Trước đây, khi Quy chế dân chủ cơ sở chưa được triển khai, dân chủ chưa được phát huy sâu rộng, người dân chưa ý thức được đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Ở một số địa phương, thay vì phải khiếu kiện đúng trình tự thủ tục thì người dân kéo cả đoàn tới chỗ đông người. Tiêu biểu nhất là đoàn khiếu kiện từ Sóc Trăng, Long An, Bạc Liêu, Tiền Giang lên TP. HCM, tập trung trước cổng Cơ quan thường trực cuả Văn phòng Chính phủ ( số 7 Lê Duẩn ), trương gần 20 biểu ngữ đòi đất, đòi nhà, đòi đền bù giải toả. Tại Tp Hồ Chí Minh, cũng có một số vụ khiếu kiện về việc đền bù giải tỏa tại Rạch Miễu, Nguyễn Văn Luông, Tân Túc, khiếu nại của các tiểu thương ở chợ Thiếc... Nguyên nhân của những vụ việc trên hầu hết đều xuất phát từ hiện tượng mất dân chủ kéo dài, khiến cho nhân dân giảm niềm tin đối với Đảng và Nhà nước.
Từ năm 1998 đến nay, nhờ sự chỉ đạo chặt chẽ của Thành uỷ và UBND thành phố Hồ Chí Minh, Quy chế dân chủ cơ sở đã dần dần đi vào cuộc sống và phát huy được tác dụng tại địa phương. Theo Báo cáo số 79 của UBND TP.HCM, Báo cáo số 62 của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP.HCM, Báo cáo số 28 của Ban Dân vận Thành uỷ TP. HCM, việc đưa Quy chế đến người dân đã đạt được những kết quả khả quan.
Thứ nhất, đối với những việc chính quyền địa phương phải thông tin và công khai để dân biết, nếu như những năm trước đó chỉ tiến hành tại các cuộc họp ấp, tổ dân phố thì nay đã được thực hiện bằng nhiều hình thức thông tin đa dạng như tờ tin, bản tin hàng tháng, tài liệu bướm ( có tài liệu được dịch ra tiếng Hoa), xe loa, thuyền hoa... Qua đó, UBND phường, xã, thị trấn phối hợp Mặt trận Tổ quốc đã truyền tải những nội dung công khai đến tận người dân, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân biết những thông tin cần thiết ở địa phương. Riêng Ủy ban Mặt trận Tổ quốc còn tổ chức phổ biến pháp luật, chủ trương của Đảng và Nhà nước trong hệ thống Mặt trận.
Theo tinh thần dân chủ, các kỳ họp của Hội đồng nhân dân TP.HCM đã được truyền thanh trực tiếp để công chúng theo dõi; từ đó dân có thể kiểm tra, giám sát, đánh giá trách nhiệm, hiệu quả hoạt động của các đại biểu Hội đồng nhân dân. Tiếp thu phản ánh của nhân dân, UBND thành phố đã đưa ra chỉ thị số 15/2001/ CT - UB về quản lý, sử dụng, công khai tài chính các quỹ có nguồn thu từ các khoản đóng góp của nhân dân; do đó tình trạng tham nhũng công quỹ cũng đã từng bước bị đẩy lùi...
Thông qua việc xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương, cải cách hành chính, sửa đổi lề lối làm việc, thái độ, tác phong tiếp dân... nhân dân đã góp phần xóa bỏ tệ nạn quan liêu, mệnh lệnh, áp đặt của từng địa phương, làm cho việc xây dựng Đảng và chính quyền ngày càng trong sạch, vững mạnh. Việc công khai trên báo về quy hoạch xây dựng nhà cửa như quy hoạch quận 7 - khu vực phát triển đô thị mới phía Nam1 - là một trong những kết quả có ý nghĩa, khẳng định tác dụng tốt cuả việc thực hiện Quy chế dân chủ. Tình trạng dân chúng phải “ lo lót” cho cán bộ phòng quản lý đô thị để biết thông tin không còn; người dân yên tâm chuyển nhượng đất đai, xin phép xây dựng nhà cửa đúng pháp luật; hiện tượng một số cán bộ lợi dụng chức quyền trục lợi đất quy hoạch mà họ biết trước thông tin giảm. Từ đó, niềm tin của dân chúng vào Đảng, Nhà nước ngày càng tăng hơn.
Thứ hai, những việc nhân dân bàn bạc, tham gia ý kiến và quyết định ở cơ sở đã được đông đảo dân chúng quan tâm. Nhiều dự án, chương trình của Nhà nước trước khi trình cấp có thẩm quyền quyết định đã được nhân dân góp ý với ý thức trách nhiệm cao (như công trình Đại lộ Đông - Tây của thành phố). Đặc biệt, ở kỳ bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 1999- 2004, nhân dân đã tham gia tích cực vào việc mạn đàm, bàn bạc về nhân sự, ứng cử viên, bầu cử nghiêm túc (thành phố đạt tỷ lệ 99,84% cử tri đi bầu). Thực hiện phương châm “Nhà nước và dân cùng làm”, dân ở nhiều phường, xã đã đóng góp tiền bạc, sức lực duy tu hoặc làm mới các ngõ hẻm, hệ thống thoát nước, cột điện, đèn đường, nhà tình nghĩa, nhà tình thương, chốt dân phòng, trường học. Tại khu phố 1 phường 5, Quận 5 sau khi xây dựng Quy ước tổ dân phố và thảo luận dân chủ tại các buổi họp, nhân dân đã phản ánh những bức xúc của họ về tình trạng buôn bán các loại hàng “lạc xoong” như phụ tùng xe máy, ốc vít, hàng điện tử cũ lấn chiếm lòng lề đường Nguyễn Chí Thanh2. Việc buôn bán này đã tạo điều kiện cho những tội xâm phạm quyền sở hữu phát triển (vì mọi loại phụ tùng ăn cắp được bán tại đây) và làm mất vẻ mỹ quan cuả đô thị. Lúc đầu do lợi ích kinh tế, nhiều gia đình giữ xe đã cho những người bán hàng chạy vào nhà mình tạm lánh công an khi họ bị truy quét. Do dân không hợp tác nên cái chợ trôi nổi này sau khi xoá xong lại hoạt động như cũ. Sau đó, nhờ các Đảng viên, cán bộ khu phố và bà con xung quanh vận động, các hộ dân giữ xe đã cùng công an kiên quyết “giải phóng” vỉa hè, trả lại vẻ đẹp vốn có của tuyến đường này.
- Những việc nhân dân giám sát, kiểm tra. Qua phản ánh của nhân dân, UBND thành phố đã cho biết: hiện nay, tại thành phố có hơn 50 dự án đang có khiếu kiện. Trong đó, riêng 6 vụ khiếu kiện đông người đã được Đoàn công tác liên ngành của Chính phủ kiểm tra và kết luận (khu siêu thị An Lạc, khu du lịch Bạch Đàn, khu dân cư Rạch Miễu, khu chế xuất Tân Thuận, dự án chợ An Khánh và dự án đường xa lộ song hành Hà Nội), thành phố đã tổ chức thực hiện theo kết luận; ban hành chính sách sửa đổi, bổ sung và chỉ đạo giá đền bù theo chính sách mới. Tuy nhiên, trong các dự án vẫn còn một số hộ dân khiếu nại3. Còn về công trình đường liên cảng A5, UBND đã cho biết kết quả thanh tra: có 20 sai sót, vi phạm; thanh tra đã buộc đơn vị thi công nộp ngân sách Nhà nước 862,9 triệu đồng, đồng thời khiển trách 8, cảnh cáo 3, chuyển công tác khác với mức lương thấp hơn 5, cho nghỉ việc 1, phê bình rút kinh nhiệm 3 đối với các cá nhân vi phạm. Về hình sự, đã chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra vụ việc tiêu cực xảy ra tại Công ty xây dựng giao thông Sài Gòn trong khi thi công đường liên cảng A5... Gần đây nhất, nhân dân đã đưa ra ánh sáng về “sự cố hầm chui Văn Thánh 2”4, và gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh những đơn vị thi công không có trách nhiệm. Ngay sau đó, báo Tuổi Trẻ đã vào cuộc; nhờ bài phỏng vấn của phóng viên bản báo đối với Tiến sĩ Nguyễn Văn Đạt - chuyên viên cao cấp ngành xây dựng sau khi ông trực tiếp khảo sát thực địa - chúng ta mới được rõ: vì bên thi công dùng cừ tràm (thay vì phải dùng bê tông cốt thép đúc sẵn) để đóng móng công trình nên dẫn đến sự cố hầm lún nứt và có khả năng sập hầm chui trong vòng 6 tháng tới (trong khi đây là công trình vĩnh cửu, được thiết kế có sức chịu tải H30, tức cho đoàn xe 30 tấn )5.
2. Một số tồn tại và hướng giải quyết
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở tại TP Hồ Chí Minh vẫn còn một số tồn tại cần phải khắc phục kịp thời. Ở đây, sau khi nêu lên từng vướng mắc cụ thể, chúng tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp ban đầu.
- Những việc chính quyền địa phương phải thông tin và công khai để dân biết:
Khoản 6 Điều 4 quy định phải công khai dự toán và quyết toán ngân sách xã hàng năm. Nhưng trên thực tế, việc công khai tài chính trên thường chỉ mới được thông qua tại Hội đồng nhân dân phường xã và cũng chỉ nêu lên tỷ lệ phần trăm hoặc nêu chung chung ngân sách năm nay cao hơn năm trước. Cách báo cáo này chính là kẽ hở để tham nhũng có cơ hội phát triển. Vì vậy UBND thành phố nên quy định: nếu không thuộc bí mật Nhà nước, người có thẩm quyền báo cáo bắt buộc phải có trách nhiệm đưa ra những số liệu cụ thể, chi tiết và chính xác để dân biết.
Khoản 7 Điều 4 quy định: chính quyền địa phương phải thông tin “dự toán và quyết toán thu chi các quỹ, dự án, các khoản huy động đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng của xã thôn, làng, ấp, bản và kết quả thực hiện”. Việc thiếu đồng bộ giữa cấp trên và cơ sở, nhất là trong lĩnh vực xây dựng, giải tỏa, giao thông công chánh, mức thuế của các hộ kinh doanh... dẫn đến tình trạng khiếu kiện ở các quận 2, 7, 9, Phú Nhuận, Bình Thạnh, Bình Chánh. Việc chặt tỉa bớt nhánh cây xanh, đào đường, do không thông báo công khai cho người dân biết trước nên đã làm ảnh hưởng đến việc đi lại và sinh hoạt của dân như ở quận 1, 4, 8...Ở đây, vấn đề nổi cộm là chưa có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận chỉ đạo, thiếu thông tin giữa cơ quan chức năng này và cơ quan chức năng kia, giữa cơ quan nhà nước và nhân dân. Nếu UBND các cấp thống nhất chỉ đạo qua các cuộc giao ban liên ngành, đưa những thông tin này công khai trên báo, đài phát thanh, hoặc thông báo đến từng tổ dân phố có liên quan đến vụ việc thì tình trạng trên sẽ phần nào được hạn chế.
- Những việc nhân dân bàn bạc, tham gia ý kiến và quyết định ở cơ sở:
Theo nhận xét của luật sư Nguyễn Hữu Danh - Phó trưởng ban Dân chủ và pháp luật tại Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP.HCM - những nội dung về những việc nhân dân bàn bạc, tham gia ý kiến, quyết định ở cơ sở về cơ bản là hợp lòng dân, được nhân dân nhiệt tình hưởng ứng; tuy nhiên, việc xây dựng hương ước, quy ước làng văn hoá... chưa được nhân dân thực sự quan tâm. Nhiều nơi rập khuôn quy ước tổ dân phố mẫu trên đưa xuống áp dụng cho địa phương mình. Điều này làm ảnh hưởng trực tiếp đến địa phương vì quy ước mẫu không phù hợp với tình hình khu phố và nhu cầu người dân. Riêng quận 10 là cơ sở đáng hoan nghênh, ngay cả việc bầu trưởng khu phố cũng được nhân dân bỏ phiếu kín tín nhiệm. Theo luật sư Nguyễn Hữu Danh thì cần phải tuyên truyền, phổ biến cho nhân dân để họ hiểu được quyền lợi của mỗi cá nhân cũng như cộng đồng dân cư nếu lập được quy ước tổ dân phố sát với tình hình địa phương.
Việc nhân dân thảo luận, bàn bạc còn lệ thuộc vào việc nhận thức, vận dụng của cấp ủy, chính quyền cơ sở tại địa bàn cư trú và chính bản thân người dân. Cơ sở nào có nhiều cán bộ hưu trí mạnh dạn hơn thì việc phát biểu, phê phán những biểu hiện quan liêu, làm giàu bất chính của cán bộ; nhưng ở những nơi khác, các ý kiến đóng góp của người dân chỉ có tính chất chiếu lệ, thái độ còn dè dặt. Đơn cử như trường hợp tuyến cống hộp ở phường 15 quận 10 - tuyến cống hộp Kim Ngân - Bắc Hải - Bao Ngạn. Dự án cải tạo hệ thống thoát nước cống hộp phường 15, quận 10 do UBND TP.HCM phê duyệt ngày 11/9/1993 với tổng vốn vốn đầu tư 15.238.000.000 đồng, ngân sách thành phố cấp6. Công trình do Sở GTCC TP.HCM làm chủ đầu tư, Công ty tư vấn xây dựng công trình GTCC đảm nhiệm việc thiết kế và Công ty TNHH xây dựng công trình Hùng Vương là đơn vị thi công. Ngay từ giai đoạn đầu thi công, đã có hơn 150 hộ dân gửi đơn kiến nghị với HĐND về việc không có biện pháp hữu hiệu để thoát nước sinh hoạt và xin lắp đặt hệ thống cống phụ nhưng không được giải quyết. Tiếp đó nhân dân đã gửi đơn tố cáo lên HĐND Q. 10 về việc đơn vị thi công vòi vĩnh dân mỗi hộ phải “ bồi dưỡng từ 400.000 - 600.000 cho việc lắp đặt cống từ nhà vào cống hộp nhưng lời tố giác của nhân dân vẫn không được xem xét. Ngày 21/12/1995 công trình được nghiệm thu. Tháng 4/2001, UBND Q10 có quyết định đầu tư tuyến đường trên cống hộp. Chính trong quá trình “giám sát” thi công tuyến đường trên, bằng cách tự chui xuống lòng cống, chụp hình, quay phim, người dân đã phát hiện những sai phạm nghiêm trọng của công trình cống hộp. Theo kết quả của thanh tra thì toàn bộ công trình có tổng cộng 2.291 vị trí hư hỏng do thi công7. Tuy nhiên tại hội thảo ngày 9.4.2002 tại Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP.HCM, các cán bộ hưu trí vẫn chưa đồng ý với kết quả trên. Theo ông Trần Nhật Đức, kỹ sư cầu đường đã nghỉ hưu và ông Hoàng Trọng Trạch phải có đến 3094 điểm hư hỏng. Một công trình vĩnh cửu mà mới đưa vào sử dụng hơn 5 năm đã gần như bị phá hủy hoàn toàn. Ông Hoàng Trọng Trạch, Trần Bình Đẳng, Hoàng Quốc Tín... và những người khác trong hội thảo đã tỏ ra nghi ngờ về kết quả của thanh tra và họ cũng thể hiện rõ thái độ của mình đối với công trình này.
- Những việc nhân dân giám sát, kiểm tra:
Qua đánh giá, khâu kiểm tra là khâu yếu nhất trong toàn bỏ. Đối với các công trình tại cộng đồng nơi người dân sinh hoạt, việc giám sát tương đối tốt. Nhưng đối với những công trình có quy mô lớn (do thành phố và quận đầu tư) thì chức năng giám sát của dân chưa thật sự đạt được hiệu quả. Một mặt, số người tham gia giám sát còn ít, những người chủ yếu được cử vào Ban quản lý giám sát công trình, thanh tra nhân dân... thường chỉ là trưởng hoặc phó khu phố, ấp, tổ dân phố. Mặt khác, cơ chế để nhân dân tham gia và nội dung thực hiện giám sát, kiểm tra chưa được quy định rõ nên hình thức và nội dung giám sát, kiểm tra của nhân dân trong thời gian qua hiệu quả chưa cao. Tuy nhiên, thông qua các vụ việc tiêu cực mà người dân phản ảnh như đường liên cảng A5, quốc lộ 15 huyện Nhà Bè, dự án bãi rác Đông Thạnh, Hóc Môn, kết nạp Đảng lầm đối tượng tại phường 14 quận 5... ta cũng thấy được tấm lòng yêu nước, yêu chế độ của nhân dân đối với đất nước.
Khoản 6 Điều 11 quy định nhân dân được kiểm tra kết quả nghiệm thu và quyết toán công trình do nhân dân đóng góp xây dựng và các chương trình dự án do Nhà nước, các tổ chức và cá nhân đầu tư tài trợ trực tiếp cho xã. Theo quy định của Nhà nước người giám sát công trình phải có trình độ chuyên môn. Nhưng khi người giám sát không có trình độ chuyên môn; hoặc phản ánh của nhân dân mâu thuẫn với kết luận của thanh tra chuyên ngành thì giải quyết như thế nào cho thỏa đáng? Theo chúng tôi có thể có hai cách giải quyết: (1) ngay từ lúc đầu, nên chọn người có chuyên môn ở lĩnh vực họ tham gia giám sát; (2) để cho người giám sát có chuyên môn cao hơn và thanh tra chuyên ngành cấp trên giải quyết tiếp vụ việc nếu nếu ý kiến của giám sát đại diện cho dân mâu thuẫn với thanh tra chuyên ngành.
Khoản 1 Điều 12 quy định “nhân dân giám sát hoạt động và tư cách đại biểu Hội đồng nhân dân, các thành viên Ủy ban nhân dân. Có quyền kiến nghị, khiếu nại, tố cáo các hành vi xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân, vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực của đại biểu Hội đồng nhân dân và các thành viên Ủy ban nhân dân”. Theo đó, người dân có quyền khiếu nại, tố cáo nhưng Quy chế chưa nêu rõ cơ quan nào giải quyết, biện pháp chế tài thế nào nếu cơ quan có trách nhiệm không giải quyết thoả đáng hoặc không trả lời. Ở đây, theo chúng tôi, cơ quan có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của dân phải là HĐND hoặc UBND cấp cao hơn, thậm chí có thể là Tòa án.
Khoản 2 Điều 12 có quy định “Các kỳ họp của HĐND xã mời đại diện các tổ chức đoàn thể tham dự và mời đại diện nhân dân dự thính”. Tuy nhiên, nên quy định cụ thể cách thức, tiêu chí của đại diện nhân dân dự thính, quyền hạn và trách nhiệm của đại diện nhân dân dự thính để chất lượng kì họp cao hơn.
- Về hình thức thực hiện Quy chế và trách nhiệm của những cá nhân, tổ chức liên quan:
Trong quá trình triển khai thực hiện Quy chế, một số cán bộ vẫn còn thái độ bàng quan, ỷ lại, chưa nhận thức rõ vai trò của mình; Quy chế chưa thực sự trở thành một hoạt động thường xuyên, có lúc, có nơi còn bị kẻ xấu lợi dụng để gây rối. Muốn khắc phục được thực trạng này, phải tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao ý thức trách nhiệm và tính gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, chú trọng vai trò hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, phối hợp nhịp nhàng giữa các ban ngành đoàn thể, nâng cao chất lượng hoạt động dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp thông qua hoạt động của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân, xử lý thích đáng những hành vi lợi dụng dân chủ để gây rối theo pháp luật...
Điều 14 của Quy chế có quy định hội nghị thôn, làng, ấp, bản được tổ chức 6 tháng 1 lần hoặc bất thường gồm toàn thể cử tri hoặc các chủ hộ do trưởng thôn phối hợp với ban công tác mặt trận, các đoàn thể triệu tập. Trong trường hợp chủ hộ không dự được nên cho phép đại diện hộ đi dự thay (đại diện hộ là những người có năng lực hành vi dân sự và không phạm pháp, không đang ở trong giai đoạn bị truy tố hoặc chấp hành án phạt tù...) và nên quy định hội nghị được tiến hành khi có ít nhất 2/3 số hộ trong tổ dân phố, ấp dự họp. Nội dung họp là kiểm điểm công tác của chủ tịch HĐND, UBND xã, phường và những vấn đề khác. Về thực tiễn, theo luật sư Nguyễn Hữu Danh, tuy 6 tháng mới có một lần họp nhưng các phường chưa thực hiện việc kiểm điểm chủ tịch UBND.... Đây là bước dân chủ nhưng rất khó thực hiện. Theo chúng tôi, thời gian họp xã, phường, ấp, nên cách nhau 3 tháng/ lần thay vì 6 tháng/ lần như Điều 14 đã quy định.
Điều 16 của Quy chế dân chủ quy định “hương ước, quy ước do dân xây dựng, chủ tịch HĐND xã đề nghị và chủ tịch UBND huyện phê duyệt hương ước, quy ước đó”. Thực tiễn cho thấy không nhất thiết phải thông qua HĐND xã, và chủ tịch UBND huyện phê duyệt vì mất rất nhiều thời gian. Nên chăng cho phép chủ tịch UBND quận, huyện ủy quyền hoặc giao hẳn cho chủ tịch UBND phường, xã quyết định công nhận quy ước tổ dân phố - ấp, hương ước, quy ước của xã...và quy định trách nhiệm cuả chủ tịch UBND xã đối với việc này. Ngoài ra, theo chúng tôi cần có những hướng dẫn cụ thể về chuyên môn của ngành liên quan đến việc thực hiện Quy chế dân chủ ở phường - xã - thị trấn như công tác hòa giải, công tác giám sát, công tác thanh tra để địa phương có thể thực hiện thống nhất.
Trong toàn bộ nội dung Quy chế, nhân dân chỉ có quyền yêu cầu, đề nghị các cá nhân, tổ chức thực hiện những quy định liên quan tới mình nhưng Quy chế lại không có chế tài cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức liên quan nếu họ không thực hiện đúng các quy định. Theo chúng tôi đây là hạn chế lớn nhất của Quy chế, dẫn đến thái độ bàng quan của chính quyền đối với việc của dân, vì không thực hiện họ cũng không bị ảnh hưởng gì. Vì vậy cần phải sửa đổi, bổ sung Quy chế theo hướng quy định cụ thể chế tài cho những đối tượng có liên quan.
Cuối cùng, theo điều tra xã hội học của chúng tôi, không ít người dân tại TP.HCM mới chỉ biết khẩu hiệu mang nội dung dân chủ “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; còn nội hàm của từng khái niệm thì họ chưa hiểu tường tận. Vì vậy, phải tiếp tục tuyên truyền, phổ biến nội dung Quy chế dân chủ cơ sở, làm cho nhân dân ý thức được việc thực hiện Quy chế là vì mình, vì một xã hội tốt đẹp; hạn chế tới mức tối đa việc hiểu và vận dụng sai tinh thần Quy chế, huy động quá khả năng đóng góp về vật chất và tinh thần của nhân dân. ·
1 Huy Giang, Quy hoạch chung quận 7 - Khu vực phát triển đô thị mới phía Nam, Báo Tuổi Trẻ 16.4.2002.
2 Hàn Ni, Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở- Quy ước tổ dân phố phải đi vào cuộc sống, Báo Sài Gòn giải phóng 5.4.2002.
3 Vũ Thượng, Đoàn đại biểu quốc hội TP.HCM làm việc với UBND TP.HCM: Các vụ tiêu cực đã xử lý đến đâu?, Báo Tuổi Trẻ, 25.4.2002
4 Tự Trung - V.T - H.G, Qua sự cố hầm chui cầu Văn Thánh 2: Không thể chấp nhận cách làm ăn qua quýt, Báo Tuổi Trẻ 16.4.2002.
5 Phạm Oanh, Hầm chui Văn Thánh 2: Lún nứt do đóng cừ tràm, Báo Tuổi Trẻ 25.4.2002
6 Ngọc Linh, Công trình xây dựng cống hộp P15, Q10: Sai phạm nhiều nhưng không ai bị đề nghị xử lý, Báo Phụ nữ 8.12.2001
7 Kim Long, Kết quả thanh tra tuyến cống hộp Kim Ngân- Bắc Hải- Bao Ngạn, Báo Người lao động 24.10.2001
NGUYỄN THANH MINH - Trường ĐH Luật TP. HCM
Khi công khai và minh bạch đã trở thành một điều khoản mà Việt Nam cam kết với thế giới thì cũng chính phương châm này sẽ là phương tiện chính để giải bài toán phát huy dân chủ cơ sở thành công. Vẫn tưởng đây là chuyện "xưa như Trái đất", bởi lẽ phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" từ lâu đã được nhấn mạnh như tư tưởng chủ đạo của Đảng và Nhà nước ta. Ấy vậy mà nghịch lý vẫn tồn tại song song cùng những quyết tâm chính đáng. Trong khi đích nhắm tương lai là một Nhà nước pháp quyền, thì đâu đó "luật rừng" vẫn còn thay thế cho những văn bản pháp quy.
Không thể nói về một nền dân chủ trực tiếp đích thực khi nạn hành dân còn được xem như một đặc quyền của các cán bộ cơ sở ở một số địa phương. Điều đáng lo ngại là tính lan truyền với vận tốc cao của căn bệnh này.
Tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Đảng về mở rộng dân chủ, dân chủ trực tiếp được cụ thể hoá và đưa vào khá nhiều trong các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản của các tổ chức chính trị - xã hội. Chính phủ đã ban hành Quy chế dân chủ cơ sở xã kèm theo nghị định 79/2003/NĐ-CP
Mới đây, tại hội nghị tổng kết năm 2006 và triển khai kế hoạch thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở năm 2007, Trưởng ban dân vận Thành ủy TP. Hồ Chí Minh nhận xét rằng ở nhiều nơi, những việc công khai cho dân biết và một số việc dân bàn còn mang tính hình thúc.
Trong khi đó, chương trình hành động công tác vận động nhân dân (giai đoạn 2006 - 2010) của Thành ủy vừa ban hành nhấn mạnh trọng tâm hiện nay là khắc phục tình trạng quan liêu, sách nhiễu trong bộ máy chính quyền, phòng chống tiêu cực, lãng phí, hoàn thiện các chính sách, cơ chế, giải pháp nhằm giải quyết có hiệu quả các bức xúc của người dân về công tác quy hoạch, thu hồi đất, bồi thưởng, tái định cư... Một nhiệm vụ chắc chắn bất khả thi nếu thiếu cây gậy thần dân chủ cơ sở.
"Cái khoảng cách quái ác”
Sinh thời, nhà báo Tràn Bạch Đằng từng cảnh báo về sự hình thành "cái khoảng cách quái ác” một bức tường vô hình ngăn giữa nhân dân và những người "đầy tớ" của họ. Nó không được đo bằng độ dài địa lý, mà bằng lòng người. Từ lãnh đạo cấp cao đến cán bộ địa phương, từ cán bộ cơ sở xã phường đến quần chúng nhân dân. “Lớp ngăn cách" không tạo ra thêm sự uy nghiêm cho những cán bộ địa phương, trái lại còn lấy mất tình cảm của nhân dân đối với chính là quyền. "Cái khoảng cách" này cũng là nguyên nhân của nhiều căn bệnh, trong đó hai loại virus nghiêm trọng nhất là tham ô và những nhiễu.
Tham ô được hiểu như lấy tiền của Nhà nước bổ túi riêng bằng cách lợi dụng quyền hạn của mình để đạt được nhưxng ưu tiên khác ngoài quyền lợi cho phép. Có thể xem bệnh này gần tương đương với căn bệnh lạm quyền. Còn nhũng nhiễu thì ở tầm thấp hơn. Cũng nằm trong lĩnh vực công, nhưng những người mắc phải bệnh này thường là các cán bộ liên quan trực tiếp đến khâu thi hành. Những người này tuy ít quyền lực, nhưng lại nhiều “quyền uy”, có khả năng sinh sát trong một số vấn đề nhất định, thường là hành cho người dân mệt bở hơi tai, đi lên đi xuống nhiều lần. Xét cho cùng, cả hai căn bệnh đều có mức độ nguy hiểm như nhau.
Lợi dụng quyền lực, tham ô giành lấy ưu tiên đặc quyền, đặc lợi sẽ làm cho bộ máy chính trị dần dân bị tha hóa. Cấp dưới nhìn người cấp trên bằng cặp mắt thiều tôn trọng, có khi còn để biện minh cho hành động sai trái của mình. Có thể kẻ nhũng nhiễu không "ăn" được bạc tỉ, nhưng "kiến tha lâu ngày cũng đầy tổ", chắc chắn anh ta kiếm được không kém kẻ tham ô. Tuy chưa chắc gây ra nhưng hậu quả và bất công to lớn, nhưng chính căn bệnh này lại làm người dân phải ca than nhiều.
Tiền đóng thuế bị một bộ phận cán bộ tha hóa đục khoét, dịch vu của Nhà nước cung cấp không đạt chất lượng. Người dân khiếu kiện vì phải tốn nhiều thời gian chờ đợi "cửa quan" mà không được việc. Sự không minh bạch về nhiệm vụ dân đến sự thụ động kéo dài của các cơ quan chúc năng. Hiện tượng "trái banh trách nhiệm" được chuyển đi chuyển lại từ cơ quan này sang đơn vị khác trở nên phố biến trong quá trình giải quyết các chính sách công. Sự bất cập đó dẫn đến hiện tượng mặc dù có những chính sách tam vĩ mô hợp lý, nhưng sự chậm trễ trong việc thực hiện ớ địa phương dã và đang ảnh hưởng tiêu cực đến sự lựa chọn của nhiều nhà đầu tư nước ngoài khi tiếp cận thi trường Việt Nam.
Từ cơ chế đến con người
“Khoảng cách quái ác” ấy cần phải được triệt tiêu! Trước nhất, phát huy dân chủ cơ sở đồng nghĩa với việc chia lập một hệ thống thông tin đầy đủ, trong đó quy định rõ ràng quyền và trách nhiệm của người dân. Ngày nay thông tin là tiền, là quyền lực. Làm kinh tế mà không có thông tin chính xác thì như "thay bói xem voi”. Làm công dân mà không biết mình được quyền gì, nghĩa vụ ra sao thì như đứa trẻ con lưôn bị “cầm tay chỉ việc”. Vì thế, khi công khai và minh bạch đã trở thành một điều khoản mà Việt Nam cam kết với các giới thì cũng chính phương châm này sẽ là phương tiện chính để giải bài toán phát huy dân chủ cơ sở thành công.
Ngoài ra, còn cần những cơ quan chức năng làm công tác "Bao Công”, giúp người dân có thể đảm bảo quyền công dân của mình, như tạo một hệ thống thông tin hai chiều giữa lãnh đạo quản lý với người dân bằng cách công khai số điện thoại, địa chỉ email, thông tin liên lạc, tổ chức tiếp dân theo đinh kỳ... Thêm nữa, nên định nghĩa lại vai trò của hành chính và công chức. Nền hành chúnh dịch vụ phải mang trong mình những tính chất mà các ngành dịch vụ khác sở hữu, chẳng hạn mục tiêu chính là được sự hài lòng của khách hàng (trong trường hợp này là người dân), lắng nghe và trao đổi những ý kiến đóng góp của dân (quyền được giám sát của người dân, thông qua cá nhân, các hiệp hội, xã hội dân sự...), lấy cạnh tranh chất lượng dịch vụ làm mục tiêu để hoàn thiện. Nên tổ chức đánh giá năng lực cạnh tranh, sự hài lòng của người dân, thời gian giải quyết vấn đề giũa các tỉnh thành trong cả nước để rút kinh nghiệm (biện pháp này nên để cho một cơ quan độc lập với chính quyền, hoặc tổ chức phi Chính phủ chuyên về lĩnh vực đánh giá, giám sát đảm nhận).
Một nghịch lý mà ai cũng thấy rõ là trong mô hình cơ chế xin - cho, “công bộc" được quyền ban phát, trong khi "thượng đế” phải luồn cúi, đi ngược hoàn toàn tương quan nhân - quả, gây bắt ổn cho các mối quan hệ bình thường trong xã hội. Khi đã xác định người công chức là một "công bộc" dịch vụ thì câu hởi đặt ra là làm sao khơi dậy niềm vui công việc trong mỗi người cán bộ. Ngoài việc khuyến khích tinh thần yêu nước, phục vụ nhân dân, các truyền thống đáng quý của người cán bộ thì các biện pháp hành chính, kinh tế cũng cần được coi trọng như xây dựng mức lương tối thiểu hợp lý cho đội ngũ công chức, lựa chọn công chức phải thông qua thi tuyển công khai, có chính sách đảm bảo sự thăng tiến của công chức dựa trên tiêu chuẩn khách quan như thành tích, đóng góp, thời gian công tác...
Xin kết thúc bằng hai mẩu chuyện ngắn, một từ nước bạn, một từ nước ta: Tháng 11 năm ngoái, Chính phủ Trung Quốc tái lập chức vụ phát ngôn viên cơ sở trong các cấp chính quyền ở địa phương. Cô Zhang Yunying, phụ trách phường Bát Giác, quân Thạch Cảnh Sơn, thành phố Bắc Kinh trong một lần phát biểu trước báo chí đã nói: "Tôi đứng đây để nói cho dân biết về nhưng gì Chính phủ đang làm và lắng nghe tâm tư nguyện vọng của nhân dân”. Một phát ngôn viên cơ sở không phải là một công cụ thi hành các biện pháp chính trị. Yêu cầu quan trọng nhất cho công việc này chính là thực lòng lo lắng cho nhân dân. Còn ở ta, báo chí đã nêu gương Chủ tịch Quận Tân Phú, TP. Hồ Chí Minh thực hiện nhiều đột phá trong quản lý đô thị, thủ tục nhà đất, cải cách hành chính... nên chỉ trong ba năm, Tân Phú đã làm mới, mở rộng hơn 100 con đường, hẻm. Điều đáng ngạc nhiên là quận không phải chi nhiều tiền để đền bù vì được người dân hiến đất mở đường. Ông "quan cơ sở" này tâm niệm đơn giản rằng: "Có tâm mà chỉ nói nhưng không làm là chưa đủ, nên nói phải đi đôi với làm để làm gương cho cán bộ cấp dưới. Tôi vẫn thường xuyên khuyên anh em rằng lương bổng, phương tiện làm việc là tiền của dân đóng góp nên phải làm sao coi cho được".
Chân lý thường giản dị, song đạt tới chân lý không hề là chuyện dễ. Ông Chủ tịch quận, xã muốn lắng nghe được người dân nghèo ít học thì phải thấu đáo được cái tình, tiếp thu từng lời, từng chữ từ góc nhìn của họ, chứ không phải trên cương vị một Chủ tịch. Sự đồng cảm trước những đắn đo, nhữang trăn trở của bà con chính là cái tâm cần phải có của mỗi người cán bộ. Từ trái tim đến trái tim mới là con đường ngắn nhất thu phục lòng người. Dân chủ không nằm tận đâu xa xôi, có khi, nó đơn giản chỉ qua nụ cười, cái gật đầu của mỗi người dân thầm lặng.
Nguồn: DNSG Cuối tuần
0 comments:
Post a Comment