3.1. Định hướng, dẫn dắt nền kinh tế
Định hướng chiến lược kinh tế đúng đắn có vai trò tiên quyết đối với sự phát triển kinh tê của mỗi quốc gia.

Nhà nước định hướng cho nền kinh tế phát triển phù hợp với quy luật khách quan của thời đại nhưng đồng thời cũng phải phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước

Để định hướng nền kinh tế, nhà nước phải có chính sách phát triển kinh tế dài hạn tương ứng với từng giai đoạn lịch sử nhất định. Việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế sẽ làm cho nền kinh tế thị trường phát triển một cách tự giác, các doanh nghiệp và chủ thể tham gia kinh doanh đều thống nhất với nhau về mục đích phát triển kinh tế của quôc gia.

Thông qua việc định hướng các chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế, nhà nước cũng thống nhất các lợi ích khác nhau về cùng một lợi ích để cho ai khi thực hiện các lợi ích cá nhân của minh cũng đều góp phần vào việc tạo ra các lợi ích của cộng đồng.

3.2.Điều phối, điều tiết nền kinh tế
Nhà nước tạo ra các điều kiện kinh tế cần thiết để thị trường tư nhân có thể phát huy hết hiệu quả hoạt động của mình.

Tạo ra một thị trường tiền tệ ổn định, được chấp nhận rộng rãi, có khả năng loại bỏ hệ thống giao dịch cồng kềnh, kém hiệu quả và đồng thời có khả năng duy trì giá trị tiền tệ thông qua các chính sách hạn chế lạm phát.

Chính sách tài chính bao gồm các chính sách thuế và chi tiêu ngân sách của Nhà nước nhằm điều tiết chu kỳ kinh tế, đảm bảo công ăn việc làm, ổn định giá cả và tăng trưởng liên tục của nền kinh tế. Trong những thời kỳ kinh tế suy giảm, chính sách tài chính có tác dụng kích cầu và sản xuất bằng cách Chính phủ tăng mua, giảm thuế, do đó tạo ra được một thu nhập quốc dân khả dụng lớn hơn để đưa vào luồng tiêu đùng. Còn trong những thời kỳ kinh tế "quá nóng", chính phủ làm ngược lại. Để cân bằng lại những biện pháp tài chính cố ý này, Nhà nước tạo ra nhưng cái gọi là cơ chế ổn định, như thuế thu nhập luỹ tiến và phụ cấp thất nghiệp. Chính sách tài chính được điều hành một cách độc lập với chính sách tiền tệ là chính sách nhằm điều tiết hoạt động kinh tế bằng cách kiểm soát việc cung ứng tiền.

Chính sách tiền tề để ổn định kinh tế và can thiệp tỷ giá hối đoái. Về ổn định kinh tế vĩ mô, nguyên lý hoạt động chung của chính sách tiền tệ là cơ quan hữu trách về tiền tệ sẽ thay đổi lượng cung tiền tệ. Các công cụ để đạt được mục tiêu này gồm: thay đổi lãi suất chiết khẩu, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, và các nghiệp vụ thị trường mở.

Khi tăng chi tiêu vào thời điểm thất nghiệp cao và lạm phát thấp, Nhà nước đã tăng cung ứng tiền, dẫn tới giảm lãi suất (tức giám giá đồng tiền), nhờ đó ngân hàng mới có nhiều điều kiện cho vay và chi tiêu cho tiêu dùng được tăng lên. Điều đó có nghĩa là kích cầu vì tiêu dùng là bộ phận cấu thành lớn nhất và ổn định nhất của tổng cầu. Lãi suất thấp, đồng thời khuyến khích đầu tư, các chủ doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất, thuê thêm công nhân. Trong thời kỳ lạm phát cao và thất nghiệp thấp thì ngược lại, Nhà nước “làm nguội" nền kinh tế bằng cách tăng lãi suất, giảm cung ứng tiền. Cùng với việc giảm tiền và tăng lãi suất, cả chỉ tiêu lẫn giá cả đều có xu hướng giảm hoặc ít nhất, nếu có tăng thì cũng rất chậm, và kết quả là thu hẹp lại sản lượng và việc làm.

Nhà nước tạo điều kiện cho thị trường phát triển theo quy luật vốn có của nó, đồng thời khắc phục những mặt trái mà nền kinh tế thị trường đem lại.

3.3.Giữ vững ổn định chính trị- kinh tế- xã hội và thiết lập khuôn khổ pháp luật
Mỗi quốc gia trong quá trình hiện đại hóa, muốn thịnh vượng kinh tế cần phải có một cơ sở hạ tầng pháp luật, dù khiêm tốn nhưng tập trung bảo vệ các quyền về tài sản và hợp đồng.

Để chống lại bạo lực và gian lận kinh tế, nhà nước phải tạo ra một hệ thống pháp lý về kinh tế để quản lý nền kinh tế phát triển một cách công bằng, chẳng hạn như những quy định về quyền sở hữu, những điều luật về pha sản và khả năng thanh toán, hệ thống tài chính với ngân hàng trung ương và các ngân hàng thương mại để giữ cho việc cung cấp tiền mặt được thực hiện một cách nghiêm ngặt….

Trong các nền kinh tế thị trường không có gì bảo đảm để không diễn ra bạo lực và gian lận. Đó là lý do tại sao Nhà nước cần phải có lưu trữ văn bản, hồ sơ, chứng từ về đất đai, nhà ở, đảm bảo các hợp đồng mua bán tất cả các loại sản phẩm. Cả người mua lẫn người bán đều muốn là khi cả hai phía đã đồng ý trao đổi thì sự thoả thuận nhất định phải được thực hiện. Tình hình đó cũng giống như đối với quan hệ giữa người chủ và người làm công. Người lao động đã với tư cách cá nhân hay tập thể trong các tổ chức hiệp hội cũng đều có sự thoả thuận nhất định về điều kiện làm việc, tiền lương với chủ sử dụng lao động. Nếu như không có sự đảm bảo cho các thoả thuận ấy, nghĩa là không có sự thực thi của luật pháp thì các giao dịch trên thị trường trở nên khó mà có thể thực hiện.

Nhựng quy định trong lĩnh vực kinh tế mà nhà nước đặt ra được áp dụng cho các doanh nghiệp, người tiêu dùng và cả nhà nước cũng phải tuân theo

Thông qua hệ thống pháp luật, nhà nước điều chỉnh những mối quan hệ cơ bản trong lĩnh vực kinh tê, tạo ra những hành lang pháp lý lành mạnh để các chủ thể kinh tế vận hành và phát triển.