Huy Đức
Nguồn: Blog nhà báo Huy Đức,
truy cập đường link gốc tại đây
Khi lực lượng cưỡng chế huyện Tiên Lãng đến khu đầm, anh Vươn cho nổ
trái mìn tự tạo cài dưới một bình gas. Bình gas không nổ. Nhưng, trái
mìn tự tạo vẫn gây tiếng vang như một quả bom, “quả bom Đoàn Văn Vươn”.
Vụ nổ không chỉ gây rúng động nhân tâm mà còn giúp nhìn thấy căn nguyên
các xung đột về đất đai. Quyền sở hữu nói là của “toàn dân”, trên thực
tế, rất dễ rơi vào tay đám “cường hào mới”.
Sự Tùy Tiện Của Nhà Nước Huyện
Quyết
định giao bổ sung 19,5 ha đất nuôi trồng thủy sản cho ông Đoàn Văn
Vươn, ký ngày 9-4-1997, ghi thời hạn sử dụng là 14 năm tính từ ngày
14-10-1993. Theo báo Thanh Niên, ở thời điểm ấy, chính quyền huyện Tiên
Lãng đã quy định thời hạn giao đất cho nhiều cá nhân, hộ gia đình rất
tùy tiện: có người được giao 4 năm; có người 10 năm... Tuy thời điểm này
chưa có các nghị định hướng dẫn chi tiết việc thi hành, nhưng Luật Đất
đai năm 1993 đã nói rõ thời hạn giao đất nuôi trồng thủy sản cho hộ gia
đình và cá nhân là 20 năm.
Theo Nghị định ngày 28-08-1999,
nếu chính quyền Tiên Lãng không tùy tiện thì gia đình ông Vươn có quyền
sử dụng phần đất này cho đến ngày 9-4-2017, tính từ ngày ông được huyện
ký giao; tối thiểu cũng phải đến ngày 15-10-2013, nếu huyện “ăn gian”
tính theo ngày Luật Đất đai có hiệu lực. Vấn đề là, cho dù đất được giao
của gia đình ông Vươn hết hạn thì có phải là đương nhiên bị thu hồi để
giao cho người khác như cách mà Tiên Lãng đã làm. Luật Đất đai 2003 quy
định hạn điền cho loại đất nuôi trồng thủy sản là 3 hecta và với phần
đất vượt hạn mức của ông Vươn có thể áp dụng Điều 35 để cho ông tiếp tục
thuê như quy định đối với đất đai nông nghiệp.
Sở Hữu Toàn Dân
Tuy
dịch từ Hiến pháp 1936 của Liên xô, Hiến pháp 1959 của Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa vẫn chưa “quốc hữu hóa đất đai”. Cho dù, từ thập niên 1960s ở
miền Bắc và từ cuối thập niên 1970s ở miền Nam, ruộng đất của nông dân
đã bị buộc phải đưa vào tập đoàn, hợp tác xã, đất đai chỉ chính thức bị
coi là thuộc “sở hữu toàn dân” kể từ Hiến pháp 1980.
Theo
Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc: “Trong bản dự thảo Hiến pháp 1980 do
Chủ tịch Trường Chinh trình Bộ Chính trị vẫn đề nghị duy trì đa hình
thức sở hữu, trên cơ sở khuyến khích 5 thành phần kinh tế. Theo tôi biết
thì Bộ Nông nghiệp và Ban Nông nghiệp Trung ương cũng không đồng ý quốc
hữu hóa”. Nhưng, ngày 10-9-1980, trong một bài nói chuyện trước Ban
chấp hành Trung ương có tựa đề, “Hiến pháp mới, Hiến pháp của chế độ làm
chủ tập thể xã hội chủ nghĩa”, Tổng Bí thư Lê Duẩn nói: “Nhân đây, tôi
nhấn mạnh một điểm rất quan trọng trong Dự thảo Hiến pháp mới là chuyển
toàn bộ đất đai thành sở hữu toàn dân. Đề ra như vậy hoàn toàn đúng với
quy luật tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Ông Nguyễn Đình Lộc, thành viên Ban
thư ký của Ủy ban Soạn thảo Hiến pháp 1980, thừa nhận: “Khi đó, uy tín
Lê Duẩn bao trùm. Mặt khác, nhiều người cũng không hình dung được bản
chất của sở hữu toàn dân là quốc hữu hóa”.
Tuy chấp nhận
quốc hữu hóa đất đai nhưng theo ông Tôn Gia Huyên, lúc bấy giờ là Vụ phó
vụ Quản lý Đất đai, ông Trường Chinh chủ trương giữ nguyên hiện trạng
chứ không tịch thu ruộng đất như điều mà Lenin đã làm với kulax ở Nga
sau năm 1917. Ông Trường Chinh yêu cầu ghi vào Điều 20 của Hiến pháp
1980: “Những tập thể và cá nhân đang sử dụng đất đai được tiếp tục sử
dụng và hưởng kết quả lao động của mình theo quy định của pháp luật”.
Khi
Hiến pháp 1992 bắt đầu được soạn thảo, theo ông Phan Văn Khải: “Thủ
tướng Võ Văn Kiệt và tôi muốn sửa Hiến pháp theo hướng, trao quyền sở
hữu ruộng đất cho nông dân nhưng không thành công, chúng tôi đành phải
tìm ra khái niệm, trao 5 quyền cho người sử dụng đất”. Trong Đại hội
Đảng lần thứ VII, vòng I, nhiều nhà lãnh đạo địa phương đã lên tiếng ủng
hộ “đa sở hữu hóa đất đai”. Nhưng, ở cấp cao, theo Trưởng ban Biên tập
Hiến pháp 1992, ông Nguyễn Đình Lộc: “Không ai có đủ dũng cảm đứng lên
đòi bỏ sở hữu toàn dân, vì đó là một vấn đề nhạy cảm, đụng đến chủ nghĩa
xã hội. Khi chuẩn bị bài phát biểu về Hiến pháp cho Tổng Bí thư Đỗ
Mười, tôi có trình bày, nhưng ông Đỗ Mười nghiêng về sở hữu toàn dân.
Ông tin vào điều ông Lê Duẩn nói, sở hữu toàn dân là quan hệ sản xuất
tiên tiến. Ông Đỗ Mười tin, trước sau gì ta cũng tới đó nên cứ để vậy”.
Các Nhà Làm Luật
Luật
Đất đai 1993 đã trao cho người dân 5 quyền: sử dụng, chuyển nhượng,
thừa kế, thế chấp và cho thuê quyền sử dụng đất. Nhưng, so với Hiến pháp
1992, Luật Đất đai 1993 có một điểm lùi. Hiến pháp ghi: “Nhà nước giao
đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài”. Trong khi Luật
chỉ giao đất cho cá nhân và chỉ giao có thời hạn. Ông Tôn Gia Huyên giải
thích: “Thời hạn giao đất thực chất chỉ là ý chí chính trị, là sợi chỉ
cuối cùng để phân biệt giữa sở hữu tư nhân và sở hữu Nhà nước”. Là ranh
giới để trấn an những người vẫn còn tin, Việt Nam tiếp tục đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Nhưng, cái ranh giới tưởng có giá trị trấn
an ấy đã lại rất mù mờ, mù mờ ngay trong đầu chính các nhà lập pháp.
Tháng 7-1993, sau bốn buổi thảo luận trên Hội trường về Luật Đất đai,
các đại biểu miền Nam đề nghị “giao đất lâu dài” như Hiến pháp 1992,
trong khi các đại biểu miền Bắc và miền Trung lại tán thành giao đất có
thời hạn; thậm chí có đại biểu còn đòi rút ngắn thời hạn giao đất xuống
còn từ 10-15 năm. Trong tính toán của nhiều người, giao đất có thời hạn
nghĩa là sau đó Nhà nước có thể lấy lại để giao cho người khác. Đại biểu
Đặng Quốc Tiến, Bắc Thái, nói: “Đất ít, người đông, giao có thời hạn
thì sẽ bảo đảm cho công tác điều chỉnh đất đai khi có biến động nhân
khẩu”. Ông Nguyễn Bá Thanh, khi ấy là Chủ tịch Thành phố Đà Nẵng, đã rất
hăng: “Đi nghĩa vụ quân sự 2 năm thì kêu dài, giao đất 20 năm thì bảo
ngắn”.
Khi Luật Đất đại 1993 được đưa ra sửa đổi, Chính
phủ đề nghị nâng thời hạn giao đất nông nghiệp từ 20 năm lên 50 năm.
Trong hai ngày 14 và 16-11-1998, nhiều đại biểu cũng đã phản ứng, thậm
chí còn có phần gay gắt. Chủ nhiệm Hợp tác xã nông nghiệp Đại Thắng, Đại
Lộc (Quảng Nam) ông Trần Văn Mai nói: “Số nông dân chưa có đất đang
trông chờ cho hết thời điểm 20 năm, bây giờ đã được 5 năm, còn 15 năm
nữa họ sẽ được chia đất. Nếu bây giờ ta tăng thời hạn lên 50 năm sẽ là
một sự hụt hẫng lớn của nhân dân với Đảng”. Theo cách hiểu của ông Trần
Văn Mai: “Hoặc hết hạn 20 năm, hoặc người sử dụng đất chết, chúng ta sẽ
thu hồi cấp lại cho những nhân khẩu phát sinh”. Nhưng, Bí thư Tỉnh ủy
Quảng Trị, ông Nguyễn Đức Hoan đã phát biểu: “Đừng lo cho 20 năm sau
không có đất để phân phối lại. Bây giờ ở ta 80% dân số làm nông nghiệp.
Không lẽ 20 năm sau cũng 80%?”. Chủ tịch Hội nông dân tỉnh Đồng Tháp ông
Trương Minh Thái cho rằng: “Đừng nghĩ chúng ta chỉ có thể điều phối
ruộng đất ở nông thôn bằng cách thu hồi rồi chia lại. Chúng ta đã giao
cho người dân năm quyền, họ có thể để thừa kế, hoặc sang nhượng cho
người chưa có đất”.
Đất Dân Quyền Quan
Năm
quyền của người sử dụng đất sau đó được “pháp điển hóa” trong Bộ Luật
Dân sự 1995 như các quyền dân sự. Quyền sở hữu, tuy “trá hình” này, vẫn
là cơ sở pháp lý để hình thành thị trường địa ốc. Và trong giai đoạn
đầu, nhờ tư vấn của World Bank, thị trường đã được điều hành bằng công
cụ thuế. Cho dù do thuế suất quá cao, Luật Thuế Chuyển quyền sử dụng
đất, ngay lúc ấy, đã khiến nhà đất đóng băng nhưng sử dụng công cụ thuế
chính là thừa nhận giá trị các giao dịch dân sự liên quan tới đất đai.
Tuy nhiên, chính quyền các cấp có vẻ như không mấy mặn mà với vai trò
đứng ngoài. Các giao dịch, đặc biệt là mua bán đất đai đã bị hành chánh
hóa: Nhà nước thu hồi đất của người bán rồi giao đất cho người mua. Thay
vì thu thuế chuyển quyền, người mua phải đóng tiền sử dụng đất, đặt
người có đất trong tình thế phải trả tiền hai lần.
Đỉnh
cao của sai lầm về chính sách là Pháp lệnh 14-10-1994 và Nghị định 18,
hướng dẫn thi hành Pháp lệnh đó. Theo Nghị định 18, các tổ chức không
còn được giao đất có đủ các quyền như Hiến pháp 1992. Những doanh nhân
tiên phong như Tăng Minh Phụng, Liên Khui Thìn, Trần Quang Vinh… đã vay
hàng ngàn tỷ đồng để mua đất, sau Nghị định 18 phải chuyển những lô đất
ấy thành đất thuê và chỉ được thế chấp ngân hàng theo giá trị số tiền
thuê đã trả cho nhà nước. Khi bị bắt, cũng nhân danh “đất đai thuộc sở
hữu toàn dân”, Hội đồng thẩm định do Nhà nước lập ra đã tính, có những
mét vuông đất, giá không bằng que kem. Đất biệt thự đường Trần Phú, Vũng
Tàu, mà chỉ được Tòa công nhận giá ba-trăm-đồng/m2. Khoản chênh lệch
giữa giá thực mua và giá của Tòa được coi là thất thoát để buộc tội các
doanh nhân này lừa đảo.
Trong tù, có lúc Minh Phụng nói
với Luật sư Nguyễn Minh Tâm: “Xin luật sư hãy nhìn vào mắt em để xem em
có phải là người lừa đảo?”. Ngày 12-7-1999, khi nghe Luật sư Tâm nhắc
lại câu này Minh Phụng đã bật khóc trước Tòa. Cũng đầu tư vào đất đai
cùng một phương thức tuy khác quy mô, nhưng, thái độ của Nhà nước với
giá đất đã biến ông Lê Văn Kiểm, Huy Hoàng, thành anh hùng và tử hình
ông Tăng Minh Phụng.
Danh Chính Ngôn Thuận
Đầu
tháng 12-2011, Chính quyền Đà Nẵng nơi ông Nguyễn Bá Thanh là Bí thư
kiêm Chủ tịch Hội đồng Nhân dân đã đề nghị cho tư nhân sở hữu đất đai.
Sau 20 năm lãnh đạo một địa phương, có lẽ ông Nguyễn Bá Thanh nhìn thấy,
quyền sở hữu trá hình đã đặt đất đai của người dân vào tay chính quyền
cấp huyện với quá nhiều rủi ro. Điều 38, Luật Đất đai 2003, nói: Nhà
nước chỉ thu hồi đất khi “cá nhân sử dụng đất chết mà không có người
thừa kế” (khoản 7). Nhưng, tại khoản 10 cũng của Điều 38, Luật lại mở ra
khả năng: Nhà nước thu hồi những phần đất “không được gia hạn khi hết
thời hạn”. Chính quyền cấp huyện được Luật giao quyền giao đất và thu
hồi đất của cá nhân và hộ gia đình. Nếu chính quyền Tiên Lãng áp dụng
điều 67, tiếp tục giao đất cho ông Vươn, thì đã không có gì xảy ra,
nhưng họ đã đẩy ông vào khoản 10, Điều 38: Thu hồi đất vì “không được
gia hạn” khi thời hạn giao đất của ông đã hết.
Sau “trái
bom Đoàn Văn Vươn”, chúng ta biết, khu đất đầm mà anh có không phải là
đất được nhà nước giao mà là đất do gia đình anh phải lấn biển, khai
hoang. Suốt 5 năm “trầm mình dưới nước từ mờ sáng tới tận tối khuya”,
biết bao lần bị bão biển cuốn phăng để đắp được một bờ kè dài hai cây
số, tạo nên bãi bồi màu mỡ và một khu đầm nuôi tôm cá rộng gần 40 hecta.
Cũng nơi đây, anh Vươn mất một đứa con gái 8 tuổi vì khi cha mẹ mải làm
con gái của anh đã rơi xuống cống. Đừng nói chuyện thu hồi, lẽ ra chính
quyền Tiên Lãng phải xấu hổ khi ký quyết định giao cho anh Vươn phần
đất của chính anh, phần đất mà anh Vươn đã phải gắn bó suốt 20 năm, đã
đổ cả mồ hôi và máu.
Nếu như, quyền sở hữu về đất đai của
người dân được công nhận, thì cách khai hoang, lấn biển của gia đình anh
Vươn phải được coi như một hình thức thụ đắc ruộng đất mà từ xa xưa cha
ông ta đã áp dụng cho người dân để ngày nay Việt Nam liền một dải từ
Lạng Sơn đến Mũi Cà Mau. Nếu như quyền sở hữu về đất đai của người dân
được công nhận, Chính quyền không thể hành chính hóa các giao dịch dân
sự liên quan đến đất đai. Các đại gia không thể thậm thụt với đám cường
hào thu hồi những mảnh đất của dân mà họ mua không được.
Nhưng
đó là câu chuyện có thể được thảo luận trong quá trình sửa đổi Hiến
pháp. Người dân đang dõi theo thái độ của Chính phủ, của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội trước trường hợp Đoàn Văn Vươn.
Theo cách giải
thích của Giám đốc Công an Hải Phòng Đỗ Hữu Ca thì đất ông Vươn nằm
trong vùng quy hoạch xây dựng một sân bay quốc tế. Nếu thu hồi bây giờ
hoặc chuyển thành thuê thì mai này nhà nước không phải bồi thường cho
ông Vươn. Đỗ Hữu Ca nói: “Với công trình đặc biệt quan trọng như thế thì
đền bù sẽ rất lớn. Ông Vươn cố giữ lại như thế để lấy đền bù khi dự án
được triển khai”. Có thể Đỗ Hữu Ca là một công chức mẫn cán chứ không
phải là “cụ Bá”. Nhưng, lo quyền lợi của nhà nước sao không tính quyền
lợi của dân, không tính máu và mồ hôi 20 năm của gia đình anh Vươn. Chắc
Đỗ Hữu Ca không nghĩ, anh em, bà con ông và chỉ vài năm nữa chính ông
cũng là dân.
Đỗ Hữu Ca có lẽ không nhớ chuyện anh rể của
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, sáng 17-4-2009, bị “áp giải ra khỏi hiện
trường” khi chính quyền huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương tiến hành cưỡng
chế thu hồi hơn 185 hecta cao su của ông để làm khu công nghiệp. Ông đã
không đồng ý cho giải tỏa, mặc dù, 185 hecta cao su này ông có được nhàn
hạ hơn so với công sức khai hoang, lấn sóng của anh Vươn và mức đền bù
thì cao hơn gấp 20 lần giá vốn. Nhắc lại câu chuyện này để thấy, bất
luận là ai, khi phải đối diện với tấc đất của mình thì mới thấy của đau,
con xót.
Dù sao thì hành động chống người thi hành công
vụ của anh Đoàn Văn Vươn cũng phải được đưa ra xét xử. Nhưng, thông điệp
mà các địa phương chờ đợi không phải là những năm tù cho anh mà là thái
độ của nhà nước với chính quyền Tiên Lãng. Từ năm 2013, ruộng đất của
nông dân bắt đầu lần lượt hết hạn giao đất. Nếu như quyết định của Chủ
tịch Tiên Lãng Lê Văn Hiền không bị coi là sai, hơn 500 chủ tịch huyện
trên cả nước có thể noi gương thu hồi đất đáo hạn của nông dân để… giao,
thì không biết điều gì sẽ xảy ra. Đừng chậm trễ và đừng để “quả bom
Đoàn Văn Vươn” lại nổ.
0 comments:
Post a Comment