Trong bài “Suy nghĩ từ câu nói “xử kiểu gì cũng được” (Thời báo Kinh tế Sài gòn số 32 ngày 1 tháng 8 năm 2002), một số suy luận đã được nêu ra về những nguyên nhân dẫn đến tình trạng các toà án ở ta nhiều lúc “xử kiểu gì cũng được”. Những nguyên nhân này nằm trong hệ thống pháp luật như: kỹ thuật soạn thảo văn bản pháp luật hạn chế; nhiều quy định của pháp luật xung đột với nhau; những khoảng trống trong hệ thống pháp luật.
Làm thế nào để khắc phục tình trạng nói trên? Có lẽ,
trước tiên cần hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đó là câu trả lời hợp lôgíc,
nhưng chưa chắc đã hợp lòng người. Lý do là sự nghiệp hoàn thiện hệ thống pháp
luật chắc còn kéo dài dài (Đặc biệt là khi chúng ta không hình dung được một
cách mạch lạc là nên bắt đầu từ cái gì và phải kết thúc ra làm sao). Trong bài
này, chúng tôi xin được trao đổi về khả năng chấm dứt tình trạng này sớm hơn
thông qua việc bảo đảm sự độc lập tương đối của thẩm phán trong quá trình áp
dụng pháp luật. Trước khi trình bày các lập luận tiếp theo, chúng tôi xin khẳng
định rằng đây chỉ là những suy nghĩ của cá nhân dựa trên sự học và sự nghiên
cứu kinh nghiệm của thế giới. Những suy nghĩ nêu ra ở đây chủ yếu là để cung
cấp thông tin phục vụ bạn đọc.
1. Nguồn của pháp luật- gốc của vấn đề
Dưới đây là câu hỏi có vẻ ngây thơ, nhưng hết sức hệ
trọng: Pháp luật lấy từ đâu ra? Trước hết, pháp luật được lấy ra từ các nguồn
khác nhau. Hơn thế nữa, ở các nước khác nhau các nguồn này lại không hoàn toàn
giống nhau.
Tuy nhiên, ở nước ta nguồn duy nhất của pháp luật là
các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành. Chúng ta không thừa nhận bất kỳ một
nguồn nào khác. Cách tiếp cận này là một trong những điều mà chúng ta đã học
được của nước ngoài, tuyệt nhiên không phải là di sản do cha ông để lại. Nó có
ưu điểm là bảo đảm được cái sự “nói có sách, mách có chứng”. Tuy nhiên, nó cũng
có thể dẫn đến tình trạng thẩm phán không biết xử kiểu gì hoặc “xử kiểu gì cũng
được” khi pháp luật thực định mắc phải những khiếm khuyết như tác giả bài báo
đã nêu.
Chủ nghĩa thực chứng (positivism) trong pháp luật,
có nghĩa là tuyệt đối hoá vai trò của các văn bản quy phạm pháp luật thành văn,
đánh đồng “văn bản pháp luật” với “pháp luật” tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Nó dẫn
đến cái nhìn hẹp hòi, cứng nhắc khi thực thi và áp dụng pháp luật. Hơn thế, xu
thế chung của chủ nghĩa thực chứng là chỉ nhìn thấy ở pháp luật những gì có lợi
cho Nhà nước, ít nhìn thấy cái lợi của công dân, do đó dễ dẫn đến sự độc tài.
Pháp luật, theo cách hiểu của tuyệt đại đa số các
nước trên thế giới, không chỉ giới hạn trong văn bản mà bao gồm cả “những
nguyên tắc chung mà nhà lập pháp không cụ thể hoá trong quy phạm thực định”, là
thứ pháp luật đứng trên cả chủ nghĩa thực chứng, thậm chí ràng buộc quyền lực
lập hiến và lập pháp. ở nhiều nước, thẩm phán trong những trường hợp cần thiết
không do dự áp dụng những nguyên tắc về trật tự đạo lý không ghi trong luật.
Luật ở các nước châu Âu lục địa còn trang bị cho các luật gia khái niệm công
lý, chỉ dẫn họ đến các tập quán và thậm chí đến luật tự nhiên (Pháp điển dân sự
áo, Điều 7), hoặc đặt sự áp dụng luật phụ thuộc vào các tiêu chuẩn về nếp sống
tốt lành và trật tự công cộng. Thực tế, không một hệ thống pháp luật nào có thể
thiếu những quy định như vậy, sự thiếu vắng của chúng có thể dẫn đến xung đột
giữa pháp luật và công lý.
Bên cạnh đó, “lý trí”, một khái niệm phổ biến trong
pháp luật Anh quốc, cũng là một nguồn mà các toà án nhờ cậy đến để lấp các chỗ
trống trong hệ thống luật pháp. Vậy thế nào là lý trí? Đó là quyết định hợp lý
về một tranh chấp, khi không có án lệ, không có quy phạm của pháp luật, không
có cả tập quán bắt buộc. Đó trước hết là sự tìm kiếm một quyết định phù hợp
nhất với luật pháp hiện hành, và bởi vậy bảo đảm xác đáng nhất cho trật tự và
công lý, là cấu thành nền tảng của luật pháp. Các luật gia Anh khẳng định rằng:
“lý trí – đó là sự sống của pháp luật, còn thông luật không là cái gì khác
ngoài lý trí”.
“Mọi lý thuyết đều là màu xám, còn cây đời mãi mãi
xanh tươi”. Cuộc sống muôn màu muôn vẻ, bội phần phức tạp đòi hỏi pháp luật
phải luôn được đổi mới. Tuy nhiên, do các điều kiện khách quan luôn luôn thay
đổi, nhiều lúc pháp luật thành văn hiện hành khó có thể giải đáp hết được mọi
câu hỏi mà cuộc sống đặt ra. Bởi vậy, một cách tiếp cận rộng mở hơn, linh hoạt
hơn là rất cần thiết. Không nên xem xét luật pháp một cách bó hẹp và theo từng
câu chữ, tách biệt với những phương pháp giải thích rộng mở thể hiện vai trò
sáng tạo của thực tiễn toà án và học thuyết. Các đạo luật chỉ là điểm xuất phát
chứ không phải là điểm cuối cùng.
Như vậy, pháp luật được tạo ra không phải chỉ bằng
phương pháp tiên nghiệm và không chỉ nằm trong những quy phạm pháp luật thành
văn. Sự khám phá pháp luật – đó là nhiệm vụ cần được giải quyết bởi mọi luật
gia, mỗi người trong lĩnh vực của mình. Trong đó, họ cần theo một lý tưởng
chung – nỗ lực đạt được trong mỗi vấn đề một giải pháp đáp ứng được công lý
chung và được dựa trên sự dung hoà những quyền lợi công và tư khác nhau trong
xã hội.
Do đó, chúng tôi chia sẻ cách hiểu “pháp luật” theo
nghĩa rộng, nghĩa là không chỉ gói gọn trong các văn bản quy phạm pháp luật do
các cơ quan lập pháp và hành pháp ban hành. “Pháp luật” đầy đủ bao gồm cả những
nguồn khác như: tập quán, thực tiễn toà án, học thuyết, lý trí, các nguyên tắc
chung – tất cả đều hướng tới một đích là đạt được công lý.
Cách nhìn này giúp các thẩm phán thoát khỏi những
quy định lỗi thời, định hướng cho họ khi có những quy định “đá nhau” và cung
cấp những căn cứ cần thiết cho việc xét xử khi có khoảng trống trong hệ thống
pháp luật hiện hành.
2. Sự độc lập của thẩm phán- yếu tố quan trọng của
pháp quyền.
Vậy thì thẩm phán thể hiện sự độc lập đó như thế
nào? ở phần lớn các nước, thẩm phán có quyền giải thích luật trong khi xét xử.
( ở nước ta, thẩm phán không có quyền này).
Trong các ấn phẩm pháp lý nước ngoài chúng tôi đọc
được, không một tác giả nào giải thích tại sao thẩm phán lại có quyền giải
thích luật. Biển học là mênh mông, những gì chúng tôi đã được đọc chỉ là muối
bỏ bể, bởi vậy có thể ở đâu đó người ta có lý giải chuyện này. Tuy nhiên, theo
tinh thần của chính những ấn phẩm đã đọc, có thể hiểu rằng, ở những nước đó
người ta coi việc thẩm phán được giải thích luật là chuyện đương nhiên, không
cần lý giải, lập luận. Tuy nhiên, nếu họ không lý giải, chúng tôi xin thử làm
công việc đó và xin áp dụng vào hoàn cảnh của nước ta:
Hiến pháp 1992 nước ta quy định UBTV QH là cơ quan
duy nhất có quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Quy định UBTV QH giải
thích luật, pháp lệnh là đúng, vì cơ quan làm ra luật dĩ nhiên có quyền giải
thích luật. ở các nước cũng vậy thôi, cơ quan lập pháp có quyền giải thích luật
do chính mình ban hành.
Thế nhưng kinh nghiệm thực tế cũng là điều cần được
cân nhắc. Pháp luật quy định UBTV QH là cơ quan duy nhất có quyền giải thích
luật, pháp lệnh. Nhưng từ trước đến nay, chỉ duy nhất một lần UBTV QH thực hiện
quyền hạn và cũng là nghĩa vụ này. Có thể nhu cầu của cuộc sống chỉ ở mức đó;
cũng có thể luật pháp vẫn được giải thích theo một cách nào đó khi được áp
dụng. Điều có thể tin được là không giải thích pháp luật, không thể áp dụng
pháp luật để giải quyết một vụ việc cụ thể. Đây có thể là điều đáng mừng. Vì
UBTV QH sẽ không có đủ điều kiện cả về con người lẫn thời gian, thủ tục để giải
thích pháp luật cho mọi trường hợp.
Ngoài ra, cơ quan lập pháp giải thích một đạo luật
để làm rõ ý chí của mình vào thời điểm nó được ban hành. Thế nhưng, điều quan
trọng không kém là làm rõ ý chí đó vào điểm áp dụng pháp luật. Thực tế cho
thấy, các nhà lập pháp không phải bao giờ cũng dự báo trước được mọi tình huống
xảy ra trong tương lai. Điều này dễ dẫn đến tình trạng pháp luật không theo kịp
cuộc sống, ù lỳ với những đòi hỏi mới của thời cuộc. Việc trao quyền giải thích
pháp luật cho toà án thiết nghĩ sẽ khắc phục được những hạn chế nói trên. Và sự
giải thích pháp luật của toà án- cơ quan áp dụng pháp luật hàng ngày cộng với
sự giải thích pháp luật của chính cơ quan lập pháp- cơ quan làm ra luật sẽ mang
lại cho pháp luật cả tính bền vững và tính linh hoạt.
3. Giải thích pháp luật- góp phần sáng tạo pháp luật
Đến đây, câu hỏi nảy sinh là: thẩm phán giải thích
pháp luật như thế nào, dựa vào đâu, trong khuôn khổ nào để không lấn sang “đất”
của nhà lập pháp? Dưới đây, xin được giới thiệu một số kinh nghiệm ở các nước,
cụ thể là ở các nước châu Âu lục địa vì theo chúng tôi, pháp luật nước ta gần
với pháp luật những nước này hơn so với hệ thống pháp luật Anh- Mỹ. Tuy nhiên,
cũng nên lưu ý rằng, nhiều khía cạnh hợp lý của án lệ ở những nước theo hệ
thống Anh- Mỹ cũng cần được nghiên cứu, khai thác trong điều kiện của nước ta.
Trong những trường hợp pháp luật hiện hành không
lường trước những tình huống mới, theo nguyên tắc tại Điều 4 Bộ luật dân sự
Pháp, thẩm phán có nghĩa vụ đưa ra quyết định. Điều 1 Bộ luật dân sự Thuỵ Sĩ
chỉ dẫn: khi thiếu vắng luật hoặc tập quán, thẩm phán cần giải quyết vụ việc
trên cơ sở nguyên tắc mà ông ta có thể lập ra – đặt mình vào tư thế của nhà lập
pháp – dựa theo truyền thống và thực tiễn toà án. Để tránh lời kết tội độc
đoán, thẩm phán ở các nước châu Âu lục địa thường ưu tiên cho cách giải thích
luật theo cú pháp của luật và coi trọng ý chí của nhà lập pháp. Nhưng nếu công
lý đòi hỏi, thẩm phán nào cũng tìm ra phương thức bác bỏ văn bản pháp luật đã
cản trở ông ta bằng những cách thức khác nhau. Các cách thức đó là:
Đánh giá các sự kiện
Theo cách này, vẫn giữ sự tôn trọng đối với tinh
thần của văn bản luật, các thẩm phán có khả năng sử dụng nó khá tự do theo ý
muốn chủ quan dựa vào việc các nhà lập pháp thường sử dụng – cố ý hoặc vô tình
– những thuật ngữ và câu cú không chính xác. Khi luật dùng những khái niệm như
lỗi, lợi ích gia đình, bồi thường thiệt hại, bất khả thi…, thẩm phán cần phải
làm chính xác lại trong mỗi vụ việc cụ thể, các tình huống của vụ việc cho phép
áp dụng luật chứa những khái niệm đó hay không. Đánh giá chặt chẽ hoặc ngược
lại lỏng lẻo những tình huống cụ thể, thẩm phán có thể thay đổi đáng kể các
điều kiện áp dụng luật. Có thể nói rằng, khi đưa ra các khái niệm mà không làm
chính xác nội dung của chúng, nhà lập pháp đã công nhận thẩm quyền của thẩm
phán “tìm kiếm tự do trong khuôn khổ luật (inter legem)”. Việc tìm kiếm tự do
đó đòi hỏi các thẩm phán phải có những suy luận độc lập được rút ra không phải
từ pháp luật thực định.
Tuy vậy, những khả năng như thế của thẩm phán trong
nhiều trường hợp không đủ để đưa ra quyết định công minh, lúc đó các thẩm phán,
thể hiện lòng dũng cảm, thường gạt bỏ những quy định pháp lý không phù hợp với
bối cảnh xã hội mới. Và hai phương thức dưới đây sẽ được sử dụng.
Mang
lại cho luật ý nghĩa mới
ý nghĩa của phương thức này ở chỗ tách luật ra khỏi
ngữ cảnh lịch sử. Những từ ngữ được sử dụng trong luật được diễn giải ngoài ý
nghĩa lịch sử, không tính đến ý đồ của tác giả. Chúng được bổ sung ý nghĩa mới
– theo ý của toà án- nhằm đáp ứng được những yêu cầu của công lý hôm nay mà
không bị ràng buộc bởi những tình huống áp dụng luật trong quá khứ. Ngoài ra, ý
đồ của nhà lập pháp – đó là lĩnh vực của dự đoán, đặc biệt khó nhận biết được
nó trong điều kiện dân chủ hiện đại, khi pháp luật thể hiện ý chí tập thể với
một quá trình hình thành phức tạp.
Chánh án Toà phá án Pháp Ballo – Bopre, trong một
bài phát biểu của mình năm 1904 nhân kỷ niệm 100 năm Bộ luật Napoleon ra đời,
đã kêu gọi từ bỏ phương pháp lịch sử khi giải thích luật từng ngự trị trước đó
trong học thuyết: “Nếu quy phạm mệnh lệnh rõ ràng và chính xác, không gây nên
nghi ngờ nào, thẩm phán có bổn phận phải phục tùng nó… Nhưng nếu trong văn bản
luật có những điều không rõ ràng thì sẽ xuất hiện những thắc mắc đối với ngữ
nghĩa và phạm vi thực thi của quy phạm, còn nếu đặt với quy phạm khác, nó sẽ
mâu thuẫn với quy phạm kia. Tôi cho rằng, trong những trường hợp như thế thẩm
phán có thẩm quyền giải thích rộng lớn nhất. Ông ta không nên cứng nhắc làm rõ
các tác giả của bộ luật đã chịu ảnh hưởng của những yếu tố gì 100 năm trước,
khi thảo ra điều khoản nào đó. Tốt hơn hết hãy tự hỏi mình: điều khoản sẽ ra
sao nếu tác giả tạo ra nó hôm nay, hãy suy ngẫm xem, với những thay đổi qua 100
năm trong tư tưởng, đạo đức, thể chế, trong thực trạng kinh tế, xã hội nước
Pháp, cần thích ứng một cách nhân bản và tự do nhất các văn bản luật với những
yêu cầu của công lý, lý trí cuộc sống hiện đại”.
Sử
dụng những công thức chung
Đây là phương thức thứ hai để thích ứng luật với
những tình huống không được nhà lập pháp tính đến mà không thay đổi ý đồ của
ông ta. Khi cần thiết, thẩm phán vô hiệu hoá hiệu lực của những quy phạm cụ thể
bằng cách viện đến những nguyên tắc chung cũng do các tác giả của luật tạo ra.
Hoặc ông ta áp dụng những nguyên tắc không có trong luật. Ví dụ như một số
nguyên tắc mang lại cho các thẩm phán những thẩm quyền rộng lớn trong quá trình
áp dụng luật: “Luật có hại không phải là luật”; “Tạo nên con người trung thực –
đó là luật cao nhất”; “Một thẩm phán giỏi luôn luôn biết giải quyết phù hợp với
hoàn cảnh”; “Từ góc độ của luật sẽ được xem xét tất cả những gì phù hợp với
quyền lợi con người, thậm chí nếu chữ nghĩa luật nói đến điều khác”… Tuy nhiên,
các công thức chung chỉ áp dụng trong những trường hợp cần thiết, nếu không sẽ
dẫn đến một thực tiễn toà án dựa trên một vài công thức chung chung.
Nói tóm lại, ở những nước châu Âu lục địa, người ta
cho rằng, “giải thích luật – đó còn hơn là hoạt động khoa học, đó là biểu hiện
của sự sáng suốt. Nhiệm vụ của chúng ta là hướng pháp luật gần với sự sáng suốt
hơn cả khoa học”. Điểm xuất phát của bất kỳ suy luận pháp lý nào cũng là những
văn bản của “pháp luật thành văn”. Nhưng chúng thường được xem như một dạng
hướng dẫn để tìm kiếm một giải pháp công bằng hơn là những mệnh lệnh khắt khe
phải giải thích và giải quyết theo một cách nhất định. ở những nước nói trên,
người ta ưu tiên tuyệt đối cho phương pháp giải thích logic và giải thích cú
pháp, nhấn mạnh đến sự phục tùng ý chí của nhà lập pháp, nhưng chỉ trong trường
hợp thẩm phán cho rằng điều đó dẫn đến kết quả công bằng. Cái đích cuối cùng và
cái chuẩn cao nhất ở đây là công lý.
Kết lại, như chúng ta thấy, để thẩm phán được độc
lập tương đối khi giải thích luật, trước hết đòi hỏi người thẩm phán phải có
bản lĩnh, cái tâm cộng với năng lực và kinh nghiệm. Bên cạnh đó, còn khá nhiều
việc khác phải làm như: sửa đổi Hiến pháp, sửa đổi quy trình lập pháp… Và thiết
nghĩ, quan trọng nhất là thay đổi nhận thức và văn hoá pháp luật của chúng ta.
Tất cả sẽ góp phần xây dựng thành công một nền công lý cao đẹp. Trong đó, “xử
kiểu gì cũng được” sẽ là điều không thể xẩy ra. Nhưng đây lại là những chuyện còn
to tát hơn những gì được trình bày trong bài viết này của chúng tôi.
Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài
0 comments:
Post a Comment