1. Khái niệm quyền lực:
Với tư cách là 1 phạm trù của khoa học chính trị, quyền lực đã được
khám phá trong chiều dài của lịch sử nhân loại từ Aristote qua các nhà
thần học thời trung cổ, các nhà phục hưng, các nhà không tưởng, các nhà
bách khoa đến các nhà chính trị học hiện đại người Mỹ như K.Dantra,
Lesliel Lipson và các nhà bách khoa triết học toàn thư Liên Xô (cũ),
nhưng vẫn chưa đưa ra được một định nghĩa để mọi người chấp nhận. Nói
một cách tổng quát nhất: quyền lực là cái nhờ đó mà người khác phải phuc
tùng. Từ đó nội hàm của khái niệm quyền lực có thể như sau:
Một là, quyền lực chỉ ra đời và tồn tại cùng với xã hội loài người. Sự
tồn tại loài người, ngoài những hoạt động riêng biệt của từng cá thể
người, con người còn có những hoạt động chung trong cộng đồng. Hoạt động
chung giữa người và người tạo ra quyền của người này đối với người
khác. C.Mác viết: “Trong tất cả mọi công việc mà có nhiều người hợp tác
với nhau, thì mối quan hệ chung và sự thống nhất tất yếu của quá trình
tất phải hiện ra trong một ý chí điều khiển” Hai là, quyền lực
mang tính khách quan. Quyền lực, tuy ra đời và tồn tại cùng với hoạt
động xã hội của con người nhưng nó lại không phụ thuộc vào ý chí chủ
quan của mỗi người mà đòi hỏi con người phải nhận thức và sử dụng đúng
như những gì nó có. Tính khách quan của quyền lực bắt nguồn từ bản chất
xã hội của con người mà suy đến cùng là tính quy định của sản xuất vật
chất đối với sự tồn tại và phát triển của con người và loài người
Ba là, quyền lực mang tính phổ biến. Sống trong xã hội, mỗi người có
nhiều mối liên hệ giữa người với người mà mỗi quan hệ xã hội xác định có
quan hệ quyền lực nhất định tương ứng nên ai cũng tất phải tham gia
nhiều mối quan hệ quyền lực khác nhau. Từng quyền lực vừa tồn tại biệt
lập vừa đan xen chồng chéo với nhau tạo nên một tổng hòa các quan hệ
quyền lực theo yêu cầu của xã hội. Trong mối quan hệ này, anh ta là
người được giao quyền hành, còn trong mối quan hệ khác, anh ta lại là
người trao quyền thế, không ai chỉ có chỉ huy mà không phải phục tùng
một sự điều khiển nhất định Bốn là, quyền lực là quan hệ giữa
người chỉ huy và người thi hành. Bất cứ hoạt động chung nào cũng phải có
người tổ chức chỉ huy và người phục tùng sự tổ chức chỉ huy đó. Chỉ huy
và phục tùng chỉ huy là cội nguồn, điểm xuất phát, là nội dung trung
tâm của mọi quyền lực. Vì vậy, Ph.Ănghen đã cho rằng: “Quyền uy là ý chí
của người khác buộc ta phải tiếp thu, quyền uy lây sự phục tùng làm
tiền đề” Từ đó, có thể hiểu: quyền lực là ý chí của người này
được người khác thi hành thể hiện mối quan hệ giữa người chỉ huy với
người chịu sự chỉ huy, giữa người được giao quyền với người đã trao
quyền; đó là quyền uy và thế lực đủ để quyết định công việc điều hành
người khác hoạt động theo ý chí của mình 2. Bản chất của quyền lực chính trị
Khi xã hội chưa có giai cấp, người ta điều chỉnh xã hội chỉ bằng quyền
lực công. Quyền lực công nảy sinh từ những nhu cầu sinh hoạt chung của
cộng đồng là cái vốn có của xã hội. Nó lấy ý chí và lợi ích chung của xã
hội làm cơ sở cho sự tồn tại và phát triển. Nó tồn tại và phát triển
cùng với xã hội loài người. Trong xã hội có giai cấp, các giai
cấp thể hiện ý chí lợi ích của mình đối với xã hội. Ý chí đó chỉ thực sự
có hiệu lực khi giai cấp nắm lấy được quyền điều hành quyền lực công.
Để làm được điều đó, các giai cấp tiến hành đấu tranh với nhau. Giai cấp
giành thắng lợi trở thành đại diện và là chủ sở hữu của quyền lực công.
Họ sử dụng quyền lực công cho mục đích giai cấp, biến quyền lực công
thành quyền lực giai cấp; đồng thời, cũng biến ý chí của giai cấp thành
quyền lực công. Cả hai quyền lực ấy hợp thành một chỉnh thể quyền lực
chính trị của giai cấp cầm quyền đối với toàn xã hội. Chính vì vậy,
Ph.Ănghen đã khẳng định: “Quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó,
là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác” Từ đó, có thể thấy quyền lực chính trị có những dấu hiệu đặc trưng sau:
Một là, quyền lực chính trị luôn mang bản chất của giai cấp. Hình thức
tổ chức quyền lực chính trị có thể là thể chế chính trị của một giai cấp
hoặc của sự liên minh giữa các giai cấp hay của nhân dân. Nhưng thực
chất của quyền lực đó bao giờ cũng thuộc về một giai cấp nhất định, giai
cấp thực thụ cầm quyền – giai cấp thống trị nền kinh tế xã hội. Trong
nội bộ giai cấp, quyền lực chính trị có thể chứa đựng mâu thuẫn, thậm
chí có cả những đối kháng nhưng trong liên minh với các giai cấp khác,
trong quan hệ với nhân dân và khi thể hiện sự thống trị xã hội, nó luôn
mang tính thống nhất của một giai cấp khi biểu hiện ra bên ngoài với tư
cách là ý chí của giai cấp này đối với giai cấp khác. Hai là ,
quyền lực chính trị là sức mạnh trấn áp bằng tổ chức bạo lực. Suy cho
cùng, ý chí của giai cấp chỉ có hiệu lực khi có được sức mạnh trấn áp.
Sức mạnh trấn áp chỉ được bảo đảm bằng tổ chức bạo lực. Vì vậy, để ý chí
của giai cấp mình buộc giai cấp khác phải thực thi, họ lập ra những tổ
chức có sức mạnh bạo lực trấn áp tương ứng với yêu cầu và năng lực của
mình. Trong những tổ chức đó của các giai cấp, tiêu biểu nhất là nhà
nước. Chỉ khi thiết lập được quyền lực nhà nước, giai cấp mới nắm lấy và
sử dụng quyền lực công theo yêu cầu lợi ích của mình. Ba là,
quyền lực chính trị luôn hướng tới quyền lực nhà nước. Nhà nước không
chỉ biểu hiện tập trung và mạnh mẽ nhất quyền lực của giai cấp cầm quyền
mà còn nhân danh quyền lực của xã hội đối với mọi giai cấp và tầng lớp
khác. Cho nên, các lực lượng chính trị xã hội luôn hướng quyền lực của
mình đến nắm lấy hay chi phối quyền lực của nhà nước. Hơn nữa, các cuộc
đấu tranh một mất một còn giữa các giai cấp trong lịch sử đều xoay quanh
việc giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước để hiện thực hóa lợi ích
giai cấp. Trong cuộc đấu tranh đó, giai cấp giành được thắng lợi tổ chức
quyền lực của giai cấp mình thành quyền lực nhà nước thực hiện sự thống
trị của giai cấp đối với toàn xã hội với tư cách là quyền lực công –
quyền lực xã hội Bốn là, quyền lực chính trị của giai cấp cầm
quyền được thể hiện thành hệ thống thể chế chính trị của xã hội. Đó là
hệ thống các thiết chế tổ chức với các đảng chính trị, các cơ quan nhà
nước và các tổ chức chính trị - xã hội khác; trong đó, nhà nước đóng vai
trò trung tâm và chi phối tất cả. Mỗi thiết chế vừa là bộ phận hợp
thành vừa là hệ thống nhỏ hơn của thiết chế theo một trật tự xác định.
Đó còn là hệ thống định chế với những nguyên tắc, các tiêu chuẩn, thể
thức… về kết cấu của cả hệ thống, về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn;
những mối quan hệ được xác định, cùng phương thức vận hành của cả hệ
thống và từng thiết chế. Các thiết chế tổ chức và các định chế đó tồn
tại theo quy định của pháp luật, hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật
và được bảo vệ bằng pháp luật. Điều đó cũng có nghĩa là quyền lực của
giai cấp cầm quyền đối với các giai cấp và tầng lớp khác được thể hiện
bằng những quy định pháp luật buộc toàn xã hội phải tuân theo.
Như vậy, có thể nói một cách cô đọng nhất: bản chất quyền lực chính trị
là khả năng thực hiện ý chí của một giai cấp đối với sự phát triển của
xã hội thông qua tổ chức nhà nước.
0 comments:
Post a Comment