tư duy, là sản phẩm của tư duy. Nó không
đồng nhất với một mô hình nhà nước hiện tồn, có tính trực quan, mà là sự
phản ánh một trình độ tất yếu đạt tới của quyền lực nhân dân trong xã
hội được tổ chức thành nhà nước. Nói cách khác, đó là sự phản ánh một
trình độ tất yếu đạt tới của bộ máy nhà nước. Nội dung của nó là khách
quan, là bản chất của nhà nước ở một giai đoạn trong quá trình tự phát
triển, được khái quát từ sự vận động và phát triển của các nhà nước hiện
tồn, song tuyệt nhiên không đồng nhất với bất cứ một nhà nước hiện tồn
nào.
Đây là một quan niệm có tính phương pháp luận trong nghiên
cứu nhà nước pháp quyền được rút ra từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê
nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước. Cũng giống như "vật chất" là
một phạm trù triết học, chỉ tồn tại trong tư duy và là sản phẩm của tư
duy thuần tuý (Ph.Ăngghen), "nhà nước pháp quyền" được định nghĩa như
trên là một phạm trù của triết học duy vật biện chứng về lịch sử. Nhà
nước pháp quyền là một trạng thái mà sự phát triển của nhà nước nhất
định sẽ đạt tới, bất kể ý thức của con người có nhận thức dược hay
không. Vì thế, nó có tính khách quan và phổ biến. Tuy nhiên, với mỗi dân
tộc, con đường, cách thức đi tới nhà nước pháp quyền và nội dung của
nhà nước pháp quyền lại mang những dấu ấn riêng của dân tộc ấy. Vì thế,
hình thức tồn tại hiện thực của nhà nước pháp quyền rất phong phú, đa
dạng và cũng rất phức tạp. Không thể biến mô hình nhà nước ở một quốc
gia dân tộc này thành cái chung, giá trị chung, làm chuẩn mực đánh giá,
phán xét mô hình nhà nước của một quốc gia dân tộc khác có phải nhà nước
pháp quyền hay không, càng không thể từ sự quy chụp như thế để đánh giá
quốc gia dân tộc ấy có phải là một quốc gia dân tộc văn minh, phát
triển hay không.
Việc đánh giá một mô hình nhà nước cụ thể
không thể căn cứ vào những dấu hiệu, những biểu hiện bề ngoài, tức là
không thể căn cứ vào hiện tượng, mà phải căn cứ vào thực chất, vào bản
chất của nó. Chúng tôi cho rằng, những căn cứ mà lâu nay người ta dựa
vào để đánh giá tính chất pháp quyền của một nhà nước, như "sự thống trị
của pháp luật trong đời sống xã hội", "quan hệ giữa các cơ quan lập
pháp - hành pháp - tư pháp là quan hệ quyền lực ràng buộc và hạn chế
quyền lực", đều là những biểu hiện bề ngoài, hoặc là của quan hệ giữa
nhà nước và pháp luật, hoặc là của quyền lực nhà nước và cơ chế tổ chức
quyền lực nhà nước. Thực chất của vấn đề là ở chỗ, nhà nước và pháp luật
có thể hiện được trình độ phát triển của quyền lực nhân dân hay không,
hay nói cách khác, chỉ có quyền lực của nhân dân lao động được luật hoá
và đảm bảo thực thi có hiệu quả bằng các thiết chế chính trị - xã hội
nhằm mang lại quyền lợi cho nhân dân mới làm nên tính chất pháp quyền
của nhà nước.
Điều quan trọng không phải là hình thức pháp
quyền, tức pháp luật thống trị nhà nước và xã hội, mà là nội dung pháp
quyền, tức pháp luật ấy có phải là quyền lực của nhân dân lao động được
"đề lên" thành luật hay không. Pháp luật chí là ý chí của một cá nhân
(chế độ quân chủ) hay của một thiểu số trong xã hội (ví dụ như pháp luật
tư sản) thì chưa thể đạt tới trình độ pháp quyền theo nghĩa đầy đủ
nhất. Như vậy, nếu đồng nhất nhà nước pháp quyền với mô hình nhà nước
hiện thực cụ thể, nhất là một mô hình nhà nước phương Tây nào đó, rồi
coi đó là điểm xuất phát trong tư duy thì thực chất đã đồng nhất một
cách trừu tượng cái phổ biến và cái đặc thù, cái bản chất với hiện
tượng.
Tóm lại, nhà nước pháp quyền trước hết cần phải được coi là một khái niệm.
Thứ hai, nhà nước với tính cách nội dung khách quan được phản ánh trong
khái niệm nhà nước pháp quyền là sự thống nhất giữa xã hội được tổ chức
theo một cách thức xác định với bộ máy nhà nước - bộ phận biểu hiện tập
trung của cách thức tổ chức xã hội ấy. Nội dung khái niệm nhà nước nói
chung, pháp quyền nói riêng, nếu chỉ giới hạn ở bộ máy nhà nước, cho dù
đây là nơi biểu hiện tập trung nhất chỉnh thể đời sống xã hội, thì vẫn
là cách hiểu không đúng tinh thần duy vật thực tiễn của chủ nghĩa Mác.
Việc phân tích quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng ghen về nhà nước cho thấy,
nhà nước là một khái niệm rất sinh động, có nội hàm vận động phức tạp,
phản ánh sự vận động phức tạp của đời sống xã hội. Sự tách rời, cô lập
khái niệm nhà nước với tính cách bộ máy nhà nước với khái niệm nhà nước
với tính cách xã hội được tổ chức theo cách xác định là sản phẩm của
chính trình độ phát triển của xã hội, bị quy định bởi trình độ phát
triển của sản xuất vật chất. Nó có tính lịch sử. Song, ngay cả trong
tình trạng như vậy, khái niệm nhà nước vẫn là một khái niệm chứa đựng
mâu thuẫn, vẫn là hình ảnh của chỉnh thể xã hội với hình thức là quyền
lực công, lợi ích chung và nội dung là quyền lực bộ phận (giai cấp), lợi
ích riêng (giai cấp). Tình trạng này sẽ bị vượt bỏ, và nhà nước với
tính cách bộ máy và nhà nước với tính cách xã hội được tổ chức theo cách
thức xác định sẽ đồng nhất trở lại một cách cụ thể.
Đây cũng
là một quan niệm có tính chất phương pháp luận trong nghiên cứu nhà nước
pháp quyền. Trong các quan niệm về nhà nước pháp quyền mà chúng ta đã
khảo sát ở trên, tuyệt đại đa số đều quan niệm nhà nước pháp quyền theo
nghĩa bộ máy nhà nước hay nhà nước chính trị. Bởi vậy, những bàn luận về
nguyên tắc, đặc trưng, v.v. của nhà nước pháp quyền đều chỉ tập trung
vào bộ máy nhà nước, phần quan trọng nhất là xã hội được tổ chức theo
cách xác định lại không được bàn tới, hoặc nếu có thì cũng chỉ với tính
cách một hệ quả phải tính tới do quan hệ của nó với nhà nước. Cách tư
duy này không tránh khỏi tình trạng không lý giải được thực chất, nguồn
gốc những tính quy định pháp quyền của bộ máy nhà nước; do vậy, phải du
nhập những tính quy định này từ những giá trị chung, nguyên tắc chung
nào đó, hoặc từ một ý niệm tuyệt đối nào đó, hoặc suy một cách võ đoán
từ nguyên tắc nhận thức đã bị biến thành nguyên tắc tiên nghiệm khi
không xuất phát từ thực tiễn mà từ lý luận về sự quy định của cơ sở hạ
tầng với kiến trúc thượng tầng, của kinh tế với chính trị, của xã hội
với nhà nước. Nói cách khác, tính tất yếu của nhà nước pháp quyền trở
thành tính tuỳ tiện chủ quan. Chỉ có quan niệm nhà nước theo hai lớp
nghĩa và quan trọng hơn, sự chuyển hoá giữa hai lớp nghĩa này mới cho
phép tìm đến bản chất và tính tất yếu khách quan của nhà nước pháp quyền
nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng.
Thứ ba, bản chất của nhà nước pháp quyền được phản ánh trong khái niệm
nói trên là "quyền lực của nhân dân được thể chế hoá thành pháp luật và
đảm bảo thực thi bằng bộ máy nhà nước cũng như các thiết chế chính trị -
xã hội khác nhằm mang lại quyền lợi cho nhân dân". Đây chính là nội hàm
căn bản nhất của khái niệm "nhà nước pháp quyền".
Sự hình
thành và phát triển của nhà nước pháp quyền diễn ra theo lôgíc sau: Lực
thông qua sự thừa nhận chung sẽ trở thành quyền lực; quyền lực được luật
hoá và đảm bảo thực thi bằng bộ máy nhà nước cũng như các thiết chế
chính trị - xã hội khác sẽ trở thành pháp quyền và xã hội được tổ chức
theo cách như vậy chính là nhà nước pháp quyền.
Lực vốn là một
khái niệm của vật lý học, dùng để chỉ một thuộc tính của sự vật. "Lực
(sức mạnh) là khái niệm dùng để chỉ một thuộc tính của bất kỳ hệ vật
chất nào, xét trong tương tác với hệ vật chất khác, có khả năng duy trì
sự tồn tại hoặc tạo ra sự biến đổi”.
Khi vận dụng vào khoa học
xã hội, khái niệm "lực" được dùng để chỉ thuộc tính sức mạnh, là khả
năng áp đặt và buộc người khác/tập đoàn xã hội khác thực hiện theo ý chí
của mình trong quan hệ với cá nhân/quan hệ với xã hội. Mỗi cá nhân cũng
như mỗi tập đoàn người trong xã hội đều có thể có một lực nhất định
trong quan hệ với cá nhân hay tập đoàn khác, và vì thế tạo nên một kiểu
tổ chức xã hội nhất định. Quan hệ lôgíc giữa "lực" và kiểu tổ chức xã
hội đã được nhiều nhà nghiên cứu xã hội sử dụng khi tiến hành phân tích
cấu trúc hệ thống xã hội. Chẳng hạn, nhà tương lai học người Mỹ
A.Toffler cho rằng có 3 loại lực được tạo nên từ vũ khí, tiền bạc và trí
tuệ, và tương ứng với nó là các kiểu tổ chức xã hội nông nghiệp, công
nghiệp và hậu công nghiệp. Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lê nin,
đối với các lực lượng cấu thành xã hội, sức mạnh dựa trên cơ sở sở hữu
các tư liệu sản xuất có vai trò quyết định đối với sự phát triển của xã
hội nói chung và cách thức tổ chức xã hội dựa trên quan hệ đối với tư
liệu sản xuất là cách thức tổ chức xã hội căn bản - cách thức tổ chức xã
hội thành các giai cấp và quan hệ giữa các giai cấp. C.Mác và Ph.ăng
ghen viết: "Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có
những quan hệ nhất định, tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ -
tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ
phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ
những quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức cái
cơ sở hiện thực, trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và
chính trị, và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ
sở hiện thực đó. Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các
quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung"(l).
Quan điểm này diễn đạt theo một cách khác có nghĩa là trên cơ sở sức
mạnh kinh tế sẽ tổ chức nên chỉnh thể đời sống xã hội. Sự phân tích bản
chất của đời sống xã hội sẽ không thể thu được kết quả khách quan nhất
nếu không bắt đầu từ sự phân tích sức mạnh và quan hệ sức mạnh của các
lực lượng trong xã hội đo quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất trong
xã hội quy định. V.I.Lê nin đã khẳng định quan điểm có tính chất phương
pháp luận này khi nói rằng, nếu không quy sự phát triển các quan hệ xã
hội thành sự phát triển các quan hệ sản xuất và nếu không quy sự phát
triển các quan hệ sản xuất thành sự phát triển của lực lượng sản xuất
thì không thể có được lời giải đáp cho câu hỏi về quy luật khách quan
của sự tồn tại và phát triển của xã hội, hay nói cách khác là không có
căn cứ để hiểu quan điểm nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng về
lịch sử: "sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trình lịch sử- tự nhiên". Từ quan điểm có tính chất phương pháp luận đã
trình bày ở trên, C.Mác và Ph.ăng ghen đã chỉ ra quy luật tồn tại và
phát triển của chủ nghĩa tư bản; từ đó chỉ ra những quy luật chung nhất
của đời sống nhân loại. V.I.Lê nin đã chỉ ra quy luật vận động của chủ
nghĩa tư bản trong giai đoạn độc quyền. Hồ Chí Minh cũng đã tìm ra tính
tất yếu tồn tại và tất yếu diệt vong của chủ nghĩa thực dân, từ đó thúc
đẩy xã hội Việt Nam phát triển đúng theo quy luật khách quan vốn có của
nó. Việc tìm hiểu nhà nước pháp quyền như một trình độ phát triển về
chất trong quá trình vận động của nó không thể không xuất phát từ quan
điểm nói trên.
Nhà nước pháp quyền - Đinh Huy - Email: huyvadi@yahoo.com.vn (04/07/2010 09:59:28 PM)
Theo tôi nhà nước pháp quyền là nhà nước lấy hiến pháp làm văn bản
quyền lực pháp luật cao nhất mà tòan dân trong một nước đồng tình và
chấp thuận nó chi phối và điều chỉnh tòan bộ đời sống xã hội. Mà hiến
pháp chính là ý chí, nguyện vọng và quyền lợi của người dân đặt vào để
chứng tỏ rằng quyền lực của nhà nước đã thuộc về nhân dân nắm giữ và
quyết định.
NNPQ là NN mà người dân trực tiếp làm chủ đất nước
tức là làm chủ quyền lực NN bằng quyền lực tối cao của pháp luật, nó
khác hòan tòan NN mà Vua hay một tổ chức làm chủ đất nước hay quyền lực
NN bằng quyền lực chính trị. Chỉ khi nào hiến pháp của nhân dân được đặt
nằm trên các cơ quan quyền lực mà người dân đã trao quyền như Đảng cầm
quyền, chính phủ, quốc hội hay tòa án thì NN này chính là NNPQ của người
dân làm chủ chỉ vì dân chứ không vì một cá nhân hay một tổ chức nào.
Quyền lực là một quan hệ xã hội, trong đó sức mạnh của một bên được thừa nhận, ý chí một bên trở thành ý chí hành động chung.
Một quan hệ dựa trên sức mạnh sẽ chuyển hoá thành quan hệ quyền lực khi
mà bên bị áp đặt và buộc phải hành động đã tự giác và tự nguyện hành
động theo ý chí của bên kia. Sự thừa nhận chung có ý nghĩa rất quan
trọng trong tổ chức đời sống xã hội và được hiểu là sự thừa nhận của các
bên tham gia quan hệ xã hội.
Vấn đề cần quan tâm ở đây là, nói
chung, bất cứ một chủ thể nào nắm giữ sức mạnh cũng luôn muốn trở thành
chủ thể quyền lực, muốn được đối phương thừa nhận vị trí và vai trò chi
phối của mình trong quan hệ với họ. Nhưng vì mỗi bên khi tham gia vào
quan hệ xã hội đều xuất phát từ lợi ích riêng của mình, hơn nữa, do
trình độ phát triển của sản xuất quy định, nên việc thoả mãn lợi ích
riêng của các bên thường đối lập, thậm chí loại trừ nhau; trong khi đó,
"kẻ mạnh không phải lúc ào cũng đủ mạnh để mãi mãi làm người thống trị,
nếu như hắn ta không chuyển lực thành quyền và chuyển sự phục tùng thành
nghĩa vụ”(2). Trên thực tế, đúng như J.J Rousseau đã chỉ ra, sức mạnh
tự nó không thề trở thành quyền lực, mặc dù giữa lực và quyền lực có mối
quan hệ nội tại rất chặt chẽ - không thể có quyền lực nếu không có sức
mạnh.Ý chí bộ phận chỉ trở thành ý chí chung khi lợi ích mà nó đại diện
đóng vai trò lợi ích chung.
Chừng nào mà một lực lượng xã hội
không nhận thức được và không có đủ khả năng biến lợi ích riêng của mình
thành lợi ích chung trên cơ sở kiến tạo lợi ích chung thực sự cho xã
hội, thì chừng đó lực lượng ấy không thể có quyền lực thực sự. Tất
nhiên, việc núp dưới hình thức lợi ích chung luôn là một sự lợi dụng và
sẽ còn bị lợi dụng khi mà kẻ núp dưới hình thức ấy không đủ khả năng tạo
ra lợi ích chung thực sự. Khi ấy, sức mạnh đóng vai trò tiêu cực, không
phải là công cụ để tạo ra lợi ích chung mà là để duy trì quyền lợi của
kẻ núp dưới lợi ích chung. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin đã chứng
minh rằng, nếu sản xuất vật chất là nguồn gốc của sự tồn tại và phát
triển của xã hội, thì sức mạnh của nhân dân lao động là sức mạnh to lớn
nhất trong lịch sử. Chính nhân dân lao động là người sáng tạo ra lịch
sử. Vì vậy, để tiến hành những cải tạo căn bản trong xã hội, cần phải
tập hợp và phát .huy sức mạnh của nhân dân lao động. Tuy nhiên, không
phải lúc nào nhân dân lao động cũng là người có quyền lực trong xã hội,
mặc dù họ chiếm đa số, tức là về lý thuyết, họ có thể tự thừa nhận sức
mạnh của mình. Sự phát triển của xã hội loài người trải qua các hình
thái kinh tế - xã hội đã chứng minh rằng, các giai cấp đại diện cho
phương thức sản xuất mới hình thành trong lòng hình thái kinh tế - xã
hội cũ chỉ có thể giành và giữ quyền tổ chức đời sống xã hội - tập trung
ở bộ máy nhà nước - khi thể hiện mình là cái phố biến, là đại diện cho
lợi ích chung của toàn thể xã hội, biến sức mạnh của nhân dân lao động
thành sức mạnh phục vụ cho lợi ích của giai cấp mình. ỏ giai đoạn đầu
trong sự tồn tại với tư cách giai cấp của mình, sự thể hiện ấy mang tính
bản chất, nhưng cùng với thời gian, sự thể hiện ấy dần chỉ còn là hiện
tượng bề ngoài. Điều này đã xảy ra với giai cấp địa chủ phong kiến, giai
cấp tư sản. Chỉ đến giai cấp vô sản, vai trò phổ biến của nó trong xã
hội mới luôn có tính bản chất, bởi giai cấp vô sản mà hạt nhân của nó là
giai cấp công nhân hiện đại chính là chủ thể của các quá trình sản xuất
vật chất, và bản thân nó cũng là giai cấp những người lao động. Như
vậy, lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng, sự hình thành quyền lực của
nhân dân lao động là tất yếu. Nhân dân lao động nhất định sẽ trở thành
người chủ thực sự của các quan hệ xã hội, của các quá trình xã hội, của
toàn thể xã hội.
Pháp quyền là quyền lực của nhân dân được thể
chế hoá thành luật và đảm bảo thực thi bằng nhà nước và các thiết chế
chính trị xã hội khác.
Pháp quyền có sự phân biệt với pháp
luật. Pháp luật là ý chí của giai cấp nắm giữ sức mạnh kinh tế được đề
lên thành luật. Khi giai cấp này đồng thời là đại biểu cho toàn thể xã
hội, nghĩa là sức mạnh của nó được toàn thể xã hội thừa nhận, thì ý chí
của nó dưới hình thức luật là pháp quyền, còn khi nó chỉ đại diện cho
chính mình như một bộ phận trong quan hệ đối lập với các bộ phận khác
trong xã hội (nghĩa là sức mạnh của nó không được toàn thể xã hội thừa
nhận) thì ý chí của nó dưới hình thức luật chỉ là pháp luật.
Trong xã hội có giai cấp, bộ máy nhà nước là cơ quan mang hình thức
quyền lực công, đại diện cho lợi ích chung. Chỉ có nó mới đủ tư cách và
khả năng thể chế hoá một ý chí nào đó thành luật và đảm bảo thực thi ý
chí đó bằng một hệ thống các công cụ vật chất, như quân đội, cảnh sát,
nhà tù, toà án, v.v., cùng với hệ thống các thiết chế chính trị - xã hội
khác. Mặt khác, về bản chất, bộ máy nhà nước là của một giai cấp nhất
định và phục vụ cho giai cấp ấy. Cho nên, để một quyền lực có khả năng
được thể chế hoá thành luật và được đảm bảo thực thi, việc đầu tiên là
chủ thể quyền lực phải giành lấy quyền tổ chức và điều hành nhà nước.
Vấn đề nhà nước, do vậy, là vấn đề trung tâm của mọi cuộc cách mạng xã
hội.
Một điều khác cũng cần lưu ý ở đây là năng lực của bộ máy
nhà nước trong việc luật hoá và đảm bảo thực thi quyền lực đã được luật
hoá. Quyền lực có thể không trở thành pháp quyền khi chủ thể của nó
không giành lấy quyền tổ chức và điều hành bộ máy nhà nước, nhưng ngay
cả khi đã giành được quyền tổ chức và điều hành bộ máy nhà nước, pháp
quyền vẫn không tồn tại nếu bộ máy ấy không đủ sức luật hoá và đảm bảo
thực thi quyền lực đã được luật hoá.
Sự phân tích về lực và
quyền lực ở trên cho thấy, nếu nhân dân là người chủ thực sự của sức
mạnh xã hội thì sự hình thành quyền lực của nhân dân là tất yếu trong
lịch sử phát triển của nhân loại, và nếu quyền lực của nhân dân tất yếu
hình thành thì chỉ khi nhân dân giành được quyền tổ chức, điều hành bộ
máy nhà nước và bộ máy ấy đủ sức luật hoá cũng như đảm bảo thực thi
quyền lực của nhân dân đã được luật hoá mới hình thành nên pháp quyền
thực sự và tổ chức xã hội thành nhà nước pháp quyền.
Như vậy,
với các khái niệm công cụ là lực, quyền lực và pháp quyền như trên, ta
có thể thấy, tại sao chỉ có xã hội tổ chức theo cách quyền lực của nhân
dân được thể chế hoá thành luật và đảm bảo thực thi bằng nhà nước và các
thiết chế chính trị - xã hội khác thì đó mới là nhà nước pháp quyền.
Khái niệm này tự nó đã loại bỏ các loại hình nhà nước từ nhà nước tư
sản trở về trước ra khỏi ngoại diên khái niệm nhà nước pháp quyền theo
nghĩa đầy đủ, đồng thời khẳng định nhà nước pháp quyền là một trình độ
phát triển tất yếu đạt tới của nhà nước.
Các hình thức nhà nước
từ nhà nước tư sản trở về trước không phải là nhà nước pháp quyền theo ý
nghĩa đầy đủ của nó, mà chí mang những mầm mống của nhà nước pháp
quyền, bất kể trong nhà nước ấy, pháp luật có đóng vai trò thống trị hay
không và quyền lực nhà nước có được tổ chức theo nguyên tắc tam quyền
phân lập hay không. Các hình thức nhà nước ấy chỉ có mầm mống nhà nước
pháp quyền, bởi lẽ, xét về mặt giai cấp, các nhà nước ấy đều được tổ
chức theo cách quyền lực của một giai cấp thống trị, thiểu số trong xã
hội, được thể chế hoá thành luật và đảm bảo thực thi bằng nhà nước. Như
vậy, nếu căn cử vào khái niệm nhà nước pháp quyền nêu trên, thì các nhà
nước ấy tuyệt nhiên không thể được coi là nhà nước pháp quyền. Tuy
nhiên, xét về mặt giải phóng con người, sự thay thế giai cấp chủ nô bằng
giai cấp địa chủ phong kiến, sự thay thế giai cấp địa chủ phong kiến
bằng giai cấp tư sản đều là những bước phát triển quan trọng trong quá
trình giải phóng con người cả về chất lượng lẫn số lượng. Bản thân các
giai cấp thống trị, ngoài bản chất giai cấp thì ở tầng bậc bản chất sâu
hơn, họ vẫn là con người. Mặt khác, cách thức tổ chức xã hội dựa trên
quan hệ sản xuất phong kiến cao hơn cách thức tổ chức xã hội dựa trên
quan hệ chiếm hữu nô lệ và cách thức tổ chức xã hội dựa trên quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa lại cao hơn cách thức tổ chức xã hội dựa trên
quan hệ sản xuất phong kiến. Quyền lực xã hội cũng phát triển khi lần
lượt trải qua các chủ thể là giai cấp chủ nô, giai cấp địa chủ phong
kiến và giai cấp tư sản. Theo nghĩa ấy, trong các hình thức nhà nước từ
nhà nước tư sản trở về trước tồn tại những mầm mống, những phần của nhà
nước pháp quyền và đều là những bước tiến trong hành trình đi tới nhà
nước pháp quyền theo nghĩa đầy đủ nhất.
Cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa đã tạo ra sự thay đổi chưa từng có trong lịch sử loài người
khi nó thay thế lực lượng lãnh đạo xã hội vốn chỉ là một thiểu số bóc
lột bằng đa số nhân dân lao động. Đồng thời, nó cũng tạo ra bước chuyển
to lớn trong sự giải phóng con người trên cơ sở nắm giữ quyền lực trong
xã hội.
Tính chất mà mọi hình thức nhà nước trước đó không thể
có là, khi sức mạnh của nhân dân được tập hợp và phát huy thì đồng thời
nó cũng trở thành quyền lực, bởi sức mạnh đó là sức mạnh của đa số trong
xã hội. Từ việc giành lấy quyền tổ chức và điều hành bộ máy nhà nước,
nhân dân lao động sẽ tổ chức lại đời sống xã hội bằng cách thể chế hoá ý
chí của mình thành luật và đảm bảo thực thi luật ấy bằng bộ máy nhà
nước cùng với hệ thống các thiết chế chính trị - xã hội của mình . Ý chí
chung ở đây là ý chí chung thực sự. Lợi ích chung ở đây là lợi ích
chung thực sự. Do vậy, mâu thuẫn nội tại trong xã hội và trong bộ máy
nhà nước có điều kiện tồn tại trong trạng thái thống nhất cao độ. Nhà
nước và xã hội tiến nhập trở lại với nhau. Nhà nước dần mất đi tính chất
chính trị (bởi trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, vẫn tồn tại
các giai cấp). Nhà nước pháp quyền là bước phát triển cuối cùng trước
khi nhà nước hoàn toàn mất đi tính chất chính trị, nhà nước với tính
cách bộ máy và nhà nước với tính cách xã hội được tổ chức theo cách xác
định đồng nhất một cách cụ thể với nhau. Đó chính là điều mà C.Mác đã
khẳng định khi phê phán triệt để triết học pháp quyền của Hêghen. Nhà
nước với tính cách một bộ phận thì là bộ phận thực sự, bên cạnh các bộ
phận khác cấu thành chỉnh thể đời sống xã hội; với tính cách chỉnh thể
thì là chỉnh thể thực sự khi nó thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội.
Khái niệm nhà nước pháp quyền như xác định ở trên
đã đặt ra nhiều vấn đề về mặt lý luận và thực tiễn đối với quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.
Theo quan điểm
của chúng tôi, chỉ có một khái niệm "nhà nước pháp quyền" theo nghĩa
trình độ phát triển cao của nhà nước trong xã hội loài người. Tự bản
thân nó, nói "nhà nước pháp quyền" tức là nói "nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa", và nói "nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" tức là nói
đến nhà nước pháp quyền ở trình độ phát triển đầy đủ nhất, là nhà nước
đã đạt đến trình độ dân chủ hoàn bị nhất. Bản chất của "nhà nước pháp
quyền", hay "nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" là tất cả mọi quyền
hành, lực lượng và lợi ích đều ở nơi nhân dân.
Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước pháp quyền với tính cách là khái
niệm, là nội dung đã "tìm thấy" cái vỏ vật chất, cái hình thức của nó.
Nếu phân chia khái niệm "nhà nước pháp quyền" thành hai khái niệm "nhà
nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa" và "nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa" thì điều đó không có nghĩa thừa nhận sự tồn tại trong hiện thực
một loại hình nhà nước pháp quyền này bên cạnh một loại hình nhà nước
pháp quyền kia. Nói theo ngôn ngữ của C.Mác, "nhà nước pháp quyền tư bản
chủ nghĩa" và "nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" không phải là
những "giống" đồng đăng với nhau. "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa"
vừa là "giống" bởi trong hiện thực, nó đang tồn tại trong cùng không
gian - thời gian với "nhà nước pháp quyền xã hội tư bản chủ nghĩa", là
những hình thức của "nhà nước pháp quyền", vừa là "loài", bởi nó là sự
vượt bỏ so với "nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa", là "tương lai"
của "nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa". "Nhà nước pháp quyền tư bản
chủ nghĩa" là hình thức chưa thể hiện hết nội dung "nhà nước pháp
quyền", còn "nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" là nhà nước đã thêm
hiện hết nội dung của "nhà nước pháp quyền", là "nhà nước pháp quyền"
dưới hình thái vật chất của nó.
Nói một cách đơn giản hơn, nếu
sử dụng hai khái niệm này, thì điều đó chỉ có nghĩa "nhà nước pháp quyền
tư bản chủ nghĩa" là nhà nước pháp quyền ở trình độ tư bản chủ nghĩa,
là nhà nước pháp quyền chưa đầy đủ, còn "nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa” là nhà nước pháp quyền ở trình độ xã hội chủ nghĩa, là nhà nước
pháp quyền theo ý nghĩa đầy đủ nhất.
Sự khác biệt ở đây chính
là ở nội hàm của khái niệm trung tâm của nhà nước pháp quyền là “nhân
dân". Nếu chế độ tư bản chủ nghĩa được hiểu là chế độ mà nhân dân với tư
cách "chủ thể tối cao và duy nhất của mọi quyền lực trong xã hội" vẫn
là một thiểu số nhà tư bản thì hình thức pháp lý của ý chí của chủ thể
quyền lực ấy vẫn chỉ là pháp luật và vì thế, chưa thực sự có nhà nước
pháp quyền, dù tính chất pháp quyền của nó cao hơn nhà nước phong kiến
hay nhà nước chiếm hữu nô lệ. Nếu chế độ xã hội chủ nghĩa được hiểu là
chế độ mà nhân dân với tư cách "chủ thể tối cao và duy nhất của mọi
quyền lực trong xã hội" là nhân dân lao động chiếm tuyệt đại đa số thành
viên của xã hội, là "toàn dân" theo cách nói của Hồ Chí Minh, thì ý chí
của nhân dân được đề lên thành luật cũng đồng thời trở thành pháp
quyền. Trong điều kiện ấy, toàn bộ tổ chức xã hội và nhà nước là sự tự
tổ chức của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; do đó, là xã hội - nhà
nước pháp quyền theo đúng nghĩa của nó.
Dĩ nhiên, nhà nước pháp
quyền theo đúng nghĩa của nó - nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa -
nhà nước dân chủ - không phải cứ muốn là có ngay được. Với trình độ phát
triển của xã hội hiện nay, ngay cả ở những nước đã trải qua một thời kỳ
lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì nhà nước pháp quyền trước hết
vẫn là một mục tiêu. Nói cách khác, ở các nước xác định mục tiêu phát
triển xã hội là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, vận dụng triết
lý phát triển xã hội dựa trên nền tảng học thuyết Mác - Lê nin và do
Đảng Cộng sản chân chính cách mạng lãnh đạo, thì nhà nước pháp quyền vẫn
là nhà nước pháp quyền "đang thành" chứ chưa phải là "đã thành", dù nó
đã đạt trình độ cao hơn so với nhà nước pháp quyền ở trình độ tư bản chủ
nghĩa. chính vì thế, tiến hành xây đựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam chính Là hiện thực hóa những nội dung cơ bản: 1.Nhân dân
là chủ thể tối cao và duy nhất của mọi quyền lực và quyền lợi trong xã
hội; 2. Pháp quyền trong chế độ chính trị Việt Nam hiện nay là ý chí của
nhân dân được đề lên thành luật và đảm bảo thực thi bằng nhà nước cùng
với các thiết chế chính trị xã hội khác; 3. Bộ máy nhà nước trong Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là của dân, do dân, vì dân; 4.
Xây dựng hệ thống các thiết chế chính trị - xã hội với tư cách một công
cụ thực thi quyền lực của nhân dân cùng với bộ máy nhà nước; 5. Nhà
nước quản lý và điều hành xã hội theo mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh"; 6. Kiên trì chủ nghĩa Mác - Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động; 7.
Củng cố và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối
với sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền.
Xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực chất là xây dựng nhà nước pháp
quyền trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vì vậy, nội
dung của nó chính là làm cho nhân dân thực sự trở thành chủ thể tối cao
và duy nhất của mọi quyền lực và quyền lợi; các công cụ quyền lực trong
xã hội, như nhà nước, các thiết chế chính trị - xã hội, pháp luật phải
thực sự là công cụ bảo vệ, thực thi quyền lực và quyền lợi của nhân dân;
cần phải làm cho chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh thấm sâu
vào quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, phải củng cố và tăng cường
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.13.Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.14-15.
(2) J.J.Rousseau. Bàn về Khế ước xã hội. Nxb Tp.Hồ Chí Minh, 1992, tr.33.
Pháp quyền không thể đặt bên cạnh các giá trị về tinh thần như chân lý
khoa học, sự tận thiện về đạo đức hay kinh bổn của tôn giáo. Nó chỉ có ý
nghĩa tương đối, nội dung của nó một phần nào đó được quyết định bởi
những điều kiện kinh tế và xã hội luôn luôn biến đổi. Ý nghĩa tương đối
của pháp quyền đã tạo cớ cho một số lý thuyết gia đánh giá nó quá thấp.
Một số người cho rằng pháp luật chỉ có giá trị tối thiểu về đạo đức, một
số khác lại cho rằng cưỡng chế, nghĩa là bạo lực, là thành tố không thể
tách rời của pháp luật. Nếu đúng là như thế thì chẳng có cơ sở nào để
chê trách giới trí thức của chúng ta trong việc coi thường pháp quyền
hết. Giới trí thức của chúng ta luôn hướng tới những lý tưởng tuyệt đối
và trên đường đi của mình nó có thể bỏ qua cái giá trị thứ cấp này.
Nhưng văn hóa tinh thần bao gồm không chỉ một loại giá trị. Các đặc
điểm mang tính hình thức của hoạt động trí tuệ và hoạt động ý chí là
thành phần chủ yếu của văn hóa tinh thần. Mà trong các giá trị mang tính
hình thức thì pháp luật, một hình thức phát triển hoàn hảo nhất và gần
như có thể cảm nhận được một cách cụ thể nhất, đóng vai trò quan trọng
nhất. Pháp luật đưa người ta vào khuôn phép nhanh hơn là tư duy lô gich
và phương pháp luận hay những biện pháp rèn luyện ý chí một cách có hệ
thống khác. Điều quan trọng là, khác với những hệ thống kỷ luật mang
tính cá nhân nói trên, pháp luật là hệ thống mang tính xã hội và lại là
hệ thống xã hội duy nhất ép người ta vào kỷ luật. Kỷ luật xã hội chỉ có
thể được hình thành nhờ pháp luật; xã hội có kỷ cương và xã hội có trật
tự pháp luật phát triển là những khái niệm tương đồng.
Nhìn
theo cách đó thì nội dung của pháp quyền đã có một ý nghĩa khác. Nội
dung chủ yếu và quan trọng nhất của pháp quyền chính là tự do. Nói cho
ngay, đấy là tự do ngoại tại, tự do tương đối, được quy định bởi môi
trường xã hội. Nhưng tự do nội tại, tự do tinh thần, tự do có tính bền
vững hơn, lại chỉ có thể hiện hữu khi có sự hiện hữu của tự do ngoại
tại, cái sau là trường học tuyệt vời cho cái trước.
Nếu coi
pháp luật là phương tiện buộc người ta phải tuân thủ kỷ cương một cách
toàn diện và tìm hiểu vai trò của nó trong sự phát triển tinh thần của
giới trí thức Nga thì ta sẽ có một kết quả rất đáng thất vọng. Giới trí
thức Nga bao gồm những người không có kỷ luật, cả về mặt cá nhân lẫn xã
hội. Và điều này lại liên quan đến sự kiện là giới trí thức Nga không
tôn trọng pháp luật, không nhận thấy giá trị của nó; pháp luật là giá
trị văn hóa bị coi thường hơn cả. Trong những điều kiện như thế, giới
trí thức của chúng ta không thể có nhận thức pháp quyền vững chắc, ngược
lại, nhận thức pháp quyền nằm ở vị trí kém phát triển nhất.
1.
Nhận thức pháp quyền của giới trí thức chỉ có thể phát triển cùng với
việc nghiên cứu các tư tưởng pháp quyền trong văn học. Việc nghiên cứu
như thế cũng đồng thời là chỉ dấu mức độ giác ngộ pháp luật của chúng
ta. Hoạt động miệt mài của nhận thức, của tư duy, dù theo bất kỳ hướng
nào, bao giờ cũng được thể hiện trong văn học. Chúng ta phải tìm trước
hết trong văn học những bằng chứng về nhận thức pháp quyền của chúng ta.
Nhưng ở đây chúng ta sẽ gặp một sự kiện lạ lùng như sau: nền văn học
“phong phú” trong quá khứ không hề có một luận văn hay bài tiểu luận nào
nói về pháp quyền có thể tạo được giá trị xã hội hết. Tác phẩm nghiên
cứu mang tính hàn lâm thì dĩ nhiên là có, nhưng đấy chỉ là dành cho các
chuyên gia mà thôi. Chúng ta không quan tâm đến các tác phẩm như thế;
chúng ta chỉ quan tâm đến các trước tác có ý nghĩa xã hội; ở đây chẳng
có một tác phẩm nào đủ sức khuấy động được nhận thức pháp quyền của giới
trí thức. Có thể nói rằng trong quá khứ đã không có bất cứ tư tưởng
pháp quyền nào, như được thể hiện trong lĩnh vực văn học, tham gia vào
quá trình phát triển về mặt tư tưởng của giới trí thức. Và hiện nay,
trong tập hợp các tư tưởng tạo ra thế giới quan của giới trí thức, tư
tưởng pháp quyền cũng chẳng có vai trò gì. Văn học chính là người làm
chứng cho cái chỗ thiếu sót trong nhận thức xã hội đó của chúng ta.
Bìa cuốn Khảo luận thứ hai về chính quyền. Chính quyền dân sự - J.Locke
Về mặt này thì sự phát triển của chúng ta khác hẳn với sự phát triển
của các dân tộc văn minh khác! Trong các giai đoạn tương ứng, ta thấy
người Anh, một mặt, có Hobbes[1] với các tác phẩm như Bàn về người công
dân, Leviathan và Filmer với Người gia trưởng hay là quyền lực tự nhiên
của vua chúa[2], còn bên kia là các tác phẩm của Milton[3] nhằm bảo vệ
tự do phát biểu và tự do ngôn luận, những bài văn đả kích của
Lilburne[4] và các tư tưởng pháp quyền của những người gọi là “cào bằng”
(levellers). Giai đoạn phát triển vũ bão nhất trong lịch sử Anh cũng đã
tạo ra những tư tưởng pháp quyền đối chọi nhau. Nhưng những tư tưởng
này không loại trừ nhau và đến một lúc nào đó đã hình thành một sự thỏa
hiệp trong tác phẩm Hai khảo luận về chính quyền của Locke[5].
Nội dung tư tưởng của Pháp thế kỷ XVIII không chỉ giới hạn bởi các phát
minh trong lĩnh vực tự nhiên và các hệ thống triết lý tự nhiên. Ngược
lại, phần lớn hành trang tư tưởng ngự trị trong đầu óc người Pháp thời
Khai sáng chắc chắn là được lấy từ Bàn về tinh thần pháp luật của
Montesquieu[6] và Bàn về khế ước xã hội của Rousseau[7]. Đây thực sự là
những tư tưởng pháp quyền; thậm chí tư tưởng về khế ước xã hội mà giữa
thế kỷ XIX người ta đã giải thích không đúng theo nghĩa xã hội học; định
nghĩa về cội nguồn của tổ chức xã hội cũng chủ yếu là tư tưởng pháp
quyền, nó quy định tiêu chuẩn tối thượng cho việc điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội.
Tư tưởng pháp quyền cũng đóng vai trò không nhỏ
trong quá trình phát triển về mặt tinh thần của nước Đức. Ở đây, đến
cuối thế kỷ XVIII đã định hình một truyền thống vững chắc có nguồn gốc
từ nhiều thế kỷ nhờ những người như Althusius[8], Pufendorf[9],
Thomasius[10], Wolff[11]. Cuối cùng, ngay trước giai đoạn lập hiến, đồng
thời cũng là giai đoạn phát triển nhất của nền văn hóa tinh thần Đức,
pháp quyền đã được công nhận là thành phần không thể tách rời của nền
văn hóa đó. Chỉ xin nhớ lại ba đại diện của nền triết học cổ điển Đức là
Kant[12], Fichte[13] và Hegel[14], cả ba ông này đều dành cho pháp
quyền vị trí quan trọng trong hệ thống triết học của mình. Trong hệ
thống của Hegel, triết lý pháp quyền chiếm vị trí cực kỳ đặc biệt vì ông
đã trình bày nó ngay sau lô gích học hoặc bản thể luận, trong khi đó,
triết học lịch sử, triết học nghệ thuật và ngay cả triết học tôn giáo
vẫn chưa được ông chắp bút và chỉ được in theo những ghi chép của những
thính giả của ông sau khi ông đã tạ thế. Nhiều triết gia khác, như
Herbart[15], Krause[16], Fries[17], v.v... đã có đóng góp vào triết học
pháp quyền. Nửa đầu thế kỷ XIX Triết học pháp quyền chắc chắn là tên gọi
hay gặp nhất trong số sách viết về triết học ở Đức. Bên cạnh đó, ngay
trong những năm 20 của thế kỷ XIX đã diễn ra cuộc tranh luận nổi tiếng
giữa Thibaut[18] và Savigny[19] “về sứ mệnh lập pháp và luật học của
thời đại chúng ta”. Cuộc tranh luận hoàn toàn mang tính pháp lý này đã
có ảnh hưởng văn hóa rất sâu sắc; nó thu hút sự quan tâm của tất cả tầng
lớp có học và góp phần tích cực vào việc đánh thức nhận thức pháp quyền
của tầng lớp này. Nếu cuộc tranh luận này đặt dấu chấm hết cho tư tưởng
pháp quyền tự nhiên thì nó cũng đồng thời dẫn đến chiến thắng của
trường phái pháp quyền mới - pháp quyền lịch sử. Trường phái này đã cho
xuất bản một tác phẩm tuyệt vời của Puchta[20] lấy tên là Tập quán pháp.
Tác phẩm này gắn bó chặt chẽ với quá trình phát triển của trường phái
pháp quyền mới của người Đức, những người nghiên cứu và bảo vệ các thiết
chế pháp luật Đức chống lại pháp quyền La Mã. Ông Besele[21], một môn
đồ của trường phái này, trong tác phẩm Quyền của dân chúng và quyền của
luật sư đã làm nổi bật, hơn cả Puchta trong tác phẩm Tập quán pháp, vai
trò nhận thức pháp luật của dân chúng.
Chưa từng có hiện tượng
nào tương tự như thế trong quá trình phát triển của giới trí thức ở nước
ta. Trong tất cả các trường đại học tổng hợp ở nước ta đều có khoa
luật; một số khoa đã tồn tại được hơn một trăm năm; ở nước ta còn có
trên nửa tá trường đại học luật nữa. Tổng cộng, trên toàn nước Nga có
gần một trăm năm mươi khoa luật cả thảy. Nhưng không có khoa nào xuất
bản được một cuốn sách hay thậm chí một tiểu luận có ý nghĩa xã hội rộng
lớn và có ảnh hưởng đối với nhận thức pháp quyền của giới trí thức.
Trong sách báo về pháp luật của chúng ta thậm chí không thể tìm được một
bài báo, trong đó lần đầu tiên nêu ra được tư tưởng pháp quyền, dù
không sâu sắc nhưng chính xác và đầy tinh thần chiến đấu như tác phẩm
Cuộc đấu tranh cho luật pháp của Ihering[22] chẳng hạn. Cả Tritrerin[23]
lẫn Soloviev[24] đều không tạo được một cái gì đáng kể về tư tưởng pháp
quyền. Ngay cả những cái có giá trị của họ thì cũng gần như vô bổ: ảnh
hưởng của họ đối với trí thức gần như bằng không; tư tưởng pháp quyền
của họ lại được ít người hưởng ứng hơn cả. Thời gian gần đây ở nước ta
người ta còn đưa ra tư tưởng phục hồi pháp quyền tự nhiên và tư tưởng
pháp quyền trực cảm. Nói về ảnh hưởng của chúng đối với sự phát triển xã
hội của chúng ta lúc này là hơi sớm. Nhưng cho đến nay, chưa thấy có cơ
sở nào để nghĩ rằng chúng sẽ có ý nghĩa xã hội rộng rãi. Trên thực tế,
đâu là diện mạo và đâu là công thức xác định, tức là những thứ tạo cho
tư tưởng tính uyển chuyển và giúp cho sự truyền bá của chúng? Tác phẩm,
thông qua các tư tưởng này nhằm đánh thức nhận thức pháp quyền của giới
trí thức đang nằm ở đâu? Tác phẩm Tinh thần luật pháp và Khế ước xã hội
của chúng ta đang nằm ở đâu?
Người ta có thể bảo rằng dân Nga
bước lên con đường lịch sử muộn hơn các dân tộc khác cho nên chúng ta
không cần phải tự tìm kiếm tư tưởng tự do và quyền cá nhân, trật tự luật
pháp, chế độ lập hiến, tất cả các tư tưởng này đã được phát biểu, được
phát triển một cách chi tiết, được đưa vào cuộc sống từ lâu rồi, chúng
ta chỉ việc mượn về là đủ. Nếu đúng là như thế thì dù sao chúng ta cũng
phải thể nghiệm được các tư tưởng đó; vay mượn không thôi thì chưa đủ,
một lúc nào đó trong cuộc đời ta phải sống hết mình với nó; một tư tưởng
dù có cũ đến đâu thì với người đang thể nghiệm lần đầu nó cũng vẫn luôn
luôn là mới; nó hoàn thành công việc sáng tạo trong nhận thức của người
đó, nó đồng hóa và chuyển hóa cùng với những thành tố khác của nhận
thức; nó thúc đẩy người ta hoạt động, hành động; trong khi đó nhận thức
pháp quyền của giới trí thức Nga chưa hề bị cuốn hút trọn vẹn bởi tư
tưởng về quyền cá nhân và nhà nước pháp quyền, giới trí thức của chúng
ta chưa từng trải nghiệm các tư tưởng này. Nhưng thực chất lại không
phải như thế. Không thể có những tư tưởng duy nhất, độc nhất về tự do cá
nhân, nhà nước pháp quyền, chế độ lập hiến giống nhau cho mọi dân tộc
và mọi thời đại, cũng không có chủ nghĩa tư bản cũng như bất kỳ tổ chức
kinh tế hay xã hội giống nhau cho tất cả các nước. Tất cả các tư tưởng
pháp quyền trong nhận thức của mỗi dân tộc cũng sẽ có sắc thái và dáng
vẻ riêng của mình.
2. Sự yếu kém trong nhận thức pháp quyền của
giới trí thức Nga và sự thờ ơ đối với các tư tưởng pháp quyền là kết
quả của thói xấu thâm căn cố đế: không hề có bất kỳ trật tự luật pháp
nào trong đời sống thường nhật của người Nga. Nhân việc này, Gersen[25]
ngay từ những năm 50 của thế kỷ trước (thế kỷ XIX - ND) đã viết: “Thiếu
sự bảo đảm về pháp lý từ bao đời nay đã đè nặng lên đời sống của người
dân và trở thành một kiểu trường học cho chính họ. Sự bất công quá đáng
của một nửa điều luật đã dạy dân chúng căm thù nửa còn lại; người ta
phục tùng nó như phục tùng sức mạnh vậy thôi. Sự bất bình đẳng trước
pháp luật đã giết chết tinh thần tôn trọng pháp luật. Người Nga, dù có
chức tước gì đi chăng nữa, cũng tìm cách tránh né hoặc vi phạm pháp luật
nếu có thể làm như thế mà không bị trừng phạt; chính phủ cũng hành động
hệt như vậy”. Sau khi đã nêu ra đặc điểm chẳng lấy gì làm hay ho của sự
vô tổ chức về mặt pháp luật của chúng ta như thế thì chính Gersen, một
trí thức Nga chân chính, lại nói thêm: “Hiện nay thì đây là điều nặng nề
và đáng buồn nhưng đối với tương lai thì lại là một ưu điểm lớn. Vì nó
cho thấy rằng, ở Nga, phía sau cái chính phủ hữu hình không hề có một lý
tưởng nào, không có một chính phủ vô hình, không có sự tôn trọng trật
tự hiện hành”.
Như vậy là Gersen cho rằng cái khiếm khuyết căn
bản này của đời sống xã hội Nga lại có một ưu điểm. Đây là ý kiến không
chỉ của riêng Gersen mà là của cả nhóm người thuộc giai đoạn những năm
bốn mươi, mà chủ yếu là những người thân Slav. Những người này cho rằng
sự yếu kém của các hình thức pháp luật ngoại tại, thậm chí hoàn toàn
không có trật tự pháp luật ngoại tại lại là mặt mạnh chứ không phải là
mặt yếu. Thí dụ, lúc đó K. S. Aksakov[26] từng khẳng định rằng trong khi
“người phương Tây” đi theo “con đường của sự thật ngoại tại, con đường
của chính phủ” thì người Nga đi theo “con đường của sự thật nội tại”. Vì
vậy mà ở Nga quan hệ giữa thần dân và hoàng đế, nhất là giai đoạn trước
Pëtr[27], được xây dựng trên sự tin tưởng lẫn nhau và ước muốn chân
thành về lợi ích cho cả hai bên. “Nhưng”, ông giả định, “người ta sẽ bảo
chúng ta: nhân dân hay chính quyền có thể phản bội. Cần phải có bảo
đảm!”. Và ông đã trả lời: “Không cần bảo đảm! Bảo đảm là xấu. Nơi nào
cần bảo đảm thì nơi đó không còn gì là tốt lành nữa; thà chết còn hơn là
sống cuộc sống không còn cái tốt, phải dùng cái xấu để bảo vệ”. Sự phủ
nhận tính tất yếu của những bảo đảm về mặt pháp luật, thậm chí coi những
bảo đảm như thế là xấu đã thúc giục B. N. Almazov[28] , một nhà thơ
trào phúng, cho K. S. Aksakov đọc một bài thơ bắt đầu như sau:
Vì những nguyên nhân nội tại
Chúng ta không có
Tư tưởng luật pháp lành mạnh,
Con đẻ của quỷ sứ.
Tâm hồn rộng mở của người Nga
Lý tưởng của chúng ta
Không thể chui vào những hình thức chật hẹp
Của các nguyên tắc pháp luật....
Bài thơ này, có hơi thổi phồng, về thực chất đã nói đúng quan niệm của K. S. Aksakov và những người thân Slav khác.
Sẽ là sai lầm khi cho rằng thái độ coi thường ý nghĩa của các nguyên
tắc pháp luật đối với đời sống xã hội chỉ là đặc trưng của những người
thân Slav. Ở những người thân Slav điều này được thể hiện dưới hình thức
quyết liệt nhất và được các hậu duệ của họ đưa đến mức cực đoan nhất,
thí dụ ông K. N. Leontiev[29] gần như đã ca ngợi người Nga vì họ không
có “tính trung thực sách vở” như những người tư sản Tây Âu. Nhưng chúng
ta biết rằng Gersen nhận thấy việc không có trật tự pháp luật lại là ưu
thế của chúng ta. Và phải công nhận rằng không nhận thức được ý nghĩa
của các tiêu chuẩn pháp lý đối với đời sống xã hội là đặc điểm chung của
giới trí thức của chúng ta...
3. Cơ sở của trật tự pháp luật
bền vững là quyền tự do cá nhân và sự bất khả xâm phạm của cá nhân con
người. Dường như giới trí thức Nga có đầy đủ lý do để quan tâm đến các
quyền của cá nhân. Từ xa xưa, ở nước ta người ta đã công nhận rằng toàn
bộ sự phát triển của xã hội phụ thuộc vào việc là cá nhân có vị trí như
thế nào. Vì vậy ngay cả việc thay đổi các xu hướng xã hội cũng được thể
hiện bằng việc thay đổi công thức nói về cá nhân. Người ta đưa ra hết
công thức này đến công thức khác: người có tư duy phê phán, có ý thức,
phát triển toàn diện, có tinh thần cách mạng, có đạo đức, có đức tin tôn
giáo, tự hoàn thiện. Có cả những xu hướng ngược lại, đấy là những xu
hướng muốn hòa tan cá nhân vào quyền lợi xã hội, tuyên bố cá nhân là
quantité négligeable[30] và bảo vệ con người của cộng đồng. Cuối cùng,
thời gian gần đây, những người theo tư tưởng của Nietzsche[31], của
Stirner[32] và chủ nghĩa vô chính phủ đã đưa ra những khẩu hiệu mới về
con người cá nhân tự cấp tự túc, con người ích kỷ và con người siêu
nhân. Thật khó có lĩnh vực nào được khảo sát kỹ lưỡng và toàn diện như
lý tưởng về nhân cách và có thể cho rằng chẳng còn gì mà nghiên cứu nữa.
Nhưng chính chúng ta lại khẳng định một lỗ hổng cực kỳ to lớn vì nhận
thức xã hội của chúng ta chưa từng đưa ra lý lưởng về nhân cách pháp
luật. Cả hai khía cạnh của lý tưởng này: con người được pháp luật đưa
vào kỷ cương bằng một trật tự pháp luật ổn định và con người được phú
cho tất cả các quyền và được tự do sử dụng các quyền đó, là những khái
niệm xa lạ với nhận thức của giới trí thức của chúng ta.
Một
loạt các sự kiện cho thấy lời khẳng định trên là đúng. Các lãnh tụ tinh
thần của giới trí thức Nga đã nhiều lần hoặc hoàn toàn coi thường các
quyền lợi về pháp luật của cá nhân hoặc có thái độ thù địch với các
quyền lợi đó. Thí dụ, một trong những luật gia kiêm tư tưởng gia nổi
tiếng của chúng ta là K. D. Kavelin[33] đã quan tâm rất nhiều đến vấn đề
cá nhân nói chung: trong bài báo Khảo sát đời sống pháp luật của nước
Nga cổ đại trên tờ Người đương thời in năm 1847, ông đã ghi nhận lần đầu
tiên rằng trong lịch sử thiết chế pháp luật Nga, cá nhân đã bị gia
đình, làng xóm và nhà nước che lấp và chẳng có một quy định pháp luật
nào; sau đó, từ cuối những năm 60 (thế kỷ XIX- ND) ông chuyển sang
nghiên cứu các vấn đề tâm lý và đức dục với hy vọng sẽ tìm được trong lý
giải mang tính lý thuyết quan hệ giữa cá nhân và xã hội phương tiện
giải quyết một cách đúng đắn tất cả các vấn đề cấp bách của xã hội.
Nhưng điều này cũng không ngăn cản ông, ngay trong giai đoạn quyết liệt
nhất hồi đầu những năm 60, khi lần đầu tiên câu hỏi về việc hoàn thành
cuộc cải cách của Alexander II[34], tỏ thái độ bàng quan không thể tưởng
tượng nổi đối với việc bảo đảm các quyền của cá nhân. Trong cuốn sách
mỏng giấu tên in ở Berlin năm 1862 và nhất là trong thư từ trao đổi với
Gersen, ông đã kịch liệt phê phán các dự thảo hiến pháp do các hội nghị
quý tộc thời đó đưa ra; ông cho rằng quý tộc sẽ là đại diện của nhân dân
và chính phủ nhân dân sẽ gồm toàn quý tộc và vì vậy sẽ dẫn đến sự thống
trị của quý tộc. Ông đã phủ nhận chế độ lập hiến nhân danh khát vọng
dân chủ, nhưng như thế là ông đã coi thường giá trị pháp lý của nó. Đối
với K. D. Kavelin, như ông nói trong bức thư, dường như không tồn tại
cái mà chúng ta coi là chân lý không thể tranh cãi, đấy là tự do và
quyền bất khả xâm phạm của cá nhân chỉ có thể được thực hiện dưới chính
thể lập hiến vì nói chung tư tưởng về cuộc đấu tranh cho quyền cá nhân
là hoàn toàn xa lạ đối với ông.
Trong những năm 70 (thế kỷ XIX -
ND) thái độ bàng quan đối với các quyền cá nhân, đôi khi còn chuyển hóa
thành thái độ thù địch, không những đã gia tăng mà còn được biện hộ về
mặt lý thuyết nữa. N. K. Mikhailovski[35], chắc chắn là người đại diện
nổi bật nhất của giai đoạn này, thay mặt cho thế hệ mình, đưa ra một câu
trả lời điển hình rõ ràng và chính xác cho câu hỏi mà chúng ta quan
tâm. Ông tuyên bố thẳng thừng rằng “tự do là một ý tưởng vĩ đại và đầy
cám dỗ, nhưng chúng ta không thích tự do nếu nó, giống như ở châu Âu,
chỉ làm gia tăng món nợ kéo dài hàng thế kỷ của chúng ta đối với nhân
dân” và nói thêm: “tôi biết chắc rằng mình đã thể hiện được một tư tưởng
thân thiết nhất và chân thành nhất của thời đại chúng ta, cái tư tưởng
đã tạo cho những năm 70 diện mạo điển hình và vì nó mà những năm 70 đã
tạo ra số lượng nạn nhân khủng khiếp, không thể nào đếm hết được[36]”.
Sự phủ nhận chế độ pháp quyền đã được nâng thành hệ thống có căn cứ xác
định và phát triển. Mikhailovski biện hộ cho hệ thống này như sau: “Là
những người có thái độ hoài nghi đối với nguyên tắc tự do, chúng ta sẵn
sàng không tranh giành bất cứ quyền nào cho mình, ngay cả những điều sơ
đẳng nhất mà ngày xưa người ta gọi là quyền tự nhiên, chứ không chỉ đặc
quyền đặc lợi, chuyện này thì chẳng có gì để nói. Chúng ta hoàn toàn
chấp nhận sự thô lậu của luật pháp và chịu đựng mọi tai ương hoạn nạn.
Tất nhiên sự từ bỏ này, có thể nói, mang tính cao thượng vì có ai đưa
cho chúng ta cái gì ngoài sự thô lậu đâu, nhưng tôi nói về tâm trạng mà
cái tâm trạng này đã đạt đến mức giới hạn, thậm chí không thể tưởng
tượng nổi, lịch sử đã cho thấy như thế. ‘Mặc kệ họ đánh, nông dân bị
đánh là đáng lắm’, có thể thể hiện cái tâm trạng đó một cách gần đúng, ở
mức độ quá quắt nhất của nó. Tất cả chỉ để nhằm một cơ hội, cái cơ hội
mà chúng ta đã để cả tâm trí vào, mà cụ thể là cơ hội chuyển trực tiếp
sang một trật tự cao hơn, tốt hơn, bỏ qua giai đoạn trung gian của tiến
trình phát triển ở châu Âu, tức là bỏ qua giai đoạn nhà nước tư bản.
Chúng ta tin rằng nước Nga có thể thiết lập cho mình một con đường lịch
sử mới, khác hẳn với châu Âu, mà đối với chúng ta thì điều quan trọng
không phải là một con đường mang tính dân tộc nào đó mà là con đường tốt
đẹp, và chúng ta công nhận là tốt đẹp khi đấy là con đường cải tạo một
cách tự giác và thực tế diện mạo dân tộc cho phù hợp với quyền lợi của
nhân dân[37]”.
Đấy là những luận điểm chủ yếu của thế giới quan
dân túy liên quan đến các vấn đề pháp quyền. Mikhailovski và những
người thuộc thế hệ ông từ chối quyền tự do chính trị và chế độ lập hiến
để nhắm tới cơ hội đưa một cách trực tiếp nước Nga sang chế độ xã hội
chủ nghĩa. Nhưng toàn bộ cái học thuyết xã hội học này lại được xây dựng
trên sự mù tịt về bản chất của chế độ lập hiến. Kavelin phản đối các dự
án hiến pháp vì vào thời của ông, đại diện của nhân dân hóa ra lại là
đại diện của quý tộc, còn Mikhailovski phản đối chế độ lập hiến vì cho
rằng đấy là nhà nước tư bản. Do sự yếu kém của nhận thức pháp quyền cố
hữu của giới trí thức của chúng ta mà cả hai ông đều chỉ chú ý đến khía
cạnh xã hội của chế độ lập hiến mà không nhận thấy tính chất pháp quyền
của nó, bản chất của nó trước hết là nhà nước pháp quyền. Mà tính chất
pháp quyền của nhà nước hiến định được thể hiện rõ nhất trong việc bảo
vệ cá nhân, bảo vệ quyền bất khả xâm phạm và tự do của cá nhân.
4. Trong ba định nghĩa về quyền, chiếu theo nội dung của các quy phạm
pháp luật, tức là các quy phạm quy định và giới hạn quyền tự do (trường
phái quyền tự nhiên và các nhà triết học duy tâm Đức) - quy phạm giới
hạn quyền lợi (Ihering), và cuối cùng là quy phạm tạo ra sự thỏa hiệp
giữa các đòi hỏi khác nhau (Adolphe Merkle[38]), thì định nghĩa thứ ba
đáng được chú ý hơn cả, nếu xét về mặt xã hội học. Trong nhà nước hiến
định hiện đại, bất kỳ đạo luật mới được ban hành nào, đấy là nói những
đạo luật có một chút giá trị nào đó, cũng đều là kết quả của sự thỏa
hiệp giữa các đảng phái, tức là những tổ chức biểu đạt yêu cầu của các
nhóm xã hội hoặc giai cấp mà họ làm đại diện. Chính nhà nước hiện đại
cũng được xây dựng trên cơ sở của thỏa hiệp và hiến pháp của mỗi nhà
nước cũng là sự thỏa hiệp nhằm dung hòa khát vọng của những nhóm xã hội
khác nhau của quốc gia. Vì vậy mà nhà nước hiện đại, nếu xét từ quan
điểm kinh tế-xã hội thì thường là chế độ tư bản, nhưng cũng có thể là
quý tộc, thí dụ như nước Anh trước cuộc cải cách về bầu cử được thực
hiện vào năm 1832 vốn là nhà nước hiến định nhưng lại do tầng lớp quý
tộc nắm quyền; còn Phổ, mặc dù đã có hiến pháp cách đây 60 năm, nước này
vẫn mang bản chất quý tộc nhiều hơn là tư bản. Nhà nước hiến định cũng
có thể là của nông dân hoặc công nhân, như chúng ta thấy ở New Zealand
hay Na Uy. Cuối cùng, nhà nước có thể không có mầu sắc giai cấp nhất
định, đấy là khi đạt được sự quân bình giữa các giai cấp, không có giai
cấp nào chiếm được ưu thế. Nhưng nếu nhà nước hiến định hiện đại được
xây dựng trên sự thỏa hiệp ngay cả về mặt tổ chức xã hội thì nó lại càng
như thế về mặt tổ chức chính trị và pháp luật. Điều đó cho phép ngay cả
những người xã hội chủ nghĩa, tức là những người phủ nhận nhà nước hiến
định về mặt nguyên tắc vì họ coi đấy là nước tư bản, dễ dàng an cư lạc
nghiệp và tham gia vào hoạt động lập pháp, dễ dàng sử dụng nhà nước như
phương tiện của mình. Vì vậy mà Kavelin và Mikhailovski có lý khi cho
rằng nhà nước hiến định ở nước Nga sẽ là quý tộc hay tư bản; nhưng họ đã
sai khi rút ra kết luận rằng không thể đội trời chung với nó và không
thể chấp nhận nó ngay cả như một sự thỏa hiệp, trong khi những người xã
hội chủ nghĩa khắp thế giới sẵn sàng thỏa hiệp với nhà nước hiến định.
Nhưng quan trọng nhất là, như đã nói bên trên, Kavelin và Mikhailovski
cũng như toàn thể giới trí thức theo đuôi họ đã hoàn toàn bỏ qua bản
chất pháp quyền của nhà nước hiến định. Nhưng nếu chúng ta tập trung chú
ý vào khía cạnh tổ chức pháp luật của nhà nước hiến định thì để làm rõ
bản chất của nó, chúng ta phải chú ý đến khái niệm pháp quyền dưới dạng
thuần khiết của nó, nghĩa là nội dung thật sự của nó, chứ không phải rút
ra từ các quan hệ kinh tế và xã hội. Lúc đó nói rằng pháp quyền phân
định rõ quyền lợi hoặc tạo ra thỏa hiệp là chưa đủ mà phải dứt khoát
khẳng định rằng pháp quyền chỉ có khi có tự do cá nhân mà thôi. Theo ý
nghĩa này thì trật tự pháp luật là hệ thống các quan hệ trong đó tất cả
các thành viên của xã hội đều có quyền tự do hành động và tự quyết cao
nhất. Nhưng cũng theo ý nghĩa này thì chế độ pháp quyền không được đối
lập với chế độ xã hội chủ nghĩa. Ngược lại, hiểu một cách sâu sắc cả hai
sẽ đưa ta đến kết luận rằng chúng liên kết mật thiết với nhau và chế độ
xã hội chủ nghĩa, xét về mặt luật học, chính là chế độ pháp quyền được
thực hiện một cách nhất quán hơn cả. Mặt khác, chế độ xã hội chủ nghĩa
chỉ có thể trở thành hiện thực khi tất cả các cơ quan của nó đều có một
định nghĩa hoàn toàn chính xác về mặt pháp lý.
Giới trí thức
Nga vốn có nhận thức yếu kém về pháp quyền, cũng như các lãnh tụ của nó
là Kavelin và Mikhailovski, không thể đưa ra được định nghĩa về pháp
quyền - cho chế độ dân chủ, đối với Kavelin và cho chế độ xã hội chủ
nghĩa, đối với Mikhailovski. Họ còn từ chối bảo vệ ngay cả trật tự pháp
lý tối thiểu, Kavelin thì chống lại hiến pháp, còn Mikhailovski thì có
thái độ hoài nghi đối với quyền tự do chính trị. Nói cho ngay, các sự
kiện hồi cuối những năm 70 đã buộc những người dân túy tiến bộ, trong đó
có Mikhailovski, đứng lên đấu tranh cho quyền tự do chính trị. Nhưng
đây là cuộc đấu tranh mà những người dân túy buộc phải làm vì hoàn cảnh
và nhu cầu lịch sử chứ không phải là do sự phát triển tư tưởng của chính
họ cho nên không thể dẫn tới thành công được. Chủ nghĩa anh hùng cá
nhân của các đảng viên đảng Ý dân không thể bù đắp được những khiếm
khuyết căn bản về tư tưởng không những của phong trào dân túy mà của cả
giới trí thức Nga nói chung. Giai đoạn phản động hồi nửa sau những năm
80 còn ảm đạm và tăm tối hơn vì trong khi không có bất kỳ căn cứ và bảo
đảm pháp lý nào cho một đời sống xã hội bình thường, trí thức nước ta
thậm chí còn không nhận thức được một cách rõ ràng vực thẳm của sự vô
quyền của nhân dân Nga nữa. Không hề có một định thức lý thuyết nào đủ
sức xác định được sự vô quyền đó.
Chỉ sau khi có một làn sóng
hướng về phương Tây cùng với chủ nghĩa Marx nổi lên vào đầu những năm 90
thì nhận thức pháp quyền của giới trí thức Nga mới bắt đầu mở mang thêm
được một chút. Giới trí thức Nga bắt đầu tiếp thu những chân lý sơ đẳng
của người châu Âu, và lúc đó các chân lý sơ đẳng này đã có tác động với
họ chẳng khác gì những mặc khải vĩ đại nhất. Cuối cùng, giới trí thức
nước ta đã nhận ra rằng mọi cuộc đấu tranh xã hội đều là đấu tranh chính
trị cả, rằng tự do chính trị là tiền đề cho chế độ xã hội chủ nghĩa,
rằng nhà nước hiến định, dù nằm dưới sự cai trị của giai cấp tư sản đi
nữa, sẽ cung cấp cho giai cấp công nhân không gian rộng lớn hơn cho cuộc
đấu tranh vì quyền lợi của mình, rằng giai cấp công nhân cần trước hết
là quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do ngôn luận, tự do đình
công, tự do hội họp và lập hội, rằng cuộc đấu tranh vì quyền tự do
chính trị là nhiệm vụ đầu tiên và thiết yếu nhất của bất kỳ đảng xã hội
chủ nghĩa nào, v.v... Có thể hy vọng rằng cuối cùng thì giới trí thức
của chúng ta cũng công nhận những giá trị bất biến của cá nhân và đòi
phải thực hiện các quyền và quyền bất khả xâm phạm của cá nhân. Nhưng
hóa ra là những khiếm khuyết trong nhận thức pháp quyền của giới trí
thức của chúng ta là rất khó khắc phục. Mặc dù đã trải qua trường
mác-xít nhưng thái độ của nó đối với pháp quyền vẫn y như cũ. Có thể
nhận thấy điều đó qua những tư tưởng đang giữ thế thượng phong trong
đảng Dân chủ-xã hội mà cách đây chưa lâu đa số trí thức đã hùa theo. Về
mặt này thì các biên bản của cái gọi là đại hội II đảng Công nhân xã hội
dân chủ Nga họp tại Bruxelles vào tháng 8 năm 1903 để soạn ra cương
lĩnh và nội quy của đảng là những tài liệu rất đáng được quan tâm. Đại
hội lần thứ nhất tại Minsk vào năm 1898 không để lại biên bản nào; tuyên
ngôn được công bố sau đó cũng không được Đại hội thông qua mà do P. B.
Struve[39] soạn theo đề nghị của một ủy viên Ban chấp hành Trung ương.
Như vậy là Toàn tập biên bản Đại hội II đảng Công nhân xã hội dân chủ
Nga xuất bản ở Geneva vào năm 1903 là di sản đầu tiên, nếu tính về thời
gian và vì vậy mà đặc biệt đáng chú ý, về tư duy của một bộ phận giới
trí thức Nga, những người đã tự động đứng vào hàng ngũ của đảng Dân
chủ-xã hội, về vấn đề pháp quyền và dân chủ. Việc các biên bản này thể
hiện ý kiến của giới trí thức chứ không phải là của các đảng viên “đảng
công nhân” theo đúng nghĩa của từ này đã được một người tham gia đại hội
và là một trong các lãnh tụ tinh thần của phong trào dân chủ-xã hội Nga
thời đó, tức là ông Starover[40] (A. H. Potresov) viết trong bài báo
Bàn về chủ nghĩa Marx trong các nhóm và về phong trào dân chủ-xã hội của
giới trí thức[41].
Bìa sách Bàn về tinh thần pháp luật
Ở đây, chúng ta không thể ghi nhận hết các trường hợp thảo luận, khi mà
sự thiếu vắng ý thức pháp quyền và sự thiếu hiểu biết ý nghĩa của sự
thật pháp lý của một số đại biểu đã làm người ta phải kinh hoàng. Chỉ
cần nói rằng ngay cả các lãnh tụ tinh thần và lãnh đạo đảng củng thường
bảo vệ những quan điểm trái ngược với các nguyên tắc pháp quyền. Thí dụ
như G. V. Plekhanov[42], người đã có đóng góp nhiều nhất trong việc tố
cáo các ảo tưởng dân túy của giới trí thức Nga, người có công soạn thảo
ra các nguyên tắc dân chủ-xã hội trong suốt hai mươi năm qua và được
công nhận một cách xứng đáng là lý thuyết gia nổi tiếng của đảng, đã
phát biểu trước đại hội về tính tương đối của tất cả các nguyên tắc dân
chủ, tức đồng nghĩa với việc phủ nhận trật tự pháp luật ổn định và bền
vững và phủ nhận ngay chính chế độ lập hiến. Theo ông thì “từng nguyên
tắc dân chủ phải được xem xét không phải theo lối trừu tượng mà phải xem
xét trong quan hệ với nguyên tắc có thể gọi là nguyên tắc căn bản của
dân chủ, mà cụ thể là nguyên tắc nói rằng salus populi suprema lex[43] .
Dịch sang ngôn ngữ của nhà cách mạng, câu đó có nghĩa là: thắng lợi của
cách mạng là trên hết. Và sẽ là có tội nếu không tạm thời giới hạn hiệu
lực của một nguyên tắc dân chủ nào đó nếu việc giới hạn đó có ích cho
sự nghiệp của cách mạng. Xin nói ý kiến cá nhân tôi rằng ngay cả nguyên
tắc phổ thông đầu phiếu cũng phải được xem xét từ nguyên tắc dân chủ căn
bản mà tôi vừa nói bên trên. Có thể giả định trường hợp, khi chúng ta,
những người dân chủ-xã hội đưa ra ý kiến phản đối quyền phổ thông đầu
phiếu.
Giai cấp tư sản Ý đã từng tuớc bỏ quyền chính trị của
những người thuộc giới quý tộc. Giai cấp vô sản cách mạng cũng có thể
giới hạn quyền chính trị của các đẳng cấp trên tương tự như các đẳng cấp
bên trên đã từng hạn chế quyền chính trị của vô sản vậy. Lợi ích của
biện pháp trên chỉ có thể được xem xét từ nguyên tắc salus revolutiae
suprema lex[44]. Chúng ta phải đứng trên quan điểm này ngay cả khi nói
về vấn đề thời hạn của quốc hội. Nếu nhân dân, trong cao trào cách mạng,
bầu được một quốc hội tốt - theo kiểu chambre introuvable[45] - thì
chúng ta cần phải làm cho nó sống lâu, còn nếu các cuộc bầu cử tỏ ra là
không thành công thì chúng ta phải tìm cách giải tán, không phải sau hai
năm mà nếu có thể thì sau hai tuần[46]”.
Tư tưởng về thế
thượng phong của bạo lực và quyền lực cướp đoạt được chứ không phải tư
tưởng về sự thượng tôn của pháp luật được tuyên xưng trong bài phát biểu
này quả là một tư tưởng cực kỳ quái đản. Ngay cả một số đại biểu Đại
hội, những người đã quen khuất phục những lực lượng xã hội, cũng tỏ ra
bất mãn với cách đặt vấn đề như thế. Một số người chứng kiến kể lại rằng
sau bài phát biểu, một số người thuộc phái BUND[47], tức là những đại
diện cho các thành phần xã hội thân phương Tây hơn, đã hô lớn: “Đồng chí
Plekhanov có tước quyền tự do ngôn luận và quyền bất khả xâm phạm của
tư sản không?”. Nhưng đây không phải là những lời phát biểu chính thức
nên không được ghi vào biên bản. Tuy nhiên cần ghi nhận rằng một vài
diễn giả, những người thuộc phái thiểu số, sau đó đã tuyên bố phản đối
bài phát biểu của Plekhanov. Ông Egorov, một đại biểu của Đại hội, đã
nhận xét rằng “quy luật của chiến tranh là một chuyện, còn quy luật của
hiến pháp lại là chuyện khác, đồng chí Plekhanov quên là những người dân
chủ xã hội thiết lập cương lĩnh của mình trên cơ sở của hiến pháp”. Ông
Goldblat, một đại biểu khác, thì cho rằng bài phát biểu của Plekhanov
là “sự thất bại của chiến thuật tư sản. Nếu là người nhất quán, theo
Plekhanov, ta phải loại bỏ đòi hỏi quyền phổ thông đầu phiếu ra khỏi
cương lĩnh của phong trào dân chủ-xã hội”.
Dù sao mặc lòng, bài
phát biểu nói trên của Plekhanov, không nghi ngờ gì nữa, là chỉ dấu
chứng tỏ không chỉ mức độ nhận thức pháp quyền cực kỳ thấp của giới trí
thức của chúng ta mà còn cho thấy xu hướng muốn xuyên tạc nó nữa. Ngay
cả các lãnh tụ lỗi lạc nhất của nó cũng sẵn sàng nhân danh những lợi ích
ngắn hạn mà từ bỏ những nguyên tắc hiển nhiên của chế độ pháp quyền. Dễ
hiểu là với nhận thức pháp quyền như thế, giới trí thức Nga trong giai
đoạn đấu tranh giải phóng, trên thực tế, đã không thể thực hiện được
ngay cả những quyền sơ đẳng nhất của con người, đấy là tự do ngôn luận
và tự do hội họp. Trong các cuộc míttinh của chúng ta, chỉ những diễn
giả được lòng đám đông mới có quyền tự do ngôn luận, những người có tư
duy khác biệt với đám đông thường bị bịt miệng bởi những tiếng hò hét,
huýt sáo, tiếng kêu “đủ rồi”, thậm chí đôi khi còn bị tác động vào thân
thể nữa. Việc tổ chức các cuộc míttinh đã trở thành đặc quyền của một
vài nhóm người và vì vậy mà đa số các cuộc míttinh đã mất một phần ý
nghĩa và cuối cùng thì chẳng còn ai coi trọng nữa. Rõ ràng là, từ đặc
quyền tổ chức míttinh và quyền tự do ngôn luận của một số ít người trong
những cuộc míttinh như thế không thể nào hình thành được tự do ngôn
luận thật sự trong việc thảo luận những vấn đề chính trị; từ đó chỉ có
thể hình thành một kiểu đặc quyền khác, tức là đặc quyền của các nhóm
đối lập trong việc xin phép tổ chức míttinh mà thôi.
Nhận thức
què quặt về pháp quyền cũng là nguyên nhân dẫn đến kết quả yếu kém đáng
kinh ngạc về mặt lập pháp trong những năm cách mạng (1905-1907 - ND).
Trong những năm đó, giới trí thức Nga đã thể hiện sự mù tịt về quá trình
lập pháp; họ không biết ngay cả chân lý cơ bản là không thể bãi bỏ một
cách đơn giản pháp luật cũ được vì việc bãi bỏ chỉ có hiệu quả khi nó
được thay bằng pháp luật mới. Ngược lại, việc bãi bỏ một cách đơn giản
chỉ có thể dẫn tới sự kiện là tạm thời dường như nó không có hiệu lực
nhưng sau đó nó sẽ được phục hồi hoàn toàn. Điều này thể hiện rõ ở việc
thực hiện một cách tuỳ tiện quyền tự do hội họp. Giới trí thức của chúng
ta hóa ra đã không có khả năng thiết lập ngay lập tức khuôn khổ pháp lý
cho quyền tự do này. Thậm chí, trong những cuộc tranh luận tại Duma
quốc gia thứ nhất về “dự luật” tự do hội họp, người ta còn định nâng sự
thiếu vắng bất kỳ hình thức pháp lý nào về tự do hội họp thành luật nữa.
Nhân những vụ tranh luận này, một đại biểu Duma cũng là một luật sư nổi
tiếng đã có nhận xét hoàn toàn đúng rằng “việc tuyên bố một cách trụi
lủi quyền tự do hội họp trên thực tế có thể dẫn đến kết quả là trong một
số trường hợp nhân dân có thể đứng lên chống lại việc lạm dụng quyền
này. Dù các cơ quan hành pháp có chưa hoàn thiện đến đâu thì giao cho nó
việc bảo vệ các công dân khỏi sự lạm dụng này vẫn an toàn hơn và đúng
hơn là để mặc cho các cá nhân trấn áp lẫn nhau”. Theo ông thì “chính
những người, về mặt lý thuyết, đứng ra bảo vệ việc sự không can thiệp
của quan chức chính phủ, trên thực tế lại phàn nàn và trách cứ các bộ
trưởng vì chính quyền không can thiệp để bảo vệ quyền tự do và cuộc sống
của những cá nhân riêng lẻ”. “Sự thiếu nhất quán như thế”, ông nói
thêm, “là do thiếu kiến thức pháp luật mà ra[48]”. Bây giờ thì chúng ta
được chứng kiến ngay tại kỳ họp thứ ba của Duma quốc gia mọi người cũng
không được hưởng hoàn toàn quyền tự do ngôn luận vì trong khi thảo luận
cùng một vấn đề thì đảng cầm quyền và đảng đối lập đã không có quyền tự
do ngôn luận như nhau. Điều này còn đáng buồn hơn nữa vì cơ quan đại
diện của nhân dân, không phụ thuộc vào thành phần của nó, ít nhất cũng
phải thể hiện được lương tâm của toàn dân, tối thiểu là thể hiện được
đức hạnh của nó.
5. Nhận thức pháp quyền của bất cứ dân tộc nào
cũng được thể hiện trong khả năng tạo ra các tổ chức và thiết lập các
hình thức hoạt động cho các tổ chức đó. Không thể có các tổ chức và hình
thức hoạt động của chúng nếu không có các quy phạm pháp luật điều chỉnh
chúng, vì vậy việc hình thành các tổ chức nhất thiết phải đi kèm với
việc soạn thảo các quy phạm pháp luật. Nhân dân Nga nói chung không phải
là không có tài tổ chức, không nghi ngờ gì rằng họ còn cố tạo ra những
tổ chức cực kỳ chặt chẽ nữa, ước muốn sống theo lối công xã, ruộng đất
công xã, tập đoàn sản xuất... đã chứng tỏ điều đó. Nhận thức về đúng và
sai trong tâm hồn người dân quyết định đời sống và cách xây dựng các tổ
chức này. Bản chất nội tại của nhận thức pháp quyền của nhân dân Nga là
nguyên nhân của quan niệm sai lầm về thái độ của dân chúng đối với pháp
luật. Nó tạo cớ cho trước tiên là những người thân Slav và sau đó là
những người dân túy cho rằng nhân dân Nga xa lạ với các “nguyên tắc pháp
lý”; rằng dựa vào nhận thức nội tâm, họ chỉ hành động theo các tiêu
chuẩn đạo đức mà thôi. Dĩ nhiên là trong nhận thức của nhân dân Nga, các
tiêu chuẩn luật pháp và tiêu chuẩn đạo đức vẫn còn chưa được tách biệt
và vẫn còn liên kết chặt chẽ với nhau. Đấy cũng là nguyên nhân của sự
khiếm khuyết trong luật thông thường của nhân dân Nga; nó không có sự
thống nhất và hơn nữa còn xa lạ với tiêu chuẩn của bất kỳ luật pháp
thông thường nào: một cách áp dụng duy nhất cho mọi hoàn cảnh.
Nhưng chính vì thế mà giới trí thức phải giúp đỡ nhân dân, thúc đẩy cho
sự phân hóa các tiêu chuẩn của luật pháp thông thường cũng như áp dụng
luật một cách ổn định và phát triển luật pháp một cách có hệ thống. Chỉ
khi đó giới trí thức dân túy mới có thể thực hiện được nhiệm vụ đặt ra
là củng cố và phát triển các nguyên tắc của công xã, đồng thời tạo điều
kiện để nâng nó lên thành những hình thức cao hơn, tiến dần lên chế độ
xã hội chủ nghĩa. Quan niệm sai lầm, tức là ý kiến cho rằng nhận thức
của nhân dân ta hoàn toàn theo hướng đạo đức là trở lực cho việc thực
hiện nhiệm vụ này và dẫn ước mơ của trí thức đến chỗ phá sản. Không thể
xây dựng được một hình thức xã hội cụ thể nào nếu dựa trên cơ sở luân lý
như thế. Đấy là quan niệm trái tự nhiên, nó sẽ dẫn tới việc tiêu diệt
và làm mất uy tín của đạo đức và sẽ làm cùn mòn thêm nhận thức pháp
quyền.
Bất kỳ tổ chức xã hội nào cũng cần các tiêu chuẩn pháp
lý, nghĩa là cần những quy định điều chỉnh không phải phẩm hạnh của con
người, vốn là nhiệm vụ của luân lý mà là những quy định điều chỉnh hành
vi bên ngoài của họ. Mặc dù các tiêu chuẩn pháp lý điều chỉnh hành vi
bên ngoài của chúng ta nhưng chúng không sống ở bên ngoài mà sống trước
hết trong nhận thức của chúng ta và là thành tố nội tại của tâm hồn con
người, giống như các tiêu chuẩn đạo đức vậy. Chỉ khi được thể hiện trong
các điều khoản luật pháp hoặc được áp dụng vào đời sống thì chúng mới
có đời sống ngoại tại mà thôi. Nhưng khi bỏ qua nhận thức bên trong hay
như bây giờ người ta gọi là luật trực giác, giới trí thức của chúng ta
đã coi luật pháp chỉ là các tiêu chuẩn bên ngoài, thiếu sức sống, tức là
các tiêu chuẩn được đưa một cách dễ dàng vào các điều khoản, các mục
của luật pháp hay quy định thành văn nào đó. Điều đặc biệt là bên cạnh
ước muốn xây dựng những hình thức xã hội phức tạp chỉ trên cơ sở các
nguyên tắc đạo đức thì trong các tổ chức của mình, giới trí thức của
chúng ta lại tỏ ra cực kỳ say mê các quy tắc mang tính hình thức và
những quy định rất cụ thể; trong trường hợp này họ đã thể hiện sự tin
tưởng quá đáng vào các điều và các khoản của nội quy của tổ chức. Hiện
tượng này, chứng tỏ một sự mâu thuẩn rất khó hiểu, có nguyên nhân ở chỗ
giới trí thức của chúng ta coi tiêu chuẩn pháp lý không phải là nhận
thức mà chỉ là các nguyên tắc được viết ra giấy mà thôi.
Chúng
ta bắt gặp ở đây một trong những biểu hiện điển hình nhất của trình độ
nhận thức pháp quyền yếu kém. Như mọi người đều biết, xu hướng đưa ra
các quy định chi tiết và điều chỉnh toàn bộ đời sống xã hội bằng những
điều luật thành văn là bản chất của nhà nước cảnh sát, nó chính là chỉ
dấu phân biệt với nhà nước pháp quyền. Có thể nói rằng nhận thức pháp
quyền của giới trí thức của chúng ta đang ở trong giai đoạn phát triển
tương đương với các hình thức của nhà nước cảnh sát. Tất cả các đặc điểm
phổ biến của nhà nước cảnh sát đều được thể hiện trong các xu hướng
hướng đến chủ nghĩa hình thức và quan liêu trong giới trí thức của chúng
ta. Người ta thường đặt chế độ quan liêu đối lập với giới trí thức và
về mặt nào đó thì đúng là như thế. Nhưng sẽ xuất hiện một loạt câu hỏi
trong sự so sánh như thế: giới quan liêu có xa lạ với giới trí thức đến
như thế hay không, giới quan liêu của chúng ta chẳng phải là hậu duệ của
giới trí thức hay sao, giới quan liêu không sống bằng nguồn sữa từ giới
trí thức hay sao và cuối cùng, liệu giới trí thức có lỗi không khi mà ở
nước ta đã hình thành nên một bộ máy quan liêu hùng mạnh đến như thế?
Không còn nghi ngờ nữa rằng toàn bộ giới trí thức của chúng ta đã nhiễm
thói quan liêu trí thức. Thói quan liêu này được thể hiện trong tất cả
các tổ chức của trí thức, đặc biệt là trong các đảng phái chính trị của
nó.
Các chính đảng của chúng ta xuất hiện trong giai đoạn trước
cách mạng (1905-1907 - ND). Tham gia vào các đảng đó là những người
chân thành, với những mơ ước đầy lý tưởng, những người không có thành
kiến và đã phải chịu nhiều hy sinh. Tưởng rằng những người này có thể
đưa được một phần lý tưởng của mình vào các tổ chức tự do của họ. Nhưng
thay vì thế chúng ta lại được chứng kiến sự bắt chước chẳng khác gì nô
lệ các lề thói quái gở điển hình của đời sống quốc gia Nga.
Xin
lấy ngay đảng Dân chủ-xã hội làm thí dụ. Như đã nói, điều lệ đảng được
thông qua tại Đại hội lần thứ II. Điều lệ đối với tổ chức cũng tương
đương như hiến pháp đối với nhà nước. Điều lệ quyết định tổ chức của
đảng là cộng hòa hay quân chủ, nó quyết định tính chất quý tộc hay dân
chủ cho các cơ quan trung ương, và xác định quyền của các đảng viên
thường trong quan hệ với toàn đảng. Có thể cho rằng điều lệ đảng của
những người tuyệt đối tin tưởng vào chế độ cộng hòa chắc chắn sẽ bảo đảm
cho các đảng viên sự đảm bảo tối thiểu đối với quyền tự do ngôn luận và
thể chế pháp quyền. Nhưng như đã thấy, đối với các đại diện của giới
trí thức của chúng ta, khi cần không phải là tuyên bố các nguyên tắc mà
là thực thi các nguyên tắc trong cuộc sống thì quyền tự quyết của cá
nhân và thể chế cộng hòa chỉ là chuyện vặt, không đáng để tâm. Trong
điều lệ được thông qua tại Đại hội Đảng, chẳng có một cơ quan tự do nào
được thành lập hết. Martov[49], lãnh tụ của nhóm thiểu số tại Đại hội đã
nói về điều lệ như sau: “Cùng với đa số thành viên Ban biên tập Ngọn
lửa nhỏ, tôi nghĩ rằng Đại hội sẽ chấm dứt “tình trạng phong tỏa” trong
nội bộ Đảng và thiết lập một trật tự bình thường. Trên thực tế tình
trạng phong tỏa với những điều luật đặc biệt nhằm chống lại một số nhóm
vẫn tiếp tục, thậm chí còn gay gắt hơn[50]”. Nhưng điều này không làm
cho Lenin, lãnh tụ phe đa số, người đòi phải thông qua điều lệ với “tình
trạng phong tỏa”, lúng túng. Ông đã phát biểu như sau: “Tôi hoàn toàn
không sợ những ngôn từ khủng khiếp như “tình trạng phong tỏa”, như
“những điều luật đặc biệt” nhằm chống lại một vài cá nhân hay một vài
nhóm, v.v... Đối những phần tử bấp bênh và dao động, chúng ta không chỉ
có thể mà phải tạo ra “tình trạng phong tỏa” và toàn bộ điều lệ của
chúng ta, chủ nghĩa tập trung được Đại hội thông qua chính là “tình
trạng phong tỏa” đối với các nguồn gốc chính trị mơ hồ. Muốn chống lại
sự mơ hồ thì cần phải có các điều luật đặc biệt và bước đi mà Đại hội
đưa ra đã xác định đúng phương hướng chính trị, đã tạo cơ sở vững chắc
cho những điều luật và biện pháp như thế[51]”. Nhưng nếu cái đảng gồm
toàn những người trí thức theo tư tưởng cộng hòa mà còn không thể không
dùng tình trạng phong tỏa và các điều luật đặc biệt thì dễ hiểu là vì
sao cho đến nay nước Nga vẫn còn bị cai trị bởi cảnh sát đặc biệt và
tình trạng chiến tranh.
Để thấy được các khái niệm pháp quyền
đang ngự trị trong giới trí thức cấp tiến của chúng ta cần phải chỉ ra
rằng điều lệ với “tình trạng phong tỏa” được thông qua chỉ với hai phiếu
quá bán. Như vậy là trái với nguyên tắc pháp lý căn bản, nói rằng điều
lệ cũng như hiến pháp phải được thông qua trên cơ sở quá bán tuyệt đối.
Lãnh đạo phe đa số của Đại hội đã không thỏa hiệp ngay cả khi mọi người
đều thấy rằng việc thông qua điều lệ với tình trạng phong tỏa như thế sẽ
dẫn đảng đến tình trạng phân liệt, một tình trạng buộc người ta phải
thỏa hiệp. Kết quả đã dẫn đến sự chia rẽ giữa những người “bolshevik” và
những người “melshevik”. Nhưng thú vị nhất là cái điều lệ vốn là nguyên
nhân của sự chia rẽ cũng hoàn toàn không thể áp dụng được trên thực tế.
Vì vậy, chưa đến hai năm sau, tức là vào năm 1905, tại Đại hội III, gồm
toàn những người “bolshevik” (những người “melshevik” từ chối tham gia
để phản đối cách bầu đại biểu dự Đại hội), điều lệ thông qua năm 1903 bị
hủy bỏ, một điều lệ khác, có thể chấp nhận được với cả những người
“melshevik”, đã được thông qua. Nhưng điều này đã không dẫn đến sự thống
nhất của đảng. Xuất phát điểm chỉ là vấn đề tổ chức, “melshevik” và
“bolshevik” đã đẩy sự thù địch đến mức cao nhất, tức là sang tất cả các
vấn đề sách lược. Ở đây các quy luật tâm lý-xã hội đã bắt đầu có hiệu
lực, và kết quả sẽ là: một khi mâu thuẫn và sự thù nghịch giữa con người
với nhau đã xuất hiện thì vì bản chất nội tại của chúng mà chúng sẽ mở
rộng và tự khoét sâu thêm mãi ra. Nói cho ngay, những người có nhận thức
cao về pháp quyền sẽ đè nén được các tình cảm đó và không cho chúng mở
rộng được ảnh hưởng. Nhưng chỉ có những người nhận thức một cách rõ ràng
rằng mọi tổ chức và nói chung mọi sinh hoạt xã hội chỉ có thể diễn ra
trên cơ sở thỏa hiệp mới làm được như thế mà thôi. Giới trí thức của
chúng ta dĩ nhiên là không có khả năng đó vì trình độ nhận thức pháp
quyền của họ chưa đủ để có thể công khai thừa nhận nhu cầu của thỏa
hiệp, những người có tính nguyên tắc ở nước ta rất khó thỏa hiệp, nếu có
thì cũng hoàn toàn dựa trên quan hệ cá nhân.
Niềm tin vào sức
mạnh toàn năng của điều lệ và các biện pháp cưỡng ép không phải là tính
chất của riêng những người dân chủ-xã hội Nga. Đấy là căn bệnh của toàn
thể giới trí thức của chúng ta. Tất cả các chính đảng của chúng ta đều
thiếu nhận thức pháp quyền sống động và có hiệu lực thực sự. Chúng tôi
có thể dẫn thêm những thí dụ tương tự từ một đảng xã hội chủ nghĩa nữa,
tức là đảng của những người xã hội cách mạng hay các tổ chức tự do khác,
như Liên minh giải phóng, nhưng đáng tiếc không thể làm được vì có quá
nhiều sự kiện. Chỉ xin lưu ý một tính chất đặc thù nhất của các chính
đảng của chúng ta. Đấy là, không thấy ở đâu người ta nói nhiều về kỷ
luật đảng như ở nước ta, trong tất cả các đảng, tại tất cả các đại hội,
đều có những buổi thảo luận không dứt về các yêu cầu tuân thủ kỷ luật.
Dĩ nhiên là nhiều người nói rằng các tổ chức công khai là công việc mới
mẻ và quả là có một phần sự thật trong những lời biện hộ như thế. Nhưng
đấy không phải là toàn bộ và không phải là điểm chính. Nguyên nhân chủ
yếu nhất là giới trí thức của chúng ta còn xa lạ với các quan điểm pháp
quyền, tức là các quan điểm tạo ra kỷ luật ngay từ bên trong. Chúng ta
cần các biện pháp kỷ luật bên ngoài vì chúng ta không có kỷ luật từ bên
trong. Ở đây chúng ta cũng quan niệm pháp luật không phải là nhận thức
mà là các biện pháp cưỡng bức. Và một lần nữa điều đó chứng tỏ trình độ
nhận thức pháp quyền của chúng ta còn thấp.
6.
Trong
khi nhận xét về nhận thức pháp quyền của giới trí thức Nga, chúng ta đã
xem xét thái độ của nó trên hai bình diện: quyền cá nhân và thái độ đối
với trật tự luật pháp khách quan. Chúng ta đã thử xác định nhận thức
pháp quyền thể hiện trong việc giải quyết các vấn đề tổ chức, nghĩa là
các vấn đề căn bản của quyền hiến định theo nghĩa rộng nhất của từ này.
Dựa vào thí dụ là các tổ chức của trí thức, chúng ta đã cố gắng tìm hiểu
xem liệu trí thức của chúng ta có khả năng tham gia vào việc tái tổ
chức nhà nước về mặt pháp luật, nghĩa là chuyển quyền lực nhà nước từ
quyền lực của sức mạnh sang quyền lực của luật pháp hay không. Nhưng
nhận xét của chúng ta sẽ không đầy đủ nếu bỏ qua thái độ của giới trí
thức Nga đối với tòa án. Tòa án là cơ quan trong đó pháp luật được viện
dẫn và được thiết lập. Mọi dân tộc, trước khi các tiêu chuẩn pháp luật
được xác định bằng con đường lập pháp thì các tiêu chuẩn này đã được tìm
kiếm và thiết lập thông qua các quyết định của tòa án. Các bên, trong
khi đưa những vấn đề tranh chấp lên cho tòa án giải quyết nhằm bảo về
quyền lợi của mình; mỗi bên đều dựa vào tiêu chuẩn pháp lý khách quan để
chứng minh là “mình đúng”. Trong phán quyết của mình, quan tòa, dựa
trên nhận thức pháp lý chung, đưa ra quyết định có uy tín về tiêu chuẩn
pháp lý. Quan tòa chỉ có thể giữ vững được ngọn cờ pháp luật và đưa được
điều luật mới vào cuộc sống khi ông ta được nhận thức pháp lý sống động
và tích cực của nhân dân trợ giúp. Sau này, hoạt động lập pháp của tòa
án và quan tòa đã bị hoạt động lập pháp của nhà nước lấn át. Các chế độ
lập hiến đã tạo ra cơ quan lập pháp dưới hình thức cơ quan đại diện của
nhân dân, tức là cơ quan có trách nhiệm thể hiện một cách trực tiếp nhận
thức pháp quyền của nhân dân. Nhưng ngay cả hoạt động lập pháp của cơ
quan đại diện cũng không thể loại bỏ được giá trị của tòa án trong việc
giữ vững tinh thần thượng tôn pháp luật trong quốc gia. Trong nhà nước
hiến định hiện đại, tòa án chính là người bảo vệ pháp luật hiện hành;
nhưng trong khi áp dụng luật pháp, tòa án còn tiếp tục là thực thể sáng
tạo ra luật mới nữa. Trong mấy chục năm gần đây, chính các nhà luật học
đã lưu ý đến sự kiện là tòa án vẫn giữ vai trò đó mặc dù hệ thống lập
pháp hiện hành đã làm cho vai trò của tòa án có ý nghĩa cao hơn. Quan
điểm mới về tòa án như thế đã bắt đầu thâm nhập vào những bộ luật mới
nhất. Luật dân sự của Thụy Sĩ được cả hai Viện thống nhất ban hành ngày
10 tháng 12 năm 1907 đã thể hiện quan điểm đó bằng các thuật ngữ hiện
đại; điều thứ nhất của bộ luật này nói rằng trong những trường hợp khi
tiêu chuẩn pháp luật còn chưa có thì quan tòa phán xét trên cơ sở quy
định mà ông tự đặt ra như thể “nếu ông là một nhà lập pháp”. Như thế
nghĩa là ở các nước dân chủ và tiến bộ, quan tòa cũng được công nhận là
người thể hiện nhận thức pháp quyền của nhân dân giống như đại biểu của
cơ quan lập pháp vậy; đôi khi quan tòa còn có nhiều quyền hơn vì ông ta
có thể tự mình quyết định, mặc dù không phải là quyết định chung cuộc vì
nhờ hệ thống đa cấp mà vụ việc có thể được đưa lên tòa án cấp trên. Tất
cả điều đó chứng tỏ rằng nhân dân với nhận thức pháp quyền cao cần phải
quan tâm đến và kính trọng tòa án vì đấy là cơ quan bảo vệ và thể hiện
trật tự pháp luật của mình.
Bìa cuốn sách "Bàn về khế ước xã hội"
Giới trí thức của chúng ta có thái độ với tòa án như thế nào? Xin ghi
nhận rằng việc tổ chức tòa án của chúng ta được thực hiện theo Quy chế
Tòa án do Alexander II ban hành ngày 20 tháng 11 năm 1864 theo các
nguyên tắc hoàn toàn phù hợp với các yêu cầu đối với tòa án trong một
nhà nước pháp quyền. Tòa án với cách tổ chức như thế có thể dùng để phổ
biến trật tự pháp luật chân chính. Những người hoạt động trong lĩnh vực
cải cách tòa án đã mong ước dùng những tòa án kiểu mới để chuẩn bị đưa
nước Nga vào thể chế pháp quyền. Những tòa án được cải cách với thành
phần nhân sự của mình đã gây được những niềm hy vọng tươi sáng nhất. Ban
đầu xã hội đã tỏ ra có thiện cảm và yêu mến các tòa án kiểu mới. Nhưng
nay, sau bốn mươi năm, chúng ta phải công nhận rằng đấy chỉ là ảo tưởng
và chúng ta vẫn chưa có các tòa án tốt. Nói cho ngay, người ta đã chỉ ra
rằng ngay sau khi được đưa vào áp dụng và cho đến nay Quy chế đã bị sửa
đổi mấy lần. Đúng là như thế, việc sửa chữa chủ yếu được thực hiện theo
hai hướng: thứ nhất, một loạt vụ án, thường là các vụ án chính trị phải
theo các hình thức điều tra và tòa án đặc biệt; thứ hai, sự độc lập của
các quan tòa ngày càng giảm và tòa án càng ngày càng rơi vào tình trạng
lệ thuộc hơn. Chính phủ làm việc đó để theo đuổi các mục tiêu chính
trị. Và điều đặc biệt là nó đã thôi miên công luận và làm cho công luận
chỉ còn chú trọng đến vai trò chính trị của tòa án nữa mà thôi. Ngay cả
tòa hội thẩm cũng chỉ có hai quan điểm: chính trị hay là nhân đạo chung
chung; trong trường hợp tốt nhất thì trong các phiên tòa hội thẩm ta có
thể gặp tòa án lương tâm theo nghĩa nhân đạo tiêu cực chứ không phải là
nhận thức pháp quyền tích cực. Dĩ nhiên là trong những điều kiện xã hội
của chúng ta quan điểm chính trị đối với tòa hình sự là không thể tránh
được. Cuộc đấu tranh bảo vệ pháp luật nhất định biến thành cuộc đấu
tranh cho một lý tưởng chính trị nào đó.
Nhưng thái độ bàng
quan của xã hội đối với tòa dân sự làm người ta phải ngạc nhiên. Các
tầng lớp xã hội rộng lớn không hề quan tâm tới tổ chức và hoạt động của
nó. Báo chí của chúng ta không hề nghiên cứu ý nghĩa của nó đối với sự
phát triển pháp luật của chúng ta, báo chí không đưa những tin tức quan
trọng, đấy là nói về khía cạnh pháp luật, mà nếu có nói thì đấy chỉ là
các vụ có tính giật gân mà thôi. Trong khi đó, nếu giới trí thức kiểm
soát và điều chỉnh tòa dân sự, tức là loại tòa án tương đối độc lập, thì
nó có thể có ảnh hưởng rất lớn trong việc củng cố và phát triển trật tự
pháp lý của chúng ta. Khi nói về sự bấp bênh của trật tự pháp lý trong
lĩnh vực dân sự, người ta thường nhắm vào sự khiếm khuyết của luật pháp
trong lĩnh vực vật chất. Quả thật là bộ luật của chúng ta quá cổ lỗ,
hoàn toàn không có luật thương mại, một số lĩnh vực dân sự khác cũng hầu
như không được điều chỉnh bằng các tiêu chuẩn pháp luật thành văn.
Nhưng như thế thì tòa dân sự càng phải có vai trò quan trọng hơn. Các
dân tộc có nhận thức pháp quyền phát triển như người La Mã hay người
Anh, trong những điều kiện tương tự, đã có một hệ thống pháp luật bất
thành văn rất phát triển, còn ở nước ta trật tự pháp luật vẫn ở trong
tình trạng bấp bênh như cũ. Dĩ nhiên là chúng ta cũng có luật pháp hình
thành trên cơ sở các quyết định của tòa án, không có nó thì chúng ta
không thể tồn tại được và điều đó bắt nguồn từ sự kiện là tòa án của
chúng ta đã hoạt động thường xuyên. Nhưng không có nước nào mà hoạt động
của tòa phúc thẩm tối cao lại bấp bênh và mâu thuẫn như ở ta; không có
tòa phúc thẩm nào lại thường xuyên hủy bỏ quyết định của chính mình như
là thượng viện của chúng ta. Không nghi ngờ gì rằng xã hội ta, một xã
hội bàng quan với sự ổn định và tính đúng đắn của trật tự luật pháp
trong lĩnh vực dân sự, phải chịu phần lớn trách nhiệm trong sự bấp bênh
của tòa phúc thẩm tối cao. Ngay cả các nhà luật học của chúng ta cũng ít
quan tâm đến vấn đề này và vì vậy mà vẫn chưa có quy định về phương
thức hoạt động của tòa phúc thẩm. Chúng ta không có cả cơ quan ngôn luận
chuyên trách về vấn đề này, tờ tuần báo duy nhất là tờ Pháp luật,
chuyên về việc bảo vệ và soạn thảo luật hình thức, thì mới tồn tại được
đúng mười năm.
Sự bàng quan của xã hội đối với trật tự pháp
luật trong lĩnh vực dân sự càng làm người ta kinh ngạc hơn vì nó liên
quan đến những quyền lợi sống còn và sát sườn của xã hội. Đây là những
vấn đề thường nhật, việc điều chỉnh đời sống vật chất, gia đình và xã
hội của chúng ta phụ thuộc vào việc giải quyết các vấn đề như thế.
Nhận thức pháp quyền của xã hội ta như thế nào thì tòa án của ta như
thế ấy. Chỉ có một vài người từ những tòa án thời kỳ đầu cải cách là tạo
được ảnh hưởng tích cực đối với nhận thức pháp quyền của xã hội mà
thôi, còn trong hai chục năm gần đây không có bất cứ một quan tòa nào
nổi tiếng và cũng chẳng có người nào chiếm được cảm tình của xã hội. Về
các hội đồng thẩm phán thì càng chẳng có gì để nói. “Quan tòa” không
phải là danh hiệu đầy vinh dự, chứng tỏ đức tính chí công vô tư, hào
hiệp, chỉ phụng sự pháp luật như ở các nước khác. Ở nước ta không có tòa
hình sự vô tư, không thiên vị; hơn thế nữa, tòa hình sự của chúng ta đã
trở thành một loại phương tiện báo thù. Ở đây, dĩ nhiên là các lý do
chính trị đóng vai trò quyết định. Nhưng tòa dân sự cũng còn lâu mới đáp
ứng được nhiệm vụ của mình. Sự dốt nát, thái độ tắc trách của một số
quan tòa làm người ta kinh ngạc, đa số chẳng hề quan tâm, chẳng hề suy
nghĩ và không nhận thức được tầm quan trọng và trách nhiệm của mình đối
với cái công việc đòi hỏi phải suy nghĩ không ngừng nghỉ như thế. Những
người có hiểu biết về tòa án của chúng ta khẳng định rằng những vụ hơi
khó khăn và phức tạp đều không được giải quyết trên cơ sở của luật pháp
mà là do một sự ngẫu nhiên nào đó. Trong trường hợp tốt nhất thì một
quan tòa thông minh và được ủy thác, trong khi xét xử một vụ nào đó,
cũng chỉ đưa ra những bằng chứng có lợi cho người ủy thác mà thôi. Nhưng
thường thì ngay cả sự giả vờ đó cũng không phải là điều quyết định mà
quyết định đối với vụ án lại là những tính toán ở bên ngoài. Dân chúng
Nga thường không biết ý nghĩa của tòa án và không tôn trọng nó; điều này
thể hiện rất rõ trong hai thành phần tham gia phiên tòa là người làm
chứng và giám định viên. Chúng ta buộc phải công nhận rằng nhiều người
làm chứng và giám định viên hoàn toàn không nhận thức được nhiệm vụ của
mình: giúp tìm ra sự thật. Thái độ khinh xuất đối với nhiệm vụ này thể
hiện rõ trong các thuật ngữ không thể tưởng tượng nổi, nhưng vẫn rất
thịnh hành, thí dụ như “người đáng tin” hay “kẻ làm chứng trung thực”.
Từ lâu đã không còn “tòa án nhanh” để xử các vụ án dân sự nữa, các tòa
án của chúng ta có nhiều việc đến nỗi các vụ việc phải đi qua tất cả các
cấp, kéo dài đến năm năm. Người ta có thể bảo rằng tòa án có quá nhiều
việc và đấy là nguyên nhân chính của thái độ tắc trách và rập khuôn của
quan tòa đối với công việc. Nhưng nếu quan tòa được đào tạo tốt và có
hiểu biết, những người làm trong ngành và xã hội quan tâm đến tòa án hơn
nữa thì công việc chắc chắn sẽ diễn ra trôi chảy hơn, các vụ án sẽ được
giải quyết nhanh hơn, dễ hơn và tốt hơn. Cuối cùng, trong những điều
kiện như thế, trật tự luật pháp sẽ giành được ý nghĩa quyết định và số
lượng các quan tòa của chúng ta cũng không thể ở mãi trong tình trạng
không thể chấp nhận được như hiện nay.
Cuộc cải cách tòa án năm
1864 đã tạo ra những người tự do phụng sự luật pháp, đấy là tầng lớp
luật sư. Nhưng cũng phải công nhận rằng dù đã tồn tại hơn bốn mươi năm,
tầng lớp luật sư cũng chỉ đóng góp được quá ít cho sự phát triển của
nhận thức pháp quyền. Chúng ta đã có những trạng sự biện hộ nổi tiếng
trong lĩnh vực chính trị và hình sự; nhưng nói cho ngay, ở đây cũng có
một số người cổ súy tích cực cho thái độ nhân đạo với phạm nhân, nhưng
còn đa số đều là những người đấu tranh cho một lý tưởng chính trị nào
đó, hay có thể nói cho “luật pháp mới” chứ không phải là “theo luật”
theo đúng nghĩa của từ này. Quá say sưa đấu tranh cho việc hình thành
luật mới, họ thường quên mất luật pháp hình thức và pháp luật nói chung.
Cuối cùng, đôi khi họ còn làm hại cả “luật pháp mới” bởi vì họ được dẫn
đạo bởi các tính toán chính trị chứ không phải luật pháp. Nhưng giới
luật sư lại đóng góp ít hơn cho sự phát triển trật tự luật pháp dân sự. Ở
đây cuộc đấu tranh vì pháp luật thường dễ bị các tính toán khác gạt
sang một bên và các luật sư nổi tiếng của chúng ta thường biến thành
những kẻ “làm ăn” bình thường nữa. Đây là bằng chứng cho thấy tòa án của
chúng ta cũng như nhận thức pháp quyền của chúng ta không những không
ủng hộ cuộc đấu tranh vì luật pháp mà còn có ảnh hưởng theo hướng ngược
lại nữa.
Tòa án không thể có vị trí xứng đáng nếu xã hội không
nhận thức được một cách rõ ràng những nhiệm vụ của nó. Có rất nhiều bằng
chứng cho thấy giới trí thức của chúng ta chưa có nhận thức như thế.
Chỉ cần dẫn ra ở đây các quan điểm được những người đại diện cho nhận
thức pháp quyền của nhân dân phát biểu tại Duma quốc gia thì rõ. Thí dụ,
Aleksinski, đại biểu Duma quốc gia khóa II, thuộc phe cực tả dọa sẽ đưa
kẻ thù của nhân dân ra tòa và nói rằng “đấy sẽ là phiên tòa khủng khiếp
hơn tất cả mọi phiên tòa”. Sau vài buổi họp, Shulgin, đại diện cho phe
cực hữu lại biện hộ cho các tòa án quân sự tại trận rằng như thế còn tốt
hơn là để “cho nhân dân tự xử” và khẳng định rằng việc bãi bỏ các tòa
án quân sự sẽ dẫn tới “những vụ tự xử khủng khiếp nhất”, những người vô
tội sẽ phải gánh chịu hậu quả. Tuy nhiên việc sử dụng sai từ “tòa án”
như thế chứng tỏ rằng quan niệm của các đại biểu của chúng ta về tòa án
thể hiện thế giới quan của thời kỳ khi mà tòa còn “bắt lưu đầy và tịch
thu tài sản”.
Không nên chỉ đổ lỗi cho hoàn cảnh chính trị,
chính chúng ta cũng có lỗi trong việc có những tòa án kém như thế. Trong
những điều kiện chính trị tương tự, tòa án ở các nước khác dù sao cũng
vẫn bảo vệ được pháp luật. Câu ngạn ngữ “Quan tòa ở Berlin” thịnh hành
vào cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX khi mà Phổ vẫn còn là nhà
nước quân chủ chuyên chế chứng tỏ điều đó.
Tất cả câu chuyện về
trình độ nhận thức pháp quyền thấp của giới trí thức của chúng ta không
phải là để kết tội hay lên án. Sự thất bại của cuộc cách mạng Nga và sự
kiện trong những năm gần đây đã là bản án đanh thép đối với giới trí
thức rồi. Bây giờ trí thức phải đi vào thế giới nội tâm, thâm nhập vào
nó để làm tươi mới và bồi bổ thêm cho nó. Trong quá trình lao động như
thế, cuối cùng nhận thức pháp quyền của giới trí thức của chúng ta nhất
định sẽ được đánh thức. Những dòng này được chắp bút với niềm tin và
mong ước cháy bỏng rằng một ngày không xa, nhận thức pháp quyền của giới
trí thức của chúng ta sẽ trở thành lực lượng xây dựng và sáng tạo nên
một đời sống xã hội mới. Trải qua một loạt thử thách đầy cay đắng, giới
trí thức của chúng ta phải đi đến nhận thức rằng bên cạnh các giá trị
tuyệt đối như tự tu dưỡng cá nhân và đức hạnh thì còn có các giá trị
tương đối, giá trị bình thường nhưng bền vững và không gì phá hủy được
như trật tự pháp luật nữa.
Ghi chú cho lần xuất bản thứ hai.
Nhiều người cho rằng thật là bất công khi lên án sự yếu kém trong nhận
thức pháp quyền của giới trí thức vì nó không có lỗi mà đấy là những
điều kiện ngoại tại, tức là sự vô luật pháp đang ngự trị trong đời sống
của chúng ta. Không thể phủ nhận được ảnh hưởng của những điều kiện đó
và nó đã được phản ánh trong bài báo của tôi. Nhưng không được đổ tất cả
cho hoàn cảnh, không được bình thản mà phải công nhận rằng “nhà nước
của chúng ta trong một thời gian dài, phải nói là mấy thế hệ, đã không
giáo dục mà lại còn làm cho chúng ta đổ đốn thêm”, rằng “mấy thế hệ
người Nga được dạy dỗ coi thường luật pháp, cho rằng luật pháp chẳng
những bất lực mà còn không cần thiết nữa”[52]. Nếu chúng ta nhận thức
được tai họa thì chúng ta không thể ngồi yên, lương tâm của chúng ta
không thể bình thản và chúng ta phải đấu tranh với cái nguyên nhân đang
hủ hóa con người của ta ở chính trong ta. Thật không xứng đáng là một
người có tư duy khi phát biểu: chúng ta đã bị hủ hóa rồi và nếu người ta
không gỡ bỏ cái nguyên nhân làm băng hoại kia đi thì chúng ta sẽ còn
tiếp tục hủ hóa như thế nữa. Mọi người đều phải nói: tôi không được sa
đọa như thế nữa vì tôi đã nhận thức được rằng người ta đang làm tôi sa
đọa và tôi biết nguyên nhân của sự sa đọa đó rồi. Chúng ta cần phải mang
hết nghị lực của tư duy, ý chí và tình cảm để giải phóng nhận thức của
mình khỏi những ảnh hưởng tiêu cực do hoàn cảnh không thuận lợi gây ra.
Đấy là lý do vì sao nhiệm vụ của giai đoạn này là đánh thức nhận thức
pháp quyền của giới trí thức Nga và đưa nó vào hành động, đưa nó vào đời
sống.
Chú thích:
B. A. Kistiakovski (1869-1920) là
triết gia, nhà luật học và xã hội học nổi tiếng, đảng viên đảng Dân chủ
lập hiến. Kiến thức về pháp luật Nga của ông sâu sắc đến mức Max Weber
đã chọn ông làm cố vấn khi viết về các đảng phái chính trị ở Nga. Bài
Trí thức và nhận thức pháp quyền được đăng trong Những cột mốc, xuất bản
lần đầu năm 1909.
[1] Thomas Hobbes (1588-1679), triết gia và chính khách người Anh
[2] Sir Robert Filmer (1588-1653), lý thuyết gia chính trị; tác phẩm
Patriacha, or the Natural Power of Kings nói tới ở đây xuất bản năm
1680.
[3] John Milton (1608 - 1674), nhà thơ, nhà văn, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng người Anh.
[4] John Lilburne (1615-1657), nhà hoạt động chính trị người Anh.
[5] John Locke (1632-1704), một trong những triết gia vĩ đại nhất của
châu Âu thế kỷ XVII, tác phẩm Two Treatises of Government (Hai khảo luận
về chính quyền) xuất bản năm 1689, trong đó Khảo luận thứ hai về chính
quyền. Chính quyền dân sự đã được Lê Tuấn Huy dịch, Nhà xuất bản Tri
thức ấn hành năm 2006.
[6] Montesquieu (1689-1755), người tiên
phong trong phong trào Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII. Tác phẩm Bàn về tinh
thần pháp luật được Hoàng Thanh Đạm dịch, Nhà xuất bản Lý luận chính
trị ấn hành năm 2004.
[7] Jean-Jacque Rousseau (1789-1794), tác
phẩm Bàn về khế ước xã hội được Hoàng Thanh Đạm dịch, Nhà xuất bản Lý
luận chính trị ấn hành năm 2004.
[8] Johannes Althusius (1557-1638), triết gia người Đức.
[9] Pufendorf Samuel (1632-1694), luật sư nổi tiếng người Đức.
[10] Thomasius Christian (1655-1728), triết gia người Đức.
[11] Wolff Christian (1679-1754), tư tưởng gia người Đức.
[12] Kant E. (1724-1804), ông tổ của nền triết học cổ điển Đức.
[13] Fichte Johann Gottlieb (1762 - 1814), triết gia nổi tiếng người Đức.
[14] Hegel G. (1770-1831), triết gia người Đức, ông tổ của phép biện chứng.
[15] Herbart Iohann Friedrich (1776-1841), triết học, nhà tâm lý học và giáo dục học nổi tiếng người Đức.
[16] Krause Christian Friedrich (1781-1832), triết gia người Đức.
[17] Fries Jakob Friedrich (1773-1843), triết gia người Đức.
[18] Thibaut (1772-1840), luật gia nổi tiếng người Đức.
[19] Savigny Friedrich Karl (1814-1875), luật gia nổi tiếng người Đức.
[20] Puchta (1798-1846), luật gia nổi tiếng người Đức.
[21] Beseler (1809-1888), luật gia và chính trị gia nổi tiếng người Đức.
[22] Von Ihering (1818-1892), luật gia nổi tiếng người Đức.
[23] Tritrerin G. V. (1828-1804), luật sư, triết gia và nhà sử học nổi tiếng người Nga.
[24] Vl. Soloviev (1853-1900), nhà thơ và triết gia nổi tiếng người Nga.
[25] Gersen A. I. (1812-1870), nhà triết học, nhà chính luận và nhà văn nổi tiếng người Nga.
[26] K. S. Aksakov (1817-1860), nhà chính luận, nhà sử học, nhà ngôn ngữ học, nhà thơ Nga.
[27] Pëtr (1672-1725), thường gọi là Pëtr Đại đế.
[28] B. N. Almazov (1827-1876), nhà phê bình văn học, nhà thơ trào phúng Nga.
[29] Leontiev K. N. (1831-1891), triết gia tôn giáo người Nga.
[30] Không có giá trị đáng kể - tiếng Pháp, ND.
[31] Nietzsche F. (1844-1900), triết gia vĩ đại người Đức.
[32] Max Stirner, tên thật là Johann Kaspar Schmidt (1806-1858), triết gia người Đức.
[33] K. D. Kavelin (1818-1885), nhà sử học, nhà xã hội học và luật học nổi tiếng người Nga.
[34] Alexander II (1818-1881), hoàng đế Nga từ năm 1855. Bị những người dân túy ám sát.
[35] N. K. Mikhailovski (1842-1904), nhà xã hội học, nhà báo và nhà phê bình văn học Nga, lý thuyết gia của phong trào dân túy.
[36] Xem Mikhailovski N. K. Toàn tập, tập IV, trang 949.
[37] Tác phẩm đã dẫn, trang 952.
[38] Merkle Adolphe (1827-1885), luật gia nổi tiếng người Đức.
[39] Struve P. B. (1870-1944), nhà kinh tế học có tài, thời trẻ từng là
lãnh tụ của những người mác-xít. Sau Cách mạng Tháng Mười sống lưu vong
ở nước ngoài.
[40] Starover, tên thật là A. H. Potresov (1869-1943), thuộc phái “melshevik”.
[41] Xem: Potresov A. N. Tiểu luận về giới trí thức Nga, 1908, trang 253 và các trang tiếp theo.
[42] Plekhanov G. V. (1856-1918), nhà triết học và nhà hoạt động nổi tiếng trong phong trào dân chủ-xã hội quốc tế người Nga.
[43] Lợi ích của nhân dân là trên hết - tiếng Latin trong nguyên văn.
[44] Lợi ích của cách mạng là trên hết - tiếng Latin trong nguyên văn.
[45] Quốc hội vô hình - tiếng Pháp trong nguyên văn.
[46] Xem: Toàn tập biên bản Đại hội II đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga, Geneva, 1903, trang 169-170.
[47] BUND là tên viết tắt của Liên đoàn công nhân Do Thái Nga và Ba
Lan, được thành lập năm 1897, năm 1998 tham gia vào đảng Công nhân dân
chủ xã hội Nga.
[48] Novgorodtsev P. Hoạt động lập pháp của Duma quốc gia. Tập hợp các bài báo. Duma quốc gia I, 1907, tập II, trang 22.
[49] Martov Iu. O. (1873-1923), nhà hoạt động nổi tiếng của phong trào
cách mạng Nga, đảng viên đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga từ năm 1900,
từ năm 1903 là lãnh tụ phe “melshevik”, thành viên ban biên tập tờ Ngọn
lửa nhỏ, lưu vong từ năm 1920.
[50] Toàn tập biên bản Đại hội II đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga, Geneva, 1903, trang 331.
[51] Tài liệu vừa dẫn, trang 333.
[52] V. Maklakov Luật pháp trong cuộc sống người Nga, Tin tức châu Âu, tháng 5, năm 1909, trang 273-274)
Trước hết, phải khẳng định, mô hình nhà nước pháp quyền là mô hình nhà
nước phổ biến và tiên tiến nhất hiện nay. Tuy nhiên, trong hơn 200 quốc
gia trên thế giới, đến nay, mới chỉ có một số nước tổ chức theo mô hình
nhà nước pháp quyền, còn đại bộ phận các quốc gia vẫn chưa tổ chức theo
mô hình này. Nhưng, thế giới đang tiến đến một nền dân chủ nên xét về
phương diện nhà nước có thể nói, thế giới đang phấn đấu cho một nhà nước
pháp quyền chứ nhà nước pháp quyền chưa phải là hiện tượng phổ biến.
Ngay cả ở những nước tự cho mình có nền dân chủ lớn thì bản thân nhà
nước pháp quyền vẫn là một vấn đề trăn trở, cần được cải tiến và nghiên
cứu hàng ngày. Nhà nước pháp quyền không phải là một đối tượng tĩnh mà
là một đối tượng động, có năng lực tự cải tiến để phù hợp với tình thế,
phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, sự giác ngộ chính trị và trình
độ dân trí.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà ở đó quyền lực
của pháp luật là quyền lực duy nhất và cơ bản; nghĩa là, không phải
quyền lực chính trị mà quyền lực pháp luật là quyền lực tối cao. Do đó, ở
bất kỳ đâu nếu thừa nhận một đảng chính trị nào đó là lực lượng duy
nhất lãnh đạo nhà nước thì điều đó đồng nghĩa rằng nhà nước ấy được lãnh
đạo bởi chính trị chứ không phải bởi pháp luật. Nhà nước pháp quyền là
sản phẩm của nền dân chủ về chính trị, tại đó con người tự do trong việc
lựa chọn các khuynh hướng chính trị; đương nhiên, nếu con người tự do
trong việc lựa chọn các khuynh hướng chính trị thì cộng đồng sẽ tự do
trong việc lựa chọn các hình thái chính trị. Những quốc gia không tự do
trong việc lựa chọn các khuynh hướng chính trị sẽ có nền chính trị đồng
nhất, tại đó người ta chỉ thừa nhận những quan điểm duy nhất về mặt
chính trị và do đó, sẽ rất khó xây dựng nền dân chủ. Nói về vấn đề nhà
nước pháp quyền của Việt Nam, tôi cho rằng, chúng ta mới chỉ đang trong
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền và cần phải thỏa mãn một số tiền
đề quan trọng thì mới có thể hoàn thành công việc này.
Nhà nước
pháp quyền chưa bao giờ là cái đích mà chỉ là công cụ hay phương tiện
quản lý xã hội. Marx nói rằng, nhà nước sẽ biến mất khi không còn giai
cấp nữa; như thế, trong quan niệm của Marx, nhà nước không phải là cái
đích mà chỉ là công cụ để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, tức là nhà
nước là cơ quan điều hành xã hội. Cần phải quan niệm như vậy thì mới dễ
dàng cải tiến, thay đổi và tái cấu trúc nhà nước pháp quyền để thích hợp
với những tình thế mới, những yêu cầu mới. Đương nhiên, nói đến nhà
nước pháp quyền tức là chúng ta đang bàn về một nhà nước tốt. Chúng ta
đang cố gắng xây dựng nhà nước pháp quyền với các tiêu chuẩn mang tính
phổ biến, chẳng hạn sự rành mạch và cân bằng giữa ba nhánh hành pháp,
lập pháp và tư pháp. Việc phân ra các quyền như vậy nhằm tạo điều kiện
cho các quyền giám sát nhau và tạo ra tính độc lập tương đối để tránh
tình trạng đánh cắp hay thao túng quyền lực của các lực lượng chính trị.
Trong một chừng mực nào đó, chúng ta cũng đang có những thay đổi nhất
định khi tiếp cận vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền. Những thay đổi
như vậy là hoàn toàn cần thiết bởi việc chuyển từ hình thái nhà nước này
sang hình thái nhà nước khác nhiều khi phải trả giá bằng một cuộc cách
mạng, trong khi cải tiến một nhà nước thì không phải trả giá bằng một
cuộc cách mạng mà chỉ bằng những cải cách và đổi mới thường xuyên.
Không phải tất cả các nhà nước pháp quyền đều có chất lượng giống nhau.
Chất lượng của nhà nước pháp quyền bị chi phối bởi nhiều yếu tố, trong
đó, hai yếu tố cơ bản nhất là sự đa dạng của các khuynh hướng chính trị
và trình độ dân trí. Nền dân chủ của Anh, Pháp và Hoa Kỳ có những điểm
khác nhau và nhà nước pháp quyền ở những quốc gia đó cũng có chất lượng
khác nhau. Xưa nay, nhân loại vẫn phê phán những người tư duy theo lối
lẽ phải giản đơn, hay nói cách khác là những người tư duy theo lối logic
một lẽ phải. Rõ ràng, không thể có một lẽ phải, mà phải có nhiều cấp độ
của lẽ phải, nhiều khía cạnh của lẽ phải. Dân chủ là một khái niệm và
nó cũng có nhiều cấp độ, nhiều mức độ, nhiều hình thức. Hai yếu tố quan
trọng nhất quyết định mức độ dân chủ là sự đa dạng chính trị và sự đa
dạng nhận thức. Không phải không có sự đa dạng chính trị thì không xây
dựng được nhà nước pháp quyền nhưng mức độ da dạng chính trị sẽ quyết
định chất lượng của nhà nước pháp quyền. Cũng tương tự như vậy với sự đa
dạng về nhận thức. Dân trí gắn liền với ý thức của nhân dân và phụ
thuộc vào chất lượng của giáo dục. Nếu không thừa nhận sự đa dạng về
chính trị và sự đa dạng về nhận thức thì không thể giáo dục tự do, và
nếu không giáo dục tự do thì không gian nhận thức của nhân dân sẽ bị hạn
chế và điều đó sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến trình độ dân trí.
Chúng ta đều thấy rõ là, các nhà nước phi dân chủ không thể xây dựng nhà
nước pháp quyền bởi vì ở những quốc gia này, pháp luật không phải là
sản phẩm của những thỏa thuận xã hội mà là kết quả của những ngẫu hứng
chính trị. Nói cách khác, toàn bộ quá trình lập pháp, tư pháp, hành pháp
ở những nhà nước phi dân chủ thường bị thao túng bởi một số lực lượng
chính trị nhất định, không rành mạch về nguyên tắc và không hợp pháp về
địa vị. Rõ ràng, chừng nào pháp luật còn bị xây dựng và sửa đổi dựa trên
những nhận thức chính trị chủ quan của những người cầm quyền thì không
thể tạo ra trạng thái ổn định của quyền lực pháp luật, tức là không thể
xây dựng nhà nước pháp quyền theo đúng nghĩa. Xin được nhắc lại rằng,
nhà nước pháp quyền phải là nhà nước mà ở đó pháp luật giữ địa vị thống
trị, tức là pháp luật chi phối và điều chỉnh mọi sinh hoạt của đời sống
và quyền lực của pháp luật phải ổn định.
Có người đặt vấn đề về
cơ sở xây dựng một nhà nước pháp quyền. Cụ thể là, đối với một số nền
kinh tế chuyển đổi, nền kinh tế được cải cách nhưng vẫn mang đậm dấu ấn
nền kinh tế quốc doanh có trở ngại gì đối với việc xây dựng nhà nước
pháp quyền? Chúng tôi cho rằng, nhiều quốc gia đã có nhà nước pháp quyền
từ thế kỷ XVIII, mặc dù nền kinh tế của họ là nền kinh tế quốc doanh,
hay sở hữu nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Tôi không cho rằng nền kinh tế
quốc doanh là trở ngại cho việc xây dựng một nhà nước pháp quyền mà nên
chăng chúng ta cần lật ngược vấn đề, tức là sự tồn tại hoặc không tồn
tại của nhà nước pháp quyền ảnh hưởng như thế nào đến nền kinh tế. Không
thể phủ nhận rằng, nền kinh tế nhiều thành phần là một trong những tiền
đề cơ bản cho việc xây dựng một xã hội dân chủ; nói cách khác, sự tồn
tại của nền kinh tế đa thành phần sẽ dẫn đến sự thừa nhận tính đa dạng
của các khuynh hướng chính trị. Nếu không có nền kinh tế nhiều thành
phần thì không có tiền đề vật chất cho việc thừa nhận tính đa dạng của
các khuynh hướng chính trị. Có lẽ, đã đến lúc phải nhận ra rằng các
khuynh hướng chính trị hoàn toàn bình đẳng với nhau và sự thắng thế của
một khuynh hướng trong quá trình cạnh tranh sẽ tạo ra khuynh hướng chủ
đạo của xã hội.
Tuy nhiên, không phải mọi sự đa dạng đều có thể
tạo ra dân chủ; vì thế, sự đa dạng chính trị là một đại lượng cần được
nghiên cứu kỹ lưỡng. Đại lượng này phải đủ lớn thì mới tạo ra những thay
đổi căn bản mà kết quả của nó là một nền dân chủ chính trị.
Mặt khác, con người là sinh vật hoạt động có mục đích. Tính đa mục đích
trong hoạt động kinh tế sẽ lan truyền rất nhanh và dẫn đến những đòi hỏi
chính trị. Việc nhấn mạnh vai trò chủ đạo của một thành phần kinh tế
cũng giống như việc thừa nhận sự lãnh đạo của một khuynh hướng chính
trị. Lịch sử đã chỉ ra rằng, con người không thể không thừa nhận sự đa
dạng của đời sống kinh tế bởi nó là tiền đề phát triển và một nền kinh
tế không phát triển có thể đưa đến sự sụp đổ về mặt chính trị. Chính vì
thế, thừa nhận sự đa dạng của đời sống kinh tế là một bước lùi cần thiết
của bất kỳ hệ thống chính trị nào vì sự tồn tại của chính nó. Điều đó
cũng đồng nghĩa rằng nó đang chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho việc
xây dựng một nền dân chủ và một nhà nước pháp quyền theo đúng nghĩa.
Nói đến nhà nước pháp quyền không thể không nói đến vai trò của đảng
cầm quyền. Tôi cho rằng, bất kỳ xã hội nào cũng cần đảng chính trị như
là những người đại diện cho nó tham gia điều hành công việc nhà nước.
Tuy nhiên, vai trò của đảng cầm quyền trong một nhà nước không dân chủ
về mặt chính trị khác rất xa so với trong một nhà nước dân chủ về mặt
chính trị. Đảng cầm quyền trong nhà nước phi dân chủ là chủ thể quyết
định tuyệt đối các khuynh hướng chính trị; còn trong một xã hội dân chủ
thì đảng cầm quyền là đảng thắng cử chứ không phải là đảng duy nhất.
Chúng ta đều biết rằng, sự thận trọng chính trị là hệ quả của việc có
nhiều đối tượng cạnh tranh. Một nhà lãnh đạo phạm những sai lầm về mặt
chiến lược sẽ không được bầu tiếp ở nhiệm kỳ sau, tức là đảng mà anh ta
đại diện sẽ không trở thành đảng cầm quyền trong nhiệm kỳ sau. Người đại
diện cho đảng cầm quyền lên thay có trách nhiệm đúc kết những thất bại
của người tiền nhiệm để đưa ra những điều chỉnh đối với các hoạt động
lãnh đạo của mình. Đó chính là bản chất nhạy cảm, bản chất tiến bộ hay
sự đổi mới bắt buộc của hệ thống chính trị mang tính dân chủ. Không có
sự cạnh tranh về mặt chính trị thì sự điều chỉnh này sẽ không mang tính
bắt buộc và rất có thể, xã hội sẽ phải trả giá cho những sai lầm mà đảng
cầm quyền liên tiếp vấp phải bởi không có động lực sửa chữa.
Xin được nhấn mạnh một lần nữa là, nhà nước pháp quyền là sản phẩm riêng
có của nền dân chủ. Không có nền dân chủ như là không gian hình thành
và phát triển của nhà nước pháp quyền thì ngay cả khi người ta cố tình
dựng lên nhà nước pháp quyền, nó cũng chỉ mang tính triển lãm. Dân chủ
được thể hiện sâu sắc nhất trong loại hình hoạt động nào nếu không phải
hoạt động lập pháp; nói cách khác, nếu không dân chủ trong việc xây dựng
pháp luật thì mọi điều còn lại trở nên vô nghĩa. Do đó, bàn về việc xây
dựng nhà nước pháp quyền với các tiêu chí của nó trong điều kiện phi
dân chủ là vô nghĩa bởi các thể chế phi dân chủ có thể có tất cả những
gì thế giới có xét về phương diện cấu trúc, nhưng lại thiếu yếu tố quan
trọng nhất là một nền dân chủ chính trị. Một số người cho rằng tất cả
các nhà nước dân chủ đều tổ chức theo mô hình tam quyền phân lập để kiềm
chế lẫn nhau, nhưng theo chúng tôi, tam quyền phân lập chưa hẳn đã là
bản chất của nhà nước pháp quyền. Điểm ưu việt nhất của nhà nước pháp
quyền là một nhà nước dựa trên quyền lực nhân dân. Các thể chế phi dân
chủ không thể có cái gọi là nhà nước dựa trên quyền lực nhân dân và do
đó, không thể xây dựng nhà nước pháp quyền trong điều kiện phi dân chủ.
Đã đến lúc chúng ta phải nhận ra rằng, dân chủ không còn là quyền chính
trị, trong thời đại toàn cầu hoá, dân chủ là một quyền phát triển. Chỉ
khi nào nhận thức được điều này thì nền dân chủ mới hình thành và chính
trong quá trình hình thành một cách âm thầm trong lòng xã hội như vậy,
nó sẽ tạo ra sự phát triển trong nhận thức của người dân về tính cần
thiết của các quyền tự do. Khi sự thức tỉnh của xã hội đạt tới mức độ
nhất định, con người sẽ nhận ra rằng nhà nước pháp quyền vĩnh viễn chỉ
là một khái niệm rỗng nếu thiếu đi nền dân chủ chính trị. Đó là sự thức
tỉnh quan trọng, nhất là đối với thế giới thứ ba và là động lực để xây
dựng một nhà nước pháp quyền theo đúng nghĩa.
Một trong những
đặc tính quan trọng nhất của Nhà nước pháp quyền chính là tính có thể
đoán trước được công quyền. Bài viết này muốn bàn đôi điều về đặc tính
nói trên.
Trong nền kinh tế thị trường, đây là điều kiện tiên
quyết để người dân hoạch định “chuyện làm ăn và mưu cầu hạnh phúc”. Tuy
nhiên, để bảo đảm tính đoán trước được phải có thiết chế bảo hiến vững
mạnh, quy trình ban hành quyết định minh bạch, hệ thống tư pháp hiệu
năng... Đây là những công việc to lớn và đòi hỏi phải có nhiều thời
gian. Trước mắt, thiết thực nhất là tìm cách khắc phục cách hành xử “tùy
hứng qua cầu” vẫn còn xẩy ra dưới nhiều hình thức. Dưới đây xin được kể
ra một vài hình thức cụ thể:
Một là, thay đổi quyết định một
cách đột ngột. Ví dụ: Quy hoạch năm trước, năm sau có thể bị điều chỉnh,
đường hai chiều có thể bị chuyển thành một chiều vào ngày hôm sau và
ngược lại... Ví dụ cụ thể nhất là về việc hôm trước rơmooc không phải
đăng ký, hôm sau không đăng ký sẽ bị phạt.
Hai là, ban hành
quyết định không tính đến thời hiệu. Ví dụ, ban hành lệnh đăng ký rơmooc
hôm trước, một thời gian ngắn sau có thể xử phạt vi phạm ngay. Với cách
làm này, nhiều chủ phương tiện đã không kịp trở tay. Một ví dụ khác,
lệnh đình chỉ việc đăng ký xe gắn máy được gọi là tạm thời nhưng thời
hạn kết thúc hiệu lực thì không được nhắc tới. Những người dân chỉ còn
biết đoán mò là nó có thể được bãi bỏ sau một, hai năm hoặc lâu hơn nữa.
Ba là, các quyết định không được thực hiện một cách nhất quán. Việc áp
đặt đội mũ xe máy có thể được thực hiện gắt gao một thời gian rồi bỏ
ngỏ. Nhưng mọi người không đội có thể sẽ không sao, một hôm bạn theo
gương họ, lập tức sẽ bị phạt.
Bốn là, các quyết định không tạo
ra tiền lệ. Ví dụ, nhà lỡ xây có thể được hợp thức hóa. Nhưng chớ vì thế
mà bạn xây nhà của mình theo cách đó vì nó có thể bị phá bỏ.
Năm là, các quyết định của người tiền nhiệm chưa chắc đã được người kế
nhiệm chấp nhận. Chủ trương bán nhà xưởng được Phó Chủ tịch tiền nhiệm
phê chuẩn, nhưng hoàn toàn có thể bị phó chủ tịch kế nhiệm xem xét lại.
Những hợp đồng mua bán kiểu như vậy hầu như không bao giờ có thể thanh
lý. Cứ nghĩ mà xem, mua nhà thì bạn còn may mắn chán. Giả sử bạn mua một
cái gì khác và xài hết sau khi hợp đồng mua bán kết thúc thì sao?
Để bảo đảm tính đoán trước được của công quyền, điều quan trọng là phải
có được một hệ thống các giải pháp hữu hiệu. Dưới đây là một vài giải
pháp được áp dụng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nhiều
nước trên thế giới:
Một là, Pháp luật xác lập một hành
lang chặt chẽ và tương đối hẹp cho việc hành xử của công quyền. “Các
công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm nhưng các quan
chức chỉ được làm những gì pháp luật cho phép”. Pháp luật càng cho phép
công quyền ít bao nhiêu, tính đoán trước được của công quyền càng cao
bấy nhiêu và ngược lại.
Hai là, ban hành quyết định phải dựa
trên những nguyên tắc và thủ tục được xác định trước. Đồng thời, những
nguyên tắc và thủ tục đó là không thể bị sửa đổi “giữa cuộc chơi”. Một
trong những nguyên tắc cơ bản của việc ban hành quyết định là bảo đảm
tính hợp pháp và tính hợp lý.
Ba là, xác lập chế độ trách
nhiệm của chính quyền đối với quyết định của mình. Ở đây, ngoài trách
nhiệm về chính trị, kỷ luật, hành chính và tài chính, công luận thường
coi trọng trách nhiệm giải trình.
Bốn là, bảo đảm tính minh
bạch trong việc ban hành quyết định. Người dân phải có quyền tiếp cận
các thông tư cũng như các tư liệu, số liệu là cơ sở cho việc quyết định.
Năm là, bảo đảm sự tham gia của người dân. Cuối cùng mọi quyết định của
công quyền chỉ có nghĩa khi người dân có điều kiện và năng lực để chấp
hành và tốt hơn nữa là khi được người dân ủng hộ.
Xây dựng Nhà
nước pháp quyền là một công việc hết sức to lớn. Tuy nhiên, mọi công
việc dù to lớn đến đâu cũng đều bắt đầu từ những việc làm cụ thể và
thiết thực. Bảo đảm tính có thể đoán trước của công quyền là một trong
những việc làm như vậy.
0 comments:
Post a Comment