Cơ quan công tố hình sự ở Hoa Kỳ[1]
Tại Hoa Kỳ, cả chính quyền liên bang và chính quyền các bang đều có
quyền truy tố tội phạm, đều có hệ thống pháp luật, hệ thống toà án, công
tố, cảnh sát riêng. Loại tội cụ thể nào được truy tố theo luật của liên
bang hoặc luật của các bang phụ thuộc vào nhiều yếu tố, rất phức
tạp.[2] Các quy định của luật pháp và thực tiễn áp dụng cho
thấy, các tội phạm do cơ quan liên bang truy tố thường là các tội phạm
buôn bán, vận chuyển ma tuý, tội phạm có tổ chức, tội phạm về tài chính
và gian lận mức độ lớn, những tội phạm xâm hại đến các quyền lợi liên
bang như chống lại công chức liên bang, lừa đảo, gian lận… nhằm vào liên
bang. Thêm nữa, có một số loại chỉ chính quyền liên bang mới có quyền
truy tố, bao gồm các tội phạm trong lĩnh vực hải quan, thuế liên bang,
tội gián điệp, phản quốc. Chính quyền các bang truy tố hầu hết
các loại tội phạm nhằm vào cá nhân, như giết người và cố ý gây thương
tích, các tội xâm phạm sở hữu như cướp, trộm cắp. Nhìn chung, số vụ án
các bang xử lý lớn hơn rất nhiều so với con số của liên bang[3].
Mặc dù các bang có thẩm quyền lớn trong việc truy tố hầu hết các loại
tội phạm nêu trên, nhưng họ chỉ có thể điều tra và truy tố các tội phạm
xảy ra trên địa bàn lãnh thổ của bang. Thẩm quyền của liên bang thì mở
rộng trên phạm vi toàn liên bang. Do vậy, liên bang có khả năng tốt hơn
khi điều tra và truy tố các tội phạm phức tạp, xảy ra trên bình diện
rộng. Văn phòng các vấn đề quốc tế (OIA), bộ phận hình sự, Bộ
Tư pháp Hoa Kỳ chịu trách nhiệm xử lý tất cả các trường hợp dẫn độ tội
phạm với nước ngoài. Khi các chính phủ nước ngoài yêu cầu dẫn độ, họ
phải cung cấp chứng cứ cho phía Bộ Tư pháp Hoa Kỳ để Bộ Tư pháp trình
bày tại toà khi Quyết định dẫn độ bị kiện, hay bị xem xét tại toà án.
Mặc dù có sự khác nhau trong tố tụng hình sự (TTHS) giữa các bang với
nhau, giữa các bang và chính quyền liên bang, nhưng một số các nguyên
tắc cơ bản của luật hình sự được áp dụng thống nhất cho các hoạt động
điều tra và truy tố của các bang và liên bang. Thứ nhất,một
nguyên tắc thống nhất là việc điều tra và truy tố thuộc trách nhiệm của
nhánh quyền lực hành pháp. Công tố viên, nhân viên điều tra và cảnh sát
là các thành viên nhánh hành pháp, không nằm trong nhánh quyền lực tư
pháp. ở Hoa Kỳ, không có khái niệm một thẩm phán điều tra - vốn tồn tại ở
hệ thống pháp luật lục địa, dân sự. Do đó, vai trò của thẩm phán trong
hoạt động điều tra tội phạm hình sự bị hạn chế. Tuy nhiên, một số hoạt
động điều tra chỉ có thể được tiến hành sau khi có được sự chấp thuận,
cho phép của thẩm phán. Chỉ thẩm phán mới có quyền ra lệnh khám xét và
thu giữ chứng cứ về tội phạm, mới có quyền ra lệnh ghi âm các cuộc nói
chuyện điện thoại, hay ra lệnh triệu tập nhân chứng hay một người nào đó
để cung cấp thông tin, tài liệu và nếu từ chối sẽ phải chịu trách nhiệm
hình sự và trong trường hợp đặc biệt, chỉ thẩm phán mới có thể ra lệnh
bắt người.[4] Bất cứ khi nào, một công tố viên (hay một nhân
viên cảnh sát, trong trường hợp khẩn cấp) thấy cần thiết phải có một
quyết định, hay lệnh của toà án để phục vụ hoạt động điều tra, anh ta
phải làm một yêu cầu chính thức gửi toà án và trình bày rõ các tình tiết
và chứng cứ minh chứng cho tính cần thiết của yêu cầu đó. Một thẩm phán
sẽ chỉ ra lệnh hay quyết định nếu ông ta xác định rằng, các căn cứ nêu
ra có cơ sở cho việc ra lệnh. Chẳng hạn, để ra lệnh khám xét, thẩm phán
phải xác định rằng các chứng cứ nêu ra cho thấy có căn cứ về một tội
phạm đã xảy ra và chứng cứ về tội phạm có thể tìm thấy ở nơi cần khám
xét. Thứ hai,một số thủ tục, nguyên tắc tố tụng hình sự được
quy định trong Hiến pháp Mỹ và được áp dụng cho tố tụng hình sự của cả
các bang và liên bang. Chẳng hạn, một người bị truy tố về một tội nghiêm
trọng có quyền được xét xử bởi một bồi thẩm đoàn và được đại diện bởi
một luật sư bào chữa. Tại phiên toà, bị cáo có quyền đối chất chứng cứ
với người đã khai báo, làm chứng chống lại anh ta (nguyên tắc chống tự
buộc tội - Tu chính án thứ 6). Ngoài ra, không ai có nghĩa vụ phải khai
báo chống lại chính mình (Tu chính án thứ 5). Nhìn chung, Hiến pháp quy
định không một lệnh nào có thể được ban hành, nếu không dựa trên các
bằng chứng đủ để cho thấy có một tội phạm đã xảy ra. Do đó, một
lệnh bắt không được ban hành trừ khi có đủ chứng cứ rõ ràng cho thấy,
có một tội phạm đã xảy ra và người bị bắt đã thực hiện hành vi phạm tội
đó. I. Các cơ quan tiến hành tố tụng: điều tra, truy tố và xét xử các tội phạm hình sự liên bang 1. Bộ Tư pháp
Như đã nêu, trách nhiệm điều tra, truy tố tội phạm ở Hoa Kỳ thuộc nhánh
quyền lực hành pháp. Tất cả các công tố viên của Hoa Kỳ đều thuộc Bộ Tư
pháp. Thêm vào đó, tất cả các nhân viên của Cục điều tra liên bang
(FBI), của lực lượng phòng chống ma tuý (DEA), của lực lượng cảnh sát
liên bang (U.S. Marshals) và các điều tra viên của lực lượng phòng chống
rượu, thuốc lá, vũ khí và chất nổ (BATFE) đều trực thuộc Bộ Tư pháp[5]
và toàn bộ các lực lượng này đều thuộc quyền tổng chỉ huy của Bộ trưởng
Bộ Tư pháp (ATTORNEY GENERAL). Việc truy tố các tội phạm liên
bang ở mỗi toà án của quận nào thuộc trách nhiệm của Chưởng lý liên bang
của mỗi quận đó (US Attorney for that district). Chưởng lý liên bang
của mỗi quận do Tổng thống bổ nhiệm và thông báo tới Bộ trưởng Bộ Tư
pháp. Có 94toà án quận ở Mỹ và có 93 Chưởng lý liên bang. Số
lượng các Chưởng lý và công tố viên liên bang ở mỗi quận phụ thuộc vào
số lượng các vụ việc ở mỗi quận (cả lĩnh vực hình sự và dân sự). Chẳng
hạn, Văn phòng Chưởng lý liên bang quận Nam NewYork (Manhattan) có đội
ngũ nhân viên nhiều hơn Văn phòng tư pháp thuộc quận Connecticut. Các
nhân viên thuộc Vụ hình sự thuộc Bộ Tư pháp liên bang ở thủ đô có quyền
truy tố mọi tội phạm xảy ra trên tất cả các quận toàn nước Mỹ, nhưng
đứng đầu đội ngũ công tố viên là 93 giám đốc Chưởng lý liên bang và các
chưởng lý dưới quyền, trợ lý chưởng lý liên bang. 2. Cơ quan xét xử của liên bang
Có 3 cấp xét xử các vụ án hình sự. Các thẩm phán sau khi được bổ nhiệm,
trừ thẩm phán địa phương, có thể giữ nhiệm kỳ suốt đời. Hiến pháp Hoa
Kỳ có quy định bảo đảm chế độ bổ nhiệm suốt đời cho các thẩm phán. 2.1. Các thẩm phán ở Toà án cấp quận
Cấp độ thấp nhất trong hệ thống xét xử là 94 toà án cấp quận. Các thẩm
phán ở cấp này là thẩm phán địa phương (cấp thấp nhất của thẩm phán liên
bang) hoặc thẩm phán liên bang quận. Tất cả các vụ án hình sự thuộc
thẩm quyền liên bang đều được xét xử tại các toà án quận này.
Những vụ án nhỏ, ít nghiêm trọng có thể được xét xử bởi một thẩm phán
địa phương. Các vụ còn lại được xét xử bởi một thẩm phán liên bang quận.
Tại phiên toà, các thẩm phán sẽ phán quyết các vấn đề về luật và chứng
cứ. Nếu không có bồi thẩm đoàn, họ cũng phán quyết cả các vấn đề thực
tế, xác định chứng cứ xem đã đủ kết tội hay không. Việc quyết định hình
phạt đối với một người đã được định tội thuộc thẩm quyền của các thẩm
phán. Thẩm quyền của các thẩm phán liên bang quận (district)
lớn hơn rất nhiều so với các thẩm phán địa phương (magistrate). Tuy
nhiên, trong một số trường hợp cần thiết, thẩm phán liên bang quận có
thể giao một số việc cụ thể cho các thẩm phán địa phương. Chẳng hạn,
theo quy định, tất cả các phiên xử về việc dẫn độ tội phạm (có được dẫn
độ một người hay không) thuộc thẩm quyền xử lý của toà án cấp quận,
nhưng thẩm phán cấp quận (trên toàn liên bang) xác định việc xét xử
những vụ việc đó có thể do các thẩm phán địa phương tiến hành.
Ngoài việc xét xử ở các phiên toà, các thẩm phán liên bang quận còn có
quyền ban hành các lệnh bắt, khám xét và kê biên tài sản, cho phép bị
cáo tại ngoại và quyết định tất cả các vấn đề pháp lý khác trước khi xét
xử. 2.2. Các toà án phúc thẩm liên bang Cấp xét xử
tiếp theo của hệ thống toà án liên bang là các toà phúc thẩm ở các Hạt.
Có 13 Toà phúc thẩm Hạt (Circuit Courts of Appeals). Mỗi một Toà án phúc
thẩm phụ trách việc xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự mà các tòa cấp
quận thuộc phạm vi mình phụ trách. Chẳng hạn, Toà phúc thẩm Hạt số 2 xét
xử phúc thẩm các vụ án đã được xét xử bởi các Toà án quận thuộc địa
phận các bang Connecticut, NewYork và Vermont. Người bị xét xử
(sơ thẩm) về các tội phạm liên bang có quyền kháng cáo lên các Toà phúc
thẩm có thẩm quyền. Tuy nhiên, các Toà phúc thẩm thường có thái độ tôn
trọng đối với các tình tiết thực tế (chứng cứ) đã được xem xét ở Toà sơ
thẩm và không xem xét mở rộng đối với các vấn đề thực tế, mà tập trung
xem xét các vấn đề về luật. Thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm của công tố
viên bị hạn chế. Chẳng hạn, công tố viên không thể kháng nghị, nếu Toà
sơ thẩm đã quyết định bị cáo vô tội. Phiên xử phúc thẩm được
tiến hành bởi hội đồng gồm 03 thẩm phán. Trong một số* ít trường hợp,
quyết định của hội đồng 03 thẩm phán có thể được xem xét lại bởi tất cả
các thẩm phán của Toà phúc thẩm. ở cấp phúc thẩm, bên nguyên và bên bị
phải đệ trình văn bản nên rõ căn cứ pháp luật áp dụng đối với các tình
tiết thực tế của vụ án và lý do, lập luận cho yêu cầu kháng cáo, kháng
nghị. Hội đồng xét xử sẽ nghe các bên “tranh luận” hay đưa ra các câu
hỏi liên quan đến vụ án. Sau đó sẽ đánh giá mọi tình tiết và ra bản án.
Thông thường, toà án sẽ ra phán quyết bằng văn bản và giải thích những
lý do mà tòa đưa ra quyết định đó. 2.3. Toà án tối cao liên bang
Toà án tối cao có 9 thẩm phán. Trừ trường hợp đặc biệt xét xử sơ thẩm,
toà án tối cao là cấp phúc thẩm cuối cùng, xem xét lại các bản án của
các Toà phúc thẩm liên bang (của các Hạt) và các bản án của các Toà án
tối cao của các bang. Quyết định của toà án tối cao là quyết định cuối
cùng. Trong lĩnh vực hình sự, thông thường các bên không có quyền đề
nghị Toà tối cao liên bang xem xét lại bản án. Thay vào đó, các bên có
thể trông chờ Toà án tối cao xem xét lại bản án thông qua Đơn kiến nghị
gửi lên Toà này giải thích lý do tại sao các vấn đề về luật trong vụ án
của họ có ý nghĩa quan trọng cần được xem xét tại Toà án tối cao. Chỉ
một số lượng rất ít các đơn này được Toà án tối cao chấp nhận. Trong 50
năm qua, Toà án tối cao liên bang chưa xem xét lại bất kỳ vụ án nào về
dẫn độ tội phạm. II. Thủ tục tố tụng đối với tội phạm liên bang 1. Điều tra và buộc tội
Khi một trong các cơ quan điều tra liên bang tin rằng, đã có đủ chứng
cứ về một tội phạm liên bang đã xảy ra, nhân viên điều tra sẽ trình bày
mọi phát hiện của họ tới Văn phòng Chưởng lý liên bang tại quận đó. Một
trong những trợ lý của Chưởng lý liên bang sẽ xem xét mọi tình tiết và
hỏi lại cơ quan điều tra để xem đã đủ để kết luận một tội phạm đã xảy ra
hay không. Nếu thấy chứng cứ chưa đủ* cấu thành tội phạm, trợ
lý Chưởng lý liên bang sẽ yêu cầu cơ quan điều tra tiếp tục cuộc điều
tra hoặc quyết định chuyển vụ việc cho Đại bồi thẩm đoàn (grand jury) và
Đại bồi thẩm đoàn sẽ tiến hành điều tra vụ việc đó. Nếu chứng
cứ đã đủ, trợ lý Chưởng lý liên bang sẽ trình bày vụ việc với Đại bồi
thẩm đoàn và yêu cầu họ bỏ phiếu thông qua (hay phê chuẩn) quyết định
khởi tố - coi như chính thức truy tố. Tuy nhiên, trong một số trường hợp
không đủ thời gian để trình bày với Đại bồi thẩm đoàn vì cần bắt giữ
người phạm tội ngay, thì trợ lý Chưởng lý liên bang sẽ yêu cầu Toà án
ban hành lệnh bắt dựa trên một văn bản đề nghị (có tuyên thệ) trong đó
nêu rõ các căn cứ tình tiết, chứng cứ về việc phạm tội của bị can. Sau
khi đã xem xét kỹ lưỡng, thẩm phán thấy rằng đã đủ căn cứ theo yêu cầu
về chứng cứ, ông ta có thể ra lệnh bắt người đó. Nếu lệnh bắt đã được
ban hành theo thủ tục trên, Chưởng lý liên bang sau đó phải trình bày vụ
việc với Đại bồi thẩm đoàn và phải có được quyết định phê chuẩn việc
khởi tố từ Đại bồi thẩm đoàn. Đại bồi thẩm đoàn bao gồm 16 - 23
thành viên có trách nhiệm xem xét mọi tình tiết, chứng cứ đưa ra để bỏ
phiếu thông qua quyết định buộc tội. Thông thường, Đại bồi thẩm đoàn chỉ
nghe thông tin từ phía cơ quan của Chính phủ. Mục tiêu của một cuộc
điều tra (ví dụ một cá nhân mà cuộc điều tra hướng tới) có thể không bị
triệu tập ra trình bày trước Đại bồi thẩm đoàn, nhưng anh ta có thể tự
nguyện trình bày trước Đại bồi thẩm đoàn. Song điều này hiếm khi xảy ra.
Theo quy định, để truy tố một người, ít nhất 12 thành viên của Đại bồi
thẩm đoàn phải nhất trí là có đủ tình tiết, chứng cứ chứng tỏ bị can đã
phạm tội. Khi Đại bồi thẩm nghị án, các thành viên như công tố viên,
điều tra viên và nhân viên thư ký toà án và tất cả những người khác phải
rời khỏi phòng của Đại bồi thẩm đoàn. Theo Hiến pháp, người bị
khởi tố về tội có mức hình phạt từ một năm tù trở lên có quyền được
quyết định truy tố bởi Đại bồi thẩm đoàn[6]. Đại bồi thẩm đoàn không có
quyền phán quyết một người nào đó có tội hay vô tội. Việc đó chỉ được
thực hiện tại phiên toà xét xử chính thức sau này. Công tố viên
liên bang không có quyền ra lệnh triệu tập một người nào đó đến để khai
báo hoặc cung cấp chứng cứ mà họ đang có, mà Đại bồi thẩm đoàn mới có
thẩm quyền ra các lệnh này. Do đó, xét về bản chất, Đại bồi thẩm đoàn có
thẩm quyền điều tra. Trong thực tế, các trợ lý Chưởng lý liên bang và
các công tố viên liên bang thường ban hành các Lệnh triệu tập nhân danh
Đại bồi thẩm đoàn. Còn các Đại bồi thẩm đoàn có thể tự ban hành các Lệnh
triệu tập bổ sung nhân chứng theo ý của mình. Khi nhân chứng
được triệu tập ra trước Đại bồi thẩm đoàn, trợ lý Chưởng lý liên bang
thường đặt câu hỏi với họ, mặc dù trong nhiều trường hợp, các bồi thẩm
cũng đặt câu hỏi. Một nhân chứng khi trình bày trước Đại bồi thẩm đoàn,
cũng như nhân chứng trước phiên toà, có thể không bị bắt buộc phải cung
cấp chứng cứ nếu chứng cứ đó có thể dẫn đến việc buộc tội chính mình.
Như đã nêu trên đây, quyền này được ghi nhận trong Hiến pháp (Tu chính
án thứ năm), gọi là Quyền ưu tiên hay Nguyên tắc chống tự buộc tội.
Hoạt động của Đại bồi thẩm đoàn được ghi vào biên bản thông qua nhân
viên đánh máy và được giữ bí mật. Nếu một công tố viên hay một thành
viên bồi thẩm có bất kỳ bình luận gì trước công chúng về hoạt động của
Đại bồi thẩm đoàn sẽ phạm tội hình sự. Công tố viên cũng không được tiết
lộ với bất kỳ công tố viên hay điều tra viên nào khác, trừ những người
trực tiếp tham gia vụ án, về các hoạt động của Đại bồi thẩm đoàn. Thông
tin về hoạt động của Đại bồi thẩm đoàn chỉ có thể được tiết lộ nếu có
Lệnh của một Toà án liên bang. Tuy nhiên, điều đó hiếm khi xảy ra. Tất
nhiên, những chứng cứ thu được từ bồi thẩm đoàn có thể được sử dụng tại
phiên toà xét xử sau này, nếu Đại bồi thẩm đoàn quyết định truy tố.
Trong những vụ án lớn và phức tạp, chẳng hạn các vụ gian lận tài chính
lớn, sự tham gia từ đầu của Đại bồi thẩm đoàn có ý nghĩa rất lớn đối với
hoạt động điều tra. Trong những vụ như vậy, điều tra viên và công tố
viên cũng sẽ phối hợp làm việc chặt chẽ ngay từ giai đoạn điều tra ban
đầu. 2. Bắt giữ Trong hệ thống liên bang, một người có
thể bị bắt sau khi Đại bồi thẩm đoàn đã phê chuẩn quyết định khởi tố
(truy tố) về một tội. Như đã nêu trên, thẩm phán cũng có thể ra lệnh bắt
trước khi có phán quyết phê chuẩn này. Thông thường, trợ lý Chưởng lý
liên bang sẽ đề nghị Toà án ra lệnh bắt người có tên trong quyết định
truy tố (của bồi thẩm đoàn)[7]. Phụ thuộc vào nhiều tình tiết mà sau khi
bị bắt, bị can có thể bị tạm giam hoặc* được nộp tiền bảo lãnh để tại
ngoại. Những tình tiết này bao gồm các điều kiện: mức độ nghiêm trọng
của vụ việc, tiền án, khả năng bỏ trốn. Thẩm phán sẽ quyết định một
người có bị tạm giam hay không hoặc được tại ngoại và nếu tại ngoại thì
kèm theo điều kiện gì. Những điều kiện này bao gồm cả yêu cầu bị can,
hay người đại diện của bị can, phải đặt bao nhiêu tiền, tài sản và nếu
trốn, tiền hoặc tài sản sẽ bị tịch thu. Ngay sau khị bị bắt, bị
can sẽ được đưa tới một thẩm phán. Thẩm phán sẽ thông báo với bị can về
việc bị truy tố, buộc tội và hỏi bị can nhận tội hay không nhận tội đã
bị truy tố. Quá trình này được gọi là buộc tội. 3. Xét xử
Theo Hiến pháp Hoa Kỳ, một người bị truy tố về tất cả các tội, trừ
những tội ít nghiêm trọng, có quyền được xét xử bởi một bồi thẩm đoàn.
Đây là bồi thẩm đoàn có chức năng xét xử, còn gọi là Tiểu bồi thẩm đoàn
(petit jury - khác với Đại bồi thẩm đoàn có chức năng buộc tội nêu
trên). Bồi thẩm đoàn này có 12 thành viên là những công dân bình thường
và phải cùng đồng thuận phán quyết bị cáo có tội hay không. Tại phiên
toà, công tố viên phải chứng minh rằng, một người nào đó đã phạm một tội
hình sự. Bị cáo không có nghĩa vụ phải khai báo hay phải yêu cầu có mặt
nhân chứng ủng hộ mình[8]. Trái lại, nếu anh ta quyết định khai báo thì
sẽ phải tuyên thệ và bị truy tố về tội khai báo gian dối như bất kỳ
nhân chứng nào nếu khai báo gian dối. Tại phiên toà có bồi thẩm
đoàn, bồi thẩm đoàn sẽ xác định chứng cứ nêu ra liệu có đủ thuyết phục
để kết tội bị cáo hay không. Bồi thẩm đoàn khi quyết định chỉ được dựa
trên các tình tiết, chứng cứ được trình bày tại phiên toà. Nếu bồi thẩm
đoàn có quan điểm cá nhân là một người nào đó đã phạm tội (như đã truy
tố), nhưng lại xác định rằng chứng cứ của công tố viên nêu ra tại toà
chưa đủ cơ sở để chứng minh bị cáo phạm tội, bồi thẩm đoàn phải tuyên vô
tội cho bị cáo. Thẩm phán chủ toạ điều khiển phiên toà và
quyết định những vấn đề về pháp luật, bao gồm cả việc có chấp nhận một
chứng cứ nào đó hay không (chẳng hạn quyết định một chứng cứ nào đó có
thể được trình bày trước bồi thẩm đoàn hay không). Thẩm phán cũng hướng
dẫn bồi thẩm đoàn về các nguyên tắc pháp luật áp dụng trong vụ án để
quyết định bị cáo có tội hay vô tội. Bị cáo có quyền từ bỏ
quyền được xét xử bởi bồi thẩm đoàn. Thẩm phán khi đó sẽ có vai trò của
người “xét xử các tình tiết thực tế” và quyết định với các chứng cứ được
trình bày đã đủ để cho rằng bị cáo đã phạm tội hay không. Thẩm
phán có quyền, và thỉnh thoảng, đặt câu hỏi với nhân chứng. Tuy nhiên,
việc đặt câu hỏi với nhân chứng là trách nhiệm đầu tiên và cơ bản của
công tố viên và luật sư bào chữa. Họ (công tố viên và luật sư) đặt ra
hầu hết (nếu không nói là tất cả) các câu hỏi với nhân chứng.
Một nhân viên toà án sẽ ghi chép lại nguyên bản mọi lời nói, câu hỏi đáp
tại phiên toà giữa luật sư, công tố viên, thẩm phán và nhân chứng.
Những ghi chép này bao gồm cả các đối thoại, tranh luận giữa công tố
viên và luật sư bào chữa tại phòng riêng trước thẩm phán - mà không có
sự hiện diện của bồi thẩm đoàn về các vấn đề về luật, chẳng hạn tranh
luận về một chứng cứ có được chấp nhận (admissible) và được đưa ra tại
phòng xét xử chính thức hay không. Nếu bị cáo bị tuyên có tội,
trách nhiệm của thẩm phán chủ toạ là quyết định hình phạt. Bị cáo bị kết
tội có quyền kháng cáo phúc thẩm lên Toà phúc thẩm Hạt có thẩm quyền.
Nếu bị cáo được tuyên vô tội và được thả tự do, công tố viên không có
quyền kháng nghị phúc thẩm. Thông thường, bị cáo có thể kháng cáo về
hình phạt đã tuyên.* Công tố viên và bị cáo phải quyết định yêu cầu đoạn
biên bản phiên toà nào và chứng cứ nào (đã được xem xét tại toà sơ
thẩm) cần được Toà phúc thẩm xem lại. Không có chứng cứ mới nào được
phép trình ra tòa phúc thẩm. 3.1. Không truy tố Một
trong những đặc trưng lớn nhất của nền tư pháp Hoa Kỳ là thẩm quyền tuỳ
nghi rộng lớn của công tố viên trong các vấn đề hình sự. Chẳng hạn, một
công tố viên liên bang có thể quyết định không truy tố một tội phạm, nếu
thấy vụ việc quá nhỏ để truy tố theo thẩm quyền liên bang. Chẳng hạn,
số lượng ma tuý hay thiệt hại cho nạn nhân không đáng kể. Khi đó, cơ
quan điều tra (liên bang) có thể chuyển vụ việc cho một công tố viên của
bang (nếu vụ việc đó có thể bị truy tố ở toà án bang) và công tố viên
của bang cũng có toàn quyền truy tố hay không truy tố. Tương tự, công tố
viên liên bang có thể không truy tố một tội phạm ít nghiêm trọng nếu
cho rằng, có giải pháp khác thay thế, chẳng hạn bị cáo đồng ý bồi thường
cho nạn nhân. Bị cáo bị khởi tố về các tội ít nghiêm trọng,
không bạo lực, có thể được xử lý theo các cách thức khác, thông thường
là bồi thường, khắc phục hậu quả cho nạn nhân. Nếu bị cáo thực hiện xong
các biện pháp đó, họ sẽ không bị truy tố nữa và tránh bị lập lý lịch
hình sự. Một cách thức nữa mà công tố viên có thể không truy tố
hoặc đề nghị Đại bồi thẩm đoàn rút lại quyết định (phê chuẩn) truy tố
là mặc dù có đủ chứng cứ để khởi tố và phê chuẩn việc truy tố, nhưng các
chứng cứ dù có bổ sung sau này cũng không thể chứng minh được bị cáo
phạm tội tại phiên toà xét xử chính thức. Trong những trường hợp như
vậy, công tố viên không bị bắt buộc phải đề nghị ra lệnh bắt. Còn nếu
công tố viên đã khởi tố, buộc tội, có phê chuẩn từ Đại bồi thẩm đoàn, đã
có lệnh bắt bị can từ toà án, (mà sau đó quyết định không truy tố), thì
việc đó được coi như lạm dụng quyền tuỳ nghi của công tố viên. 3.2. Thoả thuận nhận tội
Hầu hết các vụ án hình sự ở Mỹ, trước khi xét xử, thậm chí ngay tại
phiên xử, được xử lý /giải quyết theo thủ tục bị cáo nhận tội. Thông
thường, việc nhận tội của bị cáo có được sau khi có thương lượng giữa
luật sư đại diện cho bị cáo và công tố viên. Thủ tục này được gọi là
Thoả thuận nhận tội (hay thú tội). Theo thủ tục này, bị cáo, thường
thông qua luật sư, đồng ý nhận tội theo một hay tất cả các tội mà công
tố viên khởi tố /buộc tội để đổi lại một số hoạt động nhất định của công
tố viên. Công tố viên có thể đồng ý không truy tố một hay một số tội
danh đã khởi tố /buộc tội, hay thậm chí sẽ đưa ra đề nghị về mức án với
thẩm phán, hoặc không phản đối mức án mà luật sư bào chữa đưa ra[9].
Thoả thuận của công tố viên (với phía bị cáo) có hiệu lực pháp luật trên
toàn liên bang. Là một phần của thoả thuận nhận tội, bị cáo có thể đồng
ý khai báo sự thật về các tội phạm mà anh ta biết được. Do vậy, công tố
viên có thể sử dụng thoả thuận nhận tội để có được lời khai từ những kẻ
phạm tội ít nghiêm trọng trong vụ án, để có chứng cứ kết tội những kẻ
phạm tội nghiêm trọng hơn. Thoả thuận nhận tội phải được lập
trước một thẩm phán. Một nhân viên toà án sẽ viết biên bản về tất cả mọi
điều nêu ra trong khi thoả thuận. Trước khi thẩm phán chấp thuận thoả
thuận, ông ta sẽ đặt câu hỏi với bị can (tại một phiên họp /xử công
khai) để đảm bảo rằng, bị cáo hiểu hết về quyền của anh ta không phải
nhận tội và có quyền yêu cầu một phiên xét xử chính thức; rằng anh ta
nhận tội hoàn toàn tự nguyện, hiểu hết mọi điều khoản trong Thoả thuận
và hậu quả của việc nhận tội; rằng anh ta không bị ép buộc hay bị hứa
hẹn, lừa dối không đúng pháp luật từ phía công tố; và có cơ sở thực tế
của Thoả thuận nhận tội. Nếu thẩm phán không thoả mãn, hài lòng với trả
lời từ phía bị can, thẩm phán sẽ không chấp nhận lời nhận tội của bị
can. 3. 3. Miễn trừ truy tố Để có được chứng cứ cần
thiết truy tố một tội phạm liên quan đến các vụ phạm tội có tổ chức là
một điều đặc biệt khó khăn. Tính chất bí mật của các tổ chức này và sự*
đe dọa sẽ làm cho việc có được chứng cứ - những lời khai cần thiết chống
lại những kẻ cầm đầu - là điều đặc biệt khó khăn cho các công tố viên.
Nhân chứng ngoài các tổ chức này thông thường rất sợ hãi khi phải khai
báo. Những thành viên trong tổ chức thì không chỉ không muốn khai báo,
mà còn viện dẫn Tu chính án thứ 5 về nguyên tắc chống tự buộc tội và từ
chối khai báo về bất cứ tội phạm nào mà họ tham gia. Quyền lực đặc biệt
của công tố viên để miễn trừ truy tố cho các nhân chứng, thường sẽ tạo
điều kiện cho họ có được lời khai đặc biệt có giá trị, đặc biệt khi truy
tố* các vụ án loại này. Thứ nhất, công tố viên sẽ xác định sự
hợp tác hoặc những lời khai có giá trị đến mức nào và tầm quan trọng của
lời khai hay sự hợp tác của một người nào đó có giá trị, trọng lượng
cao hơn yêu cầu, đòi hỏi phải truy tố người đó về những tội nhẹ, ít
nghiêm trọng mà họ tham gia. Trong trường hợp đó, công tố viên sẽ đồng ý
không truy tố người đó về tội phạm mà họ sẽ khai ra hoặc sẽ hợp tác,
chẳng hạn sẽ cung cấp thông tin và hợp tác trong hoạt động điều tra. Do
vậy công tố viên sẽ trao (xác nhận) miễn trừ truy tố đối với một số tội
mà họ đã phạm. Thứ hai, công tố viên có thể xác định phạm vi,
mức độ miễn trừ. Trường hợp này được quy định nhằm bỏ qua hay bác lập
luận của nhân chứng về nguyên tắc chống tự buộc tội. Trong trường hợp
này, công tố viên đề nghị tòa án bắt buộc nhân chứng phải khai báo và
nhân chứng sẽ được đảm bảo rằng lời khai đó (và bất kỳ thông tin nào có
được từ lời khai đó) sẽ không được sử dụng để truy tố chống lại anh ta.
Cách thức miễn trừ này được quy định trong các luật do Quốc hội thông
qua, nhằm giải quyết thực tế khó khăn cần có được chứng cứ trong các vụ
phạm tội có tổ chức. Công tố viên vẫn có quyền truy tố người đã được
hưởng quyền miễn trừ này với điều kiện các chứng cứ (mới) chống lại anh
ta không sử dụng hay không có được từ những lời khai trước đó. III. Phân loại nghề nghiệp thẩm phán, công tố viên và luật sư bào chữa 1. Điều kiện
Tòa án cao nhất của mỗi bang trong năm mươi bang và của quận Columbia
thiết lập các tiêu chuẩn cho việc hành nghề luật trong các Tòa án thuộc
thẩm quyền. Trong thực tế, tất cả các bang đều đòi hỏi các luật sư tương
lai phải có bằng đại học 4 năm (không quy định bắt buộc phải có bằng
đại học chuyên ngành cụ thể nào), sau đó phải tiếp tục 3 năm học trong
trường chuyên ngành luật. Để được chấp nhận hành nghề luật tại
một bang nào đó hoặc tại quận Columbia, một người phải được chấp nhận
bởi một Hội đồng xem xét đạo đức của bang đó và phải trải qua một kỳ thi
về luật của Hoa Kỳ nói chung bao gồm cả luật hiến pháp, các quy tắc đạo
đức nghề luật, luật nội dung và tố tụng của bang đó. Những
người vượt qua các kỳ thi và có đủ đạo đức để hành nghề luật, sẽ được
phép hành nghề luật tại các tòa án. Để được hành nghề tại các tòa án
liên bang, họ sẽ phải đăng ký hành nghề tại tòa án cấp quận và các tòa
án phúc thẩm cấp Hạt của liên bang. Thông thường họ không phải dự thêm
các kỳ thi để hành nghề tại các tòa án liên bang. Rất nhiều luật sư của
Mỹ đăng ký thuộc nhiều đoàn luật sư của các bang khác nhau; nhiều bang
chấp thuận luật sư của bang này được hành nghề tại bang kia theo nguyên
tắc có đi có lại nếu luật sư đã hành nghề một số năm, thông thường là
năm năm và có đủ đạo đức phẩm chất. 2. Thuật ngữ Khi
một người được chấp thuận vào một đoàn luật sư, anh ta được coi là thành
viên của đoàn đó và được coi là luật sư hoặc luật gia. ở Mỹ, các khái
niệm này có cùng một nghĩa và được sử dụng như nhau. Từ esquire
(ngài)đặt đằng sau tên của một người Mỹ có nghĩa người đó là một luật
sư. Việc sử dụng từ esquire như vậy tuy không chính thống nhưng lại được
áp dụng rất phổ biến. Ngoài ra, khái niệm counsel (luật sư) hay
counsellor at law (cố vấn pháp luật) cũng được sử dụng cho các luật sư
và cũng được hiểu người được gọi như vậy là một luật sư. 3. Phân loại nghề nghiệp
Một luật sư (luật gia) có thể đăng ký hành nghề trong khu vực tư nhân,
có nghĩa là họ có thể đại diện cho bất kỳ ai nếu được yêu cầu. Một luật
sư cũng có thể được thuê làm việc cho chính quyền thành phố, chính quyền
bang hay chính quyền liên bang trong hàng loạt các công việc đòi hỏi
phải có hiểu biết về pháp luật. Riêng các công tố viên thì luôn là luật
gia và là công chức của chính quyền bang, liên bang hay thành phố.
Các luật sư (luật gia) đang hành nghề tư nhân cũng có thể làm cho các
cơ quan của chính phủ, kể cả việc trở thành công tố viên. Ngược lại, các
công tố viên có thể rời khỏi cơ quan chính phủ để hành nghề trong khu
vực tư nhân và lại trở thành luật sư bào chữa. Thẩm phán thì
thường được chọn từ hai nguồn: những luật gia đã hành nghề trong khu vực
tư nhân và những công tố viên có kinh nghiệm. Đôi khi, cả những luật
gia (không phải là công tố viên) đang làm việc cho các cơ quan khác của
chính phủ cũng được chọn. Họ cũng thể được chọn từ những giảng viên
luật. Thẩm phán của tòa án các bang thường được bầu và hoạt
động theo nhiệm kỳ. Các thẩm phán liên bang và thẩm phán của các tòa cấp
quận ở Columbia do tổng thống bổ nhiệm theo khuyến nghị và sự chấp
thuận của Thượng viện Mỹ. Các thượng nghị sỹ giới thiệu các ứng cử viên
thẩm phán cho các Tòa án liên bang (cấp quận hay hạt) nằm trên địa phận
bang của họ. Các thẩm phán liên bang được bổ nhiệm suốt đời. Rất hiếm
khi các thẩm phán liên bang từ bỏ nghề xét xử để hành nghề trong khu vực
tư nhân. Hiệp hội luật sư Hoa Kỳ (ABA) là một tổ chức mang
tính chất tư nhân của các luật gia, bao gồm cả những người hành nghề tư
nhân, những luật gia làm việc trong khu vực nhà nước (bao gồm cả các
công tố viên) và các thẩm phán là thành viên của tổ chức này. ABA tự xếp
hạng cho các ứng cử viên vào các vị trí thẩm phán liên bang. Mặc dù
việc xếp hạng của ABA là không chính thức, nhưng Thượng viện Mỹ gần như
chưa bao giờ chấp thuận một ứng cử viên mà ABA xếp hạng thấp để giới
thiệu làm thẩm phán liên bang. Trung tâm tư pháp liên bang tại
thủ đô Washington thực hiện các khóa đào tạo ngắn hạn cho các thẩm phán
liên bang mới được bổ nhiệm. Ngoài ra cũng có một trung tâm tại Reno
(Nevada) mở cửa cho các thẩm phán từ bất kỳ bang nào. Một điều thú vị
là, thẩm phán của Tòa án tối cao liên bang không bắt buộc phải là luật
gia, tuy nhiên trong thực tế họ luôn là các luật gia. [1] Nguyên bản: Guide to criminal prosecutions in the United States, trong Websites: ww.oas.org
[2] Cơ sở để xác định thẩm quyền xét xử của liên bang rất phức tạp và
chỉ có thể thấy ở Mỹ. Chẳng hạn, một vài loại tội đòi hỏi để được truy
tố tại toà án liên bang phải có yếu tố liên bang như sử dụng bưu điện,
điện thoại, liên lạc viễn thông, giao thông qua nhiều bang. Thậm chí còn
được quy định trong các hiệp định dẫn độ tội phạm với nước ngoài. [3] Sự kết hợp cả hai cơ chế tư pháp liên bang và bang nêu trên tạo nên tổng thể về hệ thống tư pháp liên bang của Mỹ.
[4] Theo luật liên bang, một nhân viên toà án (a clerk of the court) có
thể ra lệnh bắt bị cáo sau khi đã có quyết định truy tố. [5]
Ngoài ra còn có các lực lượng điều tra chuyên trách thuộc các Bộ, ngành
khác có thẩm quyền điều tra theo lĩnh vực quản lý ngành, chẳng hạn tất
cả các điều tra viên thuộc Văn phòng về các dịch vụ bí mật (điều tra
tiền giả), Văn phòng hải quan và nhập cư, lực lượng tuần tra biên phòng…
đều thuộc quyền quản lý của Bộ An ninh nội địa. Bộ Ngân khố quốc gia có
lực lượng điều tra chuyên tội phạm về thuế. [6] Tuy nhiên, họ có quyền từ bỏ quyền này và được truy tố theo thủ tục khác, thủ tục* “Information”. [7] Lệnh bắt người không có ý nghĩa để buộc tội hay truy tố.
[8] Thức tế, công tố viên bị cấm có bất kỳ bình luận nào về việc bị cáo
không khai báo, không thể trả lời, và thẩm phán phải thông báo với bồi
thẩm đoàn rẳng, việc bị cáo im lặng không được coi là bị cáo phạm tội.
[9] Thẩm phán không có nghĩa vụ phải nghe theo đề nghị của công tố viên
về mức hình phạt. Khi đó, thẩm phán sẽ cảnh báo trước với phía bị cáo
về mức án có thể sẽ tuyên (trước khi bị cáo chấp nhận thoả thuận), để
hai bên công tố và phía bị cáo không hiểu lầm toà án bắt buộc phải theo
đề nghị hình phạt của công tố viên. Tuy nhiên, nếu công tố viên từ chối
truy tố một tội nào đó, điều đó có ý nghĩa bắt buộc đối với toà án. (Bài viết đăng trên TCNCLP số 91, tháng 2/2007) Trần Đại Thắng ----- Nguon: Nghien Cuu Lap Phap - Van Phong Quoc Hoi
0 comments:
Post a Comment