Tác giả: TS. Võ Trí Hảo,
Khoa Luật kinh tế, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh,
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
truy cập đường link gốc tại đây
Hiện nay, khi vấn đề sửa đổi Hiến pháp 1992 được đặt ra, thì việc nghiên cứu để “xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”1 là cần thiết. Việc xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp theo hướng nào đang là vấn đề có nhiều quan điểm khác nhau. Trên cơ sở phân tích những yếu tố lịch sử, văn hóa và bối cảnh chính trị nước ta, bài viết kiến nghị một mô hình tài phán hiến pháp. Mô hình này phản ánh, bám sát hoàn cảnh chính trị hiện tại của Việt Nam và cũng tham chiếu thông lệ quốc tế, những chuẩn mực được xem là phổ biến, văn minh, tiến bộ.
1. Mô hình tài phán hiến pháp tập trung hay phi tập trung
Khi
một quốc gia có ý định xây dựng nền tài phán hiến pháp, họ thường tham
khảo mô hình của các quốc gia láng giềng. Điều này giống việc chúng ta
quyết định xây một ngôi nhà mới thì cần khảo sát địa chất của mảnh đất
nhà mình và tham khảo mẫu thiết kế của những ngôi nhà đẹp trong làng.
Tài
phán hiến pháp của các quốc gia trên thế giới có thể được chia làm hai
mô hình chính: mô hình tài phán hiến pháp phi tập trung, có khởi nguồn
từ Hoa Kỳ và mô hình tài phán hiến pháp tập trung có khởi nguồn từ nước
Áo và sau đó được hiện đại hóa ở nước Đức. Vì vậy, việc cân nhắc mô hình
tài phán hiến pháp cho Việt Nam ngày nay cũng xuất phát từ việc phân
tích ưu, nhược điểm của hai mô hình trên điều kiện “thổ nhưỡng” Việt
Nam.
Đứng
trước lựa chọn mô hình tài phán hiến pháp tập trung hay phi tập trung,
thì những băn khoăn, lập luận của Hans Kelsen người Đức gần một trăm năm
trước vẫn có giá trị tham khảo rất lớn cho Việt Nam hôm nay.
Vào
năm 1920, khi tài phán hiến pháp được thiết lập tại nước Áo, mô hình
phi tập trung của Hoa Kỳ được cân nhắc, nhưng mô hình này không được
tiếp nhận tại nước Áo, cũng như toàn châu Âu sau này. Ở châu Âu lục địa
thế kỷ 19, ảnh hưởng của nguyên tắc “nghị viện là tối cao”
(nghị viện là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất) còn rất mạnh, vì vậy
rất khó thuyết phục các chính trị gia đương thời chấp nhận việc tòa án
hiến pháp có thể xem xét lại và tuyên bố một đạo luật là vi hiến. Để
tránh xung đột với nguyên tắc “nghị viện là tối cao”, Hans Kelsen đã tìm
ra cách giải thích mới về tài phán hiến pháp. Kelsen cho rằng, tài phán
hiến pháp không phải là tư pháp mà là lập pháp phủ định (một phần của
lập pháp): “việc hủy bỏ một đạo luật có đặc điểm quy phạm như việc ban
hành một đạo luật. Việc hủy bỏ một đạo luật tương đương với việc ban
hành một đạo luật nhưng chỉ thêm dấu trừ (dấu phủ định) ở đằng trước.
Bởi vậy, việc hủy một đạo luật cũng là thực hiện chức năng lập pháp và
một tòa án hủy một đạo luật cũng là một cơ quan thuộc quyền lực lập
pháp. Do đó, chúng ta có thể tưởng tượng việc hủy bỏ một đạo luật thông
qua tòa án tương đương một cuộc “giải phẫu” quyền lực lập pháp và trao
quyền lực lập pháp cho hai cơ quan”2.
Việc
trong mô hình phi tập trung của Hoa Kỳ cho phép bất kỳ tòa án nào cũng
có thể từ chối áp dụng một đạo luật của Quốc hội với lý do vi hiến là
điều không thể chấp nhận được theo suy nghĩ của người châu Âu lúc bấy
giờ. Cho đến tận ngày nay, mô hình tài phán hiến pháp phi tập trung vẫn
không thể áp dụng ở châu Âu còn bởi ở châu Âu lục địa không có truyền
thống án lệ mạnh như Hoa Kỳ. “Nguyên tắc stare decisis còn xa lạ với các
thẩm phán thuộc hệ thống luật châu Âu lục địa, và nếu trong bối cảnh
như vậy, chúng ta cho phép mỗi thẩm phán tự mình quyết định về tính hợp
hiến của một đạo luật thì có thể dẫn đến hiện tượng một đạo luật có thể
bị thẩm phán thứ nhất từ chối áp dụng với lý do bất hợp pháp, nhưng lại
được các thẩm phán ở một tòa án khác coi là hợp hiến và áp dụng nó. Thêm
vào đó, việc thiếu nguyên tắc stare decisis có thể dẫn đến hiện tượng,
cùng một tòa án, nhưng hôm nay tòa án cho rằng một đạo luật nào đó là
bất hợp hiến, từ chối áp dụng nó; nhưng ngày kia, trong một vụ án khác,
các thẩm phán lại thay đổi ý kiến ”.3
Thêm
nữa, kinh nghiệm và kỹ năng của các thẩm phán châu Âu (cho đến tận ngày
nay) vẫn có cái gì đó khác biệt với các đồng nghiệp Hoa Kỳ. Ở châu Âu,
các thẩm phán tương lai thông thường đi theo lộ trình: học đại học, sau
đó làm thư ký tòa án trước khi được bổ nhiệm làm thẩm phán. Bởi vậy,
Hans Kelsen cho rằng các thẩm phán thông thường ở châu Âu không có đủ
kinh nghiệm, kỹ năng cần thiết để có thể trở thành “thẩm phán hiến pháp”
(thẩm phán làm việc tại một tòa án có quyền tài phán hiến pháp).
Trong
khi đó, ở Hoa Kỳ, tất cả các thẩm phán, không phân biệt cấp nào, tòa
nào đều có kinh nghiệm khá dày dặn bởi hai lý do mà thẩm phán châu Âu
lục địa không có được.
Thứ
nhất, để trở thành sinh viên luật học ở châu Âu, ứng viên chỉ cần tốt
nghiệp phổ thông; trong khi đó, để trở thành sinh viên luật học ở Hoa Kỳ
bắt buộc ứng viên phải có bằng cử nhân hoặc kỹ sư của một lĩnh vực
khác. Điều này có nghĩa sinh viên luật học ở Hoa Kỳ đã am hiểu sâu một
ngành lĩnh vực cụ thể của cuộc sống ngay từ lúc bước vào giảng đường
luật học.
Thứ
hai, các thẩm phán ở châu Âu lục địa thường được lựa chọn trong số các
thư ký tòa án. Ngược lại, các thẩm phán ở Hoa Kỳ chủ yếu được lựa chọn
từ các luật sư danh tiếng và có đạo đức tốt. So với các thư ký tòa án
thì kinh nghiệm và kỹ năng của các luật sư này có thể sánh như bậc thầy4.
Liệu
bối cảnh, đặc thù của châu Âu lục địa có nét tương đồng nào với Việt
Nam ngày nay? Liệu những những quan ngại của GS Hans Kelsen và GS
Cappellti về việc áp dụng mô hình tài phán Hoa Kỳ có giống những quan
ngại mà chúng ta cần xem xét ở Việt Nam?
Chúng
tôi cho rằng, sẽ có nhiều nét tương đồng, vì hệ thống pháp luật Việt
Nam thuộc họ pháp luật châu Âu lục địa. Chế độ thuộc địa của người Pháp
trong tám mươi năm đã để lại dấu ấn sâu đậm trong hệ thống pháp luật của
Việt Nam, đặc biệt là dân luật và hệ thống tòa án. Những đặc điểm pháp
luật châu Âu lục địa lại được củng cố, gia tăng thêm lần nữa trong hai
mươi năm “tình hữu nghị Việt - Xô”. Những tư tưởng, học thuyết pháp luật
châu Âu lục địa lần này đến với luật gia, chính trị gia Việt Nam bằng
những phiên bản tiếng Nga.
Khác
với thời kỳ Pháp thuộc, ba mươi năm chiến tranh của Hoa Kỳ (chủ nghĩa
đế quốc) để lại rất ít dấu vết của hệ thống Common Law. Và các dấu vết
ít ỏi này cũng bị tẩy rửa sau năm 1975.
Dấu
vết rõ ràng nhất của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa có thể tìm thấy
tại Điều 83 Hiến pháp năm 1992 của Việt Nam. Quan điểm Quốc hội là “cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất” rất gần với quan điểm “volonté
générale” của người Pháp ở thế kỷ 20 và đặc biệt gần gũi với quan niệm
về Soviet của người Nga.
Lý
do thứ hai liên quan tới quan ngại của Capellti về thiếu hệ thống án lệ
thì những quan ngại đó còn nguyên giá trị. Vì nếu như ở châu Âu lục địa
lúc bấy giờ thiếu truyền thống án lệ mạnh, hiện nay ở Việt Nam án lệ
còn chưa được công nhận chính thức, mà chỉ tồn tại rải rác, “ẩn” trong
các Nghị quyết tổng kết công tác xét xử của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao. Thời gian gần đây, án lệ mới bắt đầu được đề cập đến
trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Ngoài
ra, kinh nghiệm, kỹ năng của thẩm phán Việt Nam hiện nay cũng còn yếu.
Con đường trở thành thẩm phán ở Việt Nam rất giống ở châu Âu lục địa.
Bởi nguyên tắc Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất cũng như
thực trạng chất lượng thẩm phán chưa cao nên việc áp dụng mô hình tài
phán hiến pháp phi tập trung ở Việt Nam là điều không tưởng.
Việc
từ chối áp dụng mô hình tài phán hiến pháp phi tập trung không có nghĩa
rằng tất cả các luật gia Việt Nam sẽ nhất trí lựa chọn mô hình Áo -
Đức, mà vẫn có ý kiến gợi ý mô hình Hội đồng Hiến pháp của người Pháp
(Conseil constitutionnel)5 vì mô hình Hội đồng Hiến pháp đưa
ra chỗ về hưu danh giá cho các chính trị gia hàng đầu, nên sẽ dễ bề nhận
được sự ủng hộ của các chính trị gia này. Hơn nữa, mô hình Hội đồng
Hiến pháp đã được một quốc gia cận kề là Căm-pu-chia áp dụng.
Tuy
nhiên, chúng tôi cho rằng, mô hình này là không hợp lý, bởi lẽ trước
hết, mô hình Hội đồng Hiến pháp không thể hoàn toàn phán quyết về tất cả
những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp,
cái mà đường lối của Đảng yêu cầu cũng như rất nhiều luật gia Việt Nam
mong mỏi. Điều đó là dễ hiểu bởi Hội đồng Hiến pháp chỉ có chức năng
phòng hiến (phòng ngừa vi phạm hiến pháp), còn đối với các vi phạm hiến
pháp đã xảy ra, Hội đồng Hiến pháp đành bất lực quay mặt đi6.
Đối với công dân Pháp, sau năm 1992 họ có thể mang vụ việc, trong đó
quyền lợi của họ bị xâm hại bởi các hành vi vi hiến lên Tòa án Cộng đồng
châu Âu. Dĩ nhiên, khi Hội đồng Hiến pháp Việt Nam (nếu được thành lập
theo kiến nghị nói trên) thúc thủ trước hành vi vi hiến, thì công dân
Việt Nam không thể kêu cứu lên Tòa án Cộng đồng châu Âu, và càng không
thể kêu cứu lên Tòa án ASEAN, vì một thiết chế tương tự như Tòa án Cộng
đồng châu Âu chưa được thiết lập cho công dân Việt Nam. Thứ hai, Hội
đồng Hiến pháp mang nhiều đặc điểm là một cơ quan chính trị, chứ không
phải là một cơ quan tài phán bởi theo mô hình này, một số thành viên của
Hội đồng Hiến pháp không cần có trình độ cử nhân luật học, không cần
trình độ chuyên môn7. Thứ ba, thủ tục tại Hội đồng Hiến pháp
không công khai và thiếu đặc trưng của thủ tục tố tụng. Cuối cùng, mặc
dầu đã có thêm một lớp lưới an toàn là Tòa án Cộng đồng châu Âu, nhưng
người Pháp hiện nay cũng không hài lòng với Hội đồng Hiến pháp, nên đang
thảo luận việc sửa đổi, hủy bỏ nó8.
Ngoài
mô hình Hội đồng Hiến pháp, một vài chính trị gia còn đề xuất mô hình
mà chức năng tài phán hiến pháp sẽ được thực hiện bởi Ủy ban của Quốc
hội, tương tự như chức năng giải thích hiến pháp hiện nay được thực hiện
bởi Ủy ban thường vụ Quốc hội. Mô hình này cũng từng được thảo luận vào
thời điểm nước Áo lựa chọn mô hình tài phán hiến pháp cho mình. Hans
Kelsen lúc đó cho rằng, mô hình này là một ý tưởng ngây thơ về mặt chính
trị. Ông viết: “trong bất kỳ trường hợp nào, dù là nhằm bảo đảm tính
hợp pháp cũng như bảo đảm tính hợp hiến thì không nên trao quyền xem xét
và hủy bỏ hành vi bất hợp pháp, bất hợp hiến cho chính cơ quan đã có
hành vi (ban hành ra) hành vi bất hợp pháp, bất hợp hiến9”.
Và “Chỉ có thể cầu đến một cơ quan độc lập với cơ quan lập pháp, cũng
như độc lập với bất kỳ cơ quan nhà nước khác thì mới có thể hủy các hành
vi vi hiến của các nhà lập pháp. Đó chính là định chế của một tòa án
hiến pháp10”.
Việc
phân tích hai mô hình tài phán hiến pháp chính trên thế giới và hai
luồng ý kiến khác nhau cho chúng ta kết quả rằng: mô hình tài phán hiến
pháp tập trung theo kiểu Áo - Đức, với một số điểm cải biên, là phù hợp
nhất với bối cảnh lịch sử, văn hóa, chính trị của Việt Nam hiện nay.
Kinh nghiệm về tài phán hiến pháp của hai quốc gia láng giềng Hàn Quốc,
Thái Lan cũng cho thấy mô hình phi tập trung kiểu Áo - Đức là phù hợp
nhất với bối cảnh văn hóa châu Á. Thật thú vị là mô hình tài phán hiến
pháp tập trung đã tồn tại và thu được nhiều thành công trên chính mảnh
đất Việt Nam trước những năm 1975.
2. Xây dựng một tòa án hiến pháp độc lập
Các
luật gia Việt Nam có thể dễ dàng thống nhất về mô hình tài phán hiến
pháp tập trung vì những lý do nêu trên, nhưng việc tổ chức cơ quan tài
phán hiến pháp tập trung như thế nào thì thường có hai phiên bản. Ở
phiên bản thứ nhất, chức năng tài phán hiến pháp sẽ được thực hiện bởi
một tòa án riêng độc lập với tòa án tối cao. Ví dụ như ở Đức, Hàn Quốc,
Thái Lan, Nga. Ở phiên bản thứ hai, chức năng tài phán hiến pháp sẽ được
thực hiện bởi chính tòa án tối cao. Tòa án tối cao trong mô hình này sẽ
thực hiện các chức năng giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các loại tài
phán hình sự, dân sự, hành chính... đồng thời thực hiện tài phán hiến
pháp. Trong tòa án tối cao có thể thành lập ra Ban tài phán hiến pháp
nhưng ban này chỉ có chức năng nghiên cứu, chuẩn bị hồ sơ, đưa ra ý kiến
tư vấn cho Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao, ví dụ như Tối cao pháp
viện theo Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1967.
Về
chiến lược dài hạn cho Việt Nam, chúng tôi cho rằng, chúng ta nên theo
phiên bản thứ nhất: Thành lập một Tòa án hiến pháp độc lập, bởi:
Thứ nhất
, sợi dây giữa tài phán hiến pháp và chính trị phức tạp hơn, gần hơn so
với các loại tài phán khác như tài phán hình sự, dân sự. Vì vậy, nhằm
bảo đảm sự vô tư cho tài phán hiến pháp cần áp dụng các biện pháp bổ
sung so với các loại hình tài phán khác. Việc tách biệt tòa án hiến pháp
ra khỏi tòa án tối cao sẽ tạo điều kiện dễ dàng và hiệu quả hơn cho
việc áp dụng các biện pháp này, qua đó tạo ra sự độc lập cao cho tòa án
hiến pháp.
Thứ hai,
điều này nằm ở khả năng lựa chọn nơi đặt trụ sở của tòa án hiến pháp.
Kinh nghiệm từ việc Tòa án hiến pháp Liên bang Đức không đặt tại trung
tâm chính trị Berlin hay Bonn mà đặt ở Karlsruhe có thể xem là một bài
học quý trong vấn đề bảo đảm sự độc lập cho tài phán hiến pháp ở Việt
Nam. Về điểm này, Otto Depenheuer, trong cuốn sách “Tài phán hiến pháp
và vấn đề xây dựng mô hình tài phán hiến pháp ở Việt Nam”11
đã viết như sau: Nhằm tăng cường niềm tin vào thẩm phán thì các thẩm
phán cần tự mình giữ khoảng cách với các quyền lực chính trị. Sự xa cách
về mặt địa lý giữa tòa án và trung tâm chính trị (tác giả ám chỉ
Berlin) sẽ làm cho việc giữ gìn kỷ luật và trách nhiệm vô tư của thẩm
phán sẽ được nhẹ nhàng hơn.
Nếu
muốn giữ khoảng cách về mặt địa lý giữa trụ sở của tài phán hiến pháp
với trung tâm chính trị thì phiên bản thứ hai (tài phán hiến pháp là một
chức năng của tòa án tối cao) sẽ không thể đáp ứng được vì Tòa án nhân
dân tối cao đã đặt trụ sở tại Hà Nội. Theo ý kiến cá nhân, sẽ rất có ý
nghĩa nếu Tòa án hiến pháp tương lai của Việt Nam đặt trụ sở tại thành
phố trung tâm khác Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Ngoài việc giảm thiểu sự
can thiệp chính trị, tăng tính độc lập của tòa án, thì việc đặt trụ sở
tòa hiến pháp ngoài hai thành phố này còn có ý nghĩa giảm áp lực đô thị
hóa cho Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
Thứ ba
, lương bổng của thẩm phán, cũng như công chức hiện nay là khá thấp,
nói chung chủ yếu dựa vào thâm niên mà ít căn cứ vào tài năng hay vị trí
công việc đảm nhận. Bất cập này chưa thể một sớm một chiều khắc phục
được trên diện rộng thì cũng cần phải được khắc phục trong phạm vi các
thẩm phán hiến pháp. Ngoài ra, chu trình bổ nhiệm, nhiệm kỳ, trách nhiệm
của thẩm phán hiến pháp - những người được xem là tinh túy của nền luật
học Việt Nam - cũng cần phải khác biệt với các thẩm phán của Tòa án
nhân dân hiện nay. Những biện pháp đãi ngộ riêng nói trên nhằm nâng cao
tính độc lập, đạo đức, chuyên môn của thẩm phán hiến pháp chỉ có thể
phát huy dễ dàng trong mô hình thiết lập một Tòa án hiến pháp độc lập
với Tòa án nhân dân hiện nay.
Thứ tư
, Tòa án hiến pháp độc lập sẽ tạo ra một diện mạo hoàn toàn mới cho tài
phán hiến pháp, tách biệt so với diện mạo của hệ thống tòa án hiện nay.
Chúng ta không nên xem nhẹ ý nghĩa của điều này, vì tài phán hiến pháp
hầu như không có cơ quan cưỡng chế riêng biệt. Việc tuân thủ phán quyết
của Tòa án hiến pháp phụ thuộc vào tập quán chính trị, bối cảnh chính
trị và sự tôn trọng của công chúng cũng như của các chính trị gia dành
cho Tòa án hiến pháp. Nói cách khác, danh tiếng của Tòa án hiến pháp
càng cao thì khả năng công luận đòi hỏi sự tuân thủ phán quyết của Tòa
án hiến pháp càng lớn. Trong khi đó, danh tiếng của Tòa án nhân dân tối
cao qua những vụ án rắc rối tương tự như vụ án Huỳnh Văn Nam12 hay vụ án Vườn Điều chưa thể một sớm một chiều nhận được sự ủng hộ cần thiết13
của công luận đủ để tạo nên áp lực chính trị buộc các cơ quan chính trị
hàng đầu của Việt Nam với tư cách là bị đơn tuân thủ phán quyết của Tòa
án. Việc thành lập Tòa án hiến pháp mới sẽ cho phép danh tiếng của tổ
chức này thoát ly những vụ án bị chỉ trích nhiều của Tòa án nhân dân tối
cao14.
Thứ
năm, vấn đề liên quan đến tính mở trong nguồn bổ nhiệm thẩm phán hiến
pháp. Nếu phiên bản thứ hai được lựa chọn, thì khả năng lớn là chức năng
tài phán hiến pháp sẽ được thực hiện bởi một bộ phận của Tòa án nhân
dân tối cao, giống như việc thiết lập tài phán hành chính ở Việt Nam năm
1996. Khi đó, một hiện tượng tương tự sẽ xảy ra: các thẩm phán tài phán
hiến pháp (năm 1996 là thẩm phán hành chính) sẽ được lựa chọn không
phải từ bên ngoài, mà chủ yếu thuyên chuyển các thẩm phán đương nhiệm ở
tòa hình sự, dân sự, kinh tế của Tòa án nhân dân tối cao sang làm thẩm
phán hiến pháp (năm 1996 là thẩm phán hành chính). Nếu điều này xảy ra
sẽ khó lòng bảo đảm tính chuyên môn, vì hầu hết các thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao chỉ thạo về luật hình sự, dân sự, kinh doanh, hành
chính... chứ không phải là luật hiến pháp.
Nếu
phiên bản thứ nhất được chấp nhận (thiết lập Tòa án hiến pháp độc lập)
thì tính mở của việc bổ nhiệm thẩm phán sẽ được cải thiện hơn nhiều; đặc
biệt là các giáo sư luật học, chính trị học, các luật gia nổi tiếng sẽ
có nhiều cơ hội làm việc tại Tòa án hiến pháp.
Thứ
sáu, điều này liên quan đến kinh nghiệm đã từng xảy ra với tài phán
hành chính. Năm 1996, tài phán hành chính được thiết lập ở Việt Nam như
là một bộ phận của Tòa án nhân dân tối cao. Các thẩm phán hình sự, dân
sự đương nhiệm sau một đêm “được” trở thành - hay “bị” trở thành - thẩm
phán hành chính. Họ đều có chung dự đoán là trong năm năm đầu thì tài
phán hành chính sẽ trong tình trạng “vườn hồng có lối nhưng không ai
vào”, nên các thẩm phán hình sự, dân sự giỏi không muốn trở thành thẩm
phán hành chính. Và sự tiên tri này dường như đã ứng vận trong năm năm
đầu tiên của tài phán hành chính: Các thẩm phán hành chính có thời gian
trung bình dành cho uống trà, đọc báo nhiều hơn các đồng nghiệp của
mình. Nếu lựa chọn phiên bản thứ hai thì khả năng lớn là kinh nghiệm
không mấy vui vẻ của thẩm phán hành chính năm 1996 sẽ lặp lại với thẩm
phán hiến pháp.
Mặc
dầu có sáu ưu điểm vượt trội nói trên, nhưng trong vòng bảy năm tới,
khả năng hiện thực hóa của phiên bản thứ nhất thấp hơn phiên bản thứ
hai. Do phiên bản thứ nhất, trước mắt thiếu những động lực chính trị vận
động hành lang cho nó. Hay nói cách khác, trong giai đoạn quá độ có thể
chấp nhận phiên bản thứ hai trong mười năm đầu tiên của tài phán hiến
pháp. Tác giả sẽ phân tích những động lực chính trị này và trình bày sâu
về phiên bản thứ hai ở một bài viết khác.
Việc
chấp nhận phiên bản thứ hai (trao cho Tòa án nhân dân tối cao hiện hành
thực hiện chức năng tài phán hiến pháp) như là một giải pháp quá độ là
hợp lý. Nhưng việc chấp nhận mô hình Hội đồng Hiến pháp như là một giải
pháp quá độ thì không nên, vì việc chuyển đổi từ phiên bản thứ hai sang
phiên bản thứ nhất sau mười năm quá độ sẽ diễn ra dễ dàng, còn việc
chuyển đổi từ mô hình Hội đồng Hiến pháp sang một nền tài phán hiến pháp
thực thụ như Áo, Đức, Hoa Kỳ là điều nan giải mà người Pháp hiện nay
đang phải đối mặt.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 127.
(2)
Hans Kelsen, im Wesen und Entwicklung der Staatsgerichtsbarkeit -
Überprüfung von Verwaltungsakten durch die ordentlichen Gerichte, Walter
de Gruyter & Co. Berlin, 1928, tr. 54.
(3)
Cappelleti (1989:140) dẫn theo Georg Vanberg, G. (2005), The politics
of constitutional review in Germany, Cambridge Univ. Press, 2005, S, 79.
(4) Georg Vanberg, sđd , tr. 79.
(5) Bùi Ngọc Sơn, Bảo hiến ở Việt Nam, NXB Tư pháp. Hà Nội. 2005, Tr. 110.
(6)
Mels, P. (2003). Bundesverfassungsgericht und Conseil de Constitution:
ein Vergleich der Verfassungsgerichtsbarkeit in Deutschland und
Frankreich im Spannungsfeld zwischen der Euphorie für die Krönung des
Rechtsstaats und der Furcht vor einem “gouvernement des juges”. München,
Vahlen.
(7) Philipp Mels, sđd, tr. 130.
(8)
Võ Trí Hảo, Hà Thu Thủy, Những vấn đề lý luận của việc thành lập tài
phán Hiến pháp ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 5(121), tháng
5/2008.
(9) Hans Kelsen, sđd, tr. 53.
(10) Hans Kelsen, sđd, tr. 53.
(11)
Đào Trí Úc - Nguyễn Như Phát (Chủ biên), Tài phán hiến pháp và vấn đề
xây dựng mô hình tài phán hiến pháp tại Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân,
Hà Nội, 2007, tr. 57.
(12)
LS. Ngô Bảo Trâm, Ngô Minh Hưng, Công lý không thể có “điểm dừng”, xem
tại:
http://phapluattp.vn/198556p1015c1074/cong-ly-khong-the-co-diem-dung.htm;
Nghĩa Nhân, Quốc hội cần bảo vệ quan điểm tăng quyền cho luật sư, xem
tại: http://vnexpress.net/gl/phap-luat/2003/06/3b9c8b21/; Án “đụng trần”
vẫn có thể xét xử lại, Báo Pháp luật TP. Hồ Chí Minh, xem tại: http://www.baomoi.com/An-dung-tran-van-co-the-xu-lai/121/3080967.epi
(13)
LS. Ngô Bảo Trâm, Ngô Minh Hưng, Công lý không thể có “điểm dừng”, xem
tại:
http://phapluattp.vn/198556p1015c1074/cong-ly-khong-the-co-diem-dung.htm
(14)
Trả lời phỏng vấn của Nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Vũ
Đức Khiển trong bài viết, Án “đụng trần” vẫn có thể xét xử lại, Báo
Pháp luật TP. Hồ Chí Minh, xem tại: http://www.baomoi.com/An-dung-tran-van-co-the-xu-lai/121/3080967.epi
0 comments:
Post a Comment