1. Quyền hành pháp và các yếu tố cấu thành của quyền hành pháp.
Học thuyết phân quyền được hoàn thiện vào thế kỷ 18, thời kỳ của cách
mạng tư sản. Mục tiêu của học thuyết này là chống lạm quyền, bảo vệ con
người. Học thuyết này nhận thức bộ máy cai trị đặt dưới sự kiểm soát tối
cao của nhà vua là đối tượng cần được kiểm soát. Khái niệm hành pháp ra
đời với ý nghĩa bộ máy đó phải hoạt động trên cơ sở các quyết nghị của
cơ quan đại diện của dân chúng- tức ngành lập pháp. Chính vì vậy, khái
niệm hành pháp thời kỳ đầu của cách mạng tư sản có một ý nghĩa rất thụ
động. Montesquieu hiểu hành pháp là "quyền thi hành những điều hợp với
quốc tế công pháp."1 Một cách tổng quát, quyền hành pháp theo học thuyết
này được hiểu là quyền sử dụng các lực lượng vật chất của quốc gia để
gìn giữ an ninh đối nội và đối ngoại. Quyền hành pháp, như vậy là quyền
cai trị theo luật.
Trong lý thuyết của Montesquieu, "quyền hành pháp chỉ tham gia vào
việc lập pháp bằng chức năng ngăn cản, chứ không chen vào bàn cãi công
việc, mà cũng không phải làm các kiến nghị. Như thế là vì phía hành pháp
lúc nào cũng không thể chấp chuẩn (dùng từ?) một quyết định nào đó và
bác bỏ một kiến nghị nào đó đã được thông qua thành nghị quyết nhưng
phía hành pháp không đồng tình."2
Như vậy, quyền hành pháp theo lý thuyết phân quyền chỉ có quyền ngăn cản
(tức phủ quyết) mà không có quyền trình kiến nghị lên ngành lập pháp
hay bàn thảo luật cùng với ngành lập pháp.
Các Quốc hội thời cách mạng (1792-1795) tại Pháp quan niệm quyền hành
pháp là quyền thi hành một cách chật hẹp và máy móc mọi đạo luật do Quốc
hội ban hành và hoàn toàn không có quyền sáng tạo gì cả, ngay cả trong
địa hạt bang giao.
Sống vào cuối thế kỷ 18, Hamilton, một nhà lập hiến của Mỹ đã nhận thấy rằng: "Khuynh
hướng của ngành lập pháp muốn chi phối các ngành quyền khác là một
khuynh hướng có thể tìm thấy trong nhiều chính thể. Trong một chính thể
thuần tuý cộng hoà, khuynh hương đó rất mạnh. Những đại diện của dân
chúng trong một hội đồng nhân dân có nhiều khi tưởng tượng rằng mình
chính là toàn dân, và sẽ tỏ vẻ ra bực mình khi thấy các ngành quyền khác
chống lại ý chí của mình, cho như vậy tức là tổn hại tới danh dự và đặc
quyền của mình."3
Mọi cuộc cách mạng xã hội đều hướng vào bộ máy cai trị của thế lực cầm
quyền. Cách mạng tư sản chống lại bộ máy cai trị của vường triều phong
kiến. Sản phẩm của cuộc cách mạng này la sư ra đời của thiết chế đại
diện- nghị viện. Nghị viện hình thành là một giới hạn đối với vương
quyền, tước đi của vương quyền quyền lập pháp, bộ máy vương quyền chỉ
còn quyền hành pháp. Để tiếp tục chống sự lạm quyền của bộ máy này, tư
tưởng phân quyền cho rằng bộ máy hành pháp còn lại của vương quyền phải
phụ thuộc vào ý chí của nghị viện. Quyền hành pháp do nhà vua nắm chính
là quyền thi hành những đạo luật đã được nghị viện thông qua.
Thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản là thời kỳ hoàng kim của Nghị viện. Do
nhu cầu hạn chế quyền lực nhà vua, phát triển dân chủ tư sản, quyền lực
của Nghị viện được tăng cường. C. Mác gọi đó là việc giai cấp tư sản “
hoàn bị quyền lực Nghị viện”. Vào thời kỳ thịnh vượng của nghị viện, ở
Anh có một câu ngạn ngữ: “ Nghị viện có quyền được làm tất cả, chỉ trừ
việc biến đàn ông thành đàn bà”. Sau khi mục đích của việc toàn bộ quyền
lực của Nghị viện đã đạt được, giai cấp tư sản chuyển sang “ hoàn bị
quyền hành pháp”4. Nghị viện dần dần bị bộ máy hành pháp thao túng, chế
độ đại nghị rơi vào tình trạng khủng hoảng. Nghị viện, do đó, theo cách
nói của Lênin chỉ là “những cái máy nói”, “trong Nghị viện, người ta chỉ
nói suông ..."5
Ngày nay, quyền lực của chính phủ đã được mở rộng rất nhiều trong các
chính thể kể cả nội các lẫn tổng thống (Có chính thể "Nội các"?). Khái
niệm quyền hành pháp không đủ để khái quát thẩm quyền của Chính phủ. Một
nhà nghiên cứu hiến pháp người Pháp, Maurice Duverger cho rằng Chính
phủ ngày nay có khuynh hướng càng ngày càng trở nên một quyền hành thúc
đẩy, khởi xướng, chỉ huy tổng quát quốc gia, lãnh đạo dân chúng trong
khi Quốc hội chỉ đặt một vài biên thuỳ tổng quát cho hoạt động chính
phủ, và đồng thời, tán thành hay chỉ trích các hoạt động đó.6
Từ đó, giáo sư hiến pháp học này đề nghị nên thay khái niệm "quyền hành pháp" bằng khái niệm "quyền chính phủ."
(Pouoir Gouvernmental). Tuy nhiên, vơi thói quen người ta vẫn hay dùng
khái niệm quyền hành pháp để chỉ quyền của chính phủ. Nhưng khi như vậy,
quyền hành pháp phải được hiểu rộng hơn.
Nói nôm, "Chính phủ" là "phủ" ra chính sách. Phân sự tổng quát nhất của
các chính phủ hiện nay là lãnh đạo quốc gia, ấn định những mục tiêu của
quốc gia, phác thảo chương trình hành động của quốc gia. Như vậy, có thể
định nghĩa quyền hành pháp là quyền hoạch định và điều hành chính sách
quốc gia. Cho nên nhiều Hiến pháp khi quy định về quyền hành pháp thường
chỉ ra nhiệm vụ chính yếu của hành pháp là hoạch định chính sách và
điều hành chính sách. Điều 20 Hiên pháp của Pháp hiện hành quy định: "
Chính phủ Pháp xác định và thực hiện chính sách quốc gia." Hiến pháp của
Đức quy định tại Điều 64: " Thủ tướng Liên bang quy định đường lối
chiến lược trong lĩnh vực chính trị và chịu trách nhiệm về điều đó."
Điều 95 Hiến pháp Italia cũng quy định: " Thủ tướng lãnh đạo chính sách
chung của chính phủ và chịu trách nhiệm về chính sách chung của chính
phủ." Hiến pháp Hà Lan quy định tại Điều 146: " Hội đồng Bộ trưởng lãnh
đạo chính sách đối nội và đối ngoại của Cộng hoà Hà Lan."
Như vậy, hai bộ phận cơ bản cấu thành quyền hành pháp là: hoạch định chính sách và điều hành chính sách.
1.1. Hoạch định chính sách: tức là vạch ra những mục tiêu tổng quát cho quốc gia đồng thời là những phương tiện phải sử dụng để đạt được mục tiêu đó.
PGS.TS Nguyễn Đăng Dung đã cho rằng: nói đến chính phủ tời hiện đại
là gắn liền với chính sách. Hoạch định chính sách quốc gia là một trong
những chức năng quan trọng gắn liền với sự tồn tại và tiêu vong hiện nay
của chính phủ.7 Thực vậy, Chính phủ là người chịu trách nhiệm chính
trong việc tìm hướng đi cho quốc gia. Là người trực tiếp, thường xuyên
điều hành xã hội, Chính phủ là người nắm rõ nhất những nhu cầu của quôc
gia và đưa ra những chính sách để phúc đáp những nhu cầu đó.
Trong việc tìm chính sách cho quốc gia, chính phủ phải phát hiện ra được
nhu cầu của xã hội, sau đó phân tích nhu cầu đó, và tìm giải pháp để
giải quyết. Giải pháp chính sách của chính phủ có thể là những giải pháp
mà chính phủ trực tiếp đem thi hành; hoặc là những giải pháp mang tính
ổn định lâu dài, chính phủ sẽ trình cho ngành lập pháp quyết để bảo đảm
quyền lợi tổng quát dưới hình thức là các dự án luật hoặc các hình thức
khác.
Từ đó, quyền trình dự án luật hoặc những quyền tương tự là một cấu phần
trọng yếu của quyền hành pháp. Trong đa số các chính quyền hiện hành, dù
là theo mô hình nội các hay tổng thống, chính phủ là nguồn chủ yếu của
các đạo luật do nghị viện ban hành. Sở dĩ như vậy là vì, chính phủ là
người trực tiếp điều hành xã hội nên nắm rõ được những nhu cầu của xã
hội. Hơn nữa, các đạo luật càng ngày càng có tính chuyên môn, vượt quá
khả năng của một nghị sĩ. Nhà tương lai học người Mỹ Alvin Toffler nhận
xét: "
Các nhà lập pháp ngày càng dựa vào bộ máy giúp việc và các chuyên gia
bên ngoài cố vấn trong việc làm luật pháp, nghĩa là có sự dịch chuyển
quyền lực khỏi quốc hội đến các cơ quan dân sự không được bầu cử. Các
đại biểu trúng cử của chúng ta ngày càng hiểu biết ít hơn về các việc mà
họ phải quyết định, họ bị buộc phải dựa vào sự phán đoán của những
người khác."8 Theo B. Mirkine Guetzévitch, muốn soạn thảo một bản tuyên
ngôn nhân quyền, người ta không cần nhờ đến các chuyên viên, nhưng muốn
soạn thảo một đạo luật về chế độ bảo hiểm hoặc ngay cả bộ luật đi
đường…người ta phải nhờ đến kiến thức mà chỉ có hành pháp mới có thể
cung ứng.9
Trong các chính thể nội các, chính phủ có quyền trình dự án luật trước
nghị viện. Đây chính là tính chủ động của Chính phủ phủ mà quan niệm cổ
điển về quyền hành pháp không phản ánh được. Tư duy phân quyền của
Montesquieu vì hướng mục tiêu vào khống chế hành pháp nên cũng chứa nghĩ
đến quyền trình dự án luật của chính phủ. Thực tế lập pháp ở các chính
thể đại nghị cho thấy chính phủ là tác giả của đa số các đạo luật do
quốc hội thông qua. Ở Anh, khoảng 90% các đạo luật do nghị viện ban hành
trên cơ sở trình lên của chính phủ. Ở Pháp, năm 1957, trong số 198 đạo
luật được biểu quyết, có 127 đạo luật xuất phát từ chính phủ.
Trong các chính thể tổng thống, thông thường, tổng thống không có quyền
trình dự án luật trước Quốc hội. Mặc dù không được Hiến pháp quy định
sáng quyền pháp luật nhưng Tổng thống Mỹ can thiệp rất sâu vào quy trình
lập pháp của Quốc hội: thứ nhất, bằng quyền đọc thông điệp trước Quốc
hội, Tổng thống vach ra chương trình hoạt động hành năm của Quốc hội;
thứ hai, thông qua các cuộc trao đổi thường xuyên với các đảng viên nghị
sĩ thuộc đảng của mình mà Tổng thống yêu cầu họ trình dự án luật theo ý
chí của Tổng thống trước Quốc hội.10
Các Tổng thống đôi khi vẫn được gọi là "Chủ tịch Quốc hội", do sự
quan tâm sát sao đến những quyết định của Quốc hội. Ngay sau khi đọc
thông điệp về tình hình liên bang, Tổng thống sẽ gứi đến cho Quốc hội
"các dự thảo hành chính" của ông. Bằng việc mở rộng các danh mục mà Tổng
thống yêu cầu- ví dụ như một ngân sách hành năm và các báo cáo về tình
hình kinh tế, để Quốc hội phải quan tâm hơn nữa đến những gì ông đề cập.
Hơn nữa, quyền phủ quyết mà Hiến pháp trao cho Tổng thống đảm bảo rằng
các quan điểm của Nhà Trắng phải được lắng nghe, nếu không muốn nói là
luân được chú ý lắng nghe trên Đồi Capitol. Khái niệm về một Tổng thống
có quyền lập pháp đã được phổ biến kể từ sau chiến tranh thế giới thứ
hai. Vai trò này được thể hiện không phải chỉ là sự kỳ vòng của riêng cá
nhân Tổng thống mà của mọi người, trong đó có Quốc hội, báo chí, công
chúng.11
Quyền lập pháp được Hiến pháp trao cho Quốc hội. Những năm trước 1900,
đa số luật thông qua mỗi năm đều do Quốc hội đưa ra; các Thượng, Hạ nghị
sĩ dự thảo và thông qua luật. Nhưng sang thế kỷ 20, vai trò này đã đổi
chỗ. Thay đổi lớn nhất là vào thời kỳ Chính sách Mới khi Tổng thống kiểm
soát chặt chẽ việc làm luật. Từ đó, như nhà chính trị học James
Robinson nhận định: Quốc hội hầu như nhượng mọi quyền chủ động cho ngành
hành pháp."∗ Trong hai thập niên vừa qua, gần 80% luật được thông qua
được thông qua đều xuất phát từ ngành hành pháp.12
1.2. Điều hành chính sách: tức là vận dụng những phương tiện cần thiết để thực hiện những mục tiêu đã vạch ra. Trong việc điều hành chính sách có thể chỉ ra những loại quyền sau của chính phủ:
Thứ nhất là tổ chức nhân sự. Chính phủ phải thiết lập một cơ cấu
chính thức về quyền hành để qua cơ cấu đó, các bộ phận được phân giao
những nhiệm vụ, liên lạc với nhau, và hoạt động theo mục đích tổng quát
đã đã ấn định. Trong việc tổ chức nhân sự, chính phủ phải thiết lập nên
các công sở, đạo tạo, tuyển dụng và sử dụng một đội ngũ công chức hoạt
động trong các công sở để chấp hành chính sách.
Thứ hai là điều khiển, tức là hoạt động điều hành trực tiếp, đặt ra
các quyết định cụ thể để tổ chức thực thi chính sách tổng quát.
Trong việc điều khiển chính sách, chính phủ có nhiều việc phải làm như
tuyên truyền, phổ biến pháp luật, các hoạt động điều hành trực tiếp… và
đặc biệt quan trọng là lập quy. Bằng quyền lập quy, chính phủ đặt ra
những quyết định, những chính sách cụ thể lồng vào những quyết định tổng
quát, những chính sách chung. Quyền lập quy là loại quyền của chính phủ
ban hành các văn bản pháp quy để tổ chức thi hành các chính sách đã
được tuyên bố tổng quát trong các đạo luật do chính phủ xây dựng và đã
được quốc hội thông qua. Ngoài ra, quyền lập quy cũng được sử dụng để
điều chính những chính sách mới chưa được tuyên bố trong luật.
Như vậy, qua đây có thể thấy rằng, trong mối tương quan với nghị viện,
chính phủ vừa là đầu vào, vừa là đầu ra cho hoạt động của nghị viện.
Nghị viện biểu quyết luật trên cơ sở sáng kiến của chính phủ. Và cũng
chính là chính phủ bằng việc điều khiển chính sách, cụ thể nhất là bằng
quyền lập quy là người làm cho các đạo luật của nghị viện sống trong
thực tế. Không có quyền lập quy, sản phẩm của quyền lập pháp sẽ khó có
thể được sử dụng. Quyền lập quy là một cấu phần tất yếu của quyền hành
pháp. Cũng chính vì điều này mà PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung định nghĩa
quyền hành pháp chính là quyền trình dự án luật và quyền lập quy.13
Thứ ba là giám sát chính sách. Đây là hoạt động theo dõi, kiểu
tra quá trình thực thi chính sách để đảm bảo cho mọi chủ thể hoạt động
đúng với mục tiêu đã định. Nếu chính phủ phát hiện có vi phạm pháp luật,
tức là vi phạm vào chính sách đã được ấn định thì chính phủ có quyền xử
lý hoặc đề nghị xử lý. Từ đó phát sinh ra các quyền trong hoạt động của
chính phủ là: thanh tra, điều tra, truy tố, thi hành án. Chính phủ là
nguồn sinh ra luật và cũng là người chịu trách nhiệm thi hành các đạo
luật đó, cho nên chính phủ, trong quá trình điều hành xã hội theo luật,
tức điều hành chính sách, tất yếu có quyền xử lý những hành vi vi phạm
pháp luật. Do đó, điều tra, truy tố, thi hành án là những bộ phận cấu
thành căn bản của quyền chính phủ. Như vậy, ở đây cho thấy trong mối
tương quan với hoạt động tư pháp, hoạt động của chính phủ cũng vừa là
đầu vào và cũng vừa là điều ra cho hoạt động tư pháp. Chính phủ là người
phát hiện ra những vi phạm pháp luật và đưa những vi phạm đó ra toà để
toà xét xử. Sau đó, cũng chính chính phủ đem thi hành các bản án mà toà
đã tuyên.
Qua những điều trình bầy ở trên có thể thấy Chính phủ là người giữ vai
trò chính đối với sự thăng trầm của quốc gia, là người hoạch định chính
sách tạo hướng đi cho đất nước. Đây chính là thiên chức tự nhiên của
chính phủ. Trong việc hoạch định chính sách, chính phủ phải ấn định
chính sách và điều hành chính sách. Quyền hành pháp là trung tâm của
quyền lực nhà nước: quyền hành pháp vừa là đầu vào cũng vừa là đầu ra
cho quyền lập pháp và quyền tư pháp. Chính vì vậy, chính phủ- định chế
đảm nhiệm quyền hành pháp chịu trách nhiệm chính về tình trạng của đất
nước. 3. Quyền hành pháp và quyền hành chính nhà nước cao nhất ở Việt
Nam.
Trước năm 2001, khái niệm quyền hành pháp chưa xuất hiện trong Hiến pháp
của Việt Nam. Khái niệm này chính thức xuất hiện trong Hiến pháp Việt
Nam tại điều 2 vào lần sửa đổi năm 2001 qua văn thức: " Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, và tư pháp." Khái
niệm hành pháp cũng chỉ duy nhất xuất hiện một lần trong Hiến pháp, các
điều khoản sau không đề cập đến khái niệm này. Chính phủ, theo Hiến pháp
Việt Nam không được quy định là cơ quan hành pháp mà là " cơ quan hành
chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam." (
điều 109).
Về mặt học thuyết hiến pháp, hành pháp và hành chính là những khái niệm
khác biệt. Khái niệm hành pháp dùng để chỉ hoạt động hoạch định và điều
hành chính xác quốc gia. Khái niệm hành chính dùng để chỉ hoạt động chấp
hành chính sách của các công chức. Quan chức chính phủ chính là những
người hoạch định và điều hành chính sách quốc gia. Hiến pháp cần xác
định Chính phủ phải là cơ quan hành pháp chứ không phải là cơ quan hành
chính, kể cả là hành chính nhà nước cao nhất. Khi quy định Chính phủ là
cơ quan hành pháp thì điều này cũng có nghĩa là xác định vai trò của
Chính phủ trong việc hoạch định và điều hành chính sách của Quốc gia,
xác định vị trí trung tâm trong quốc gia của Chính phủ, và cũng là xác
định người chịu trách nhiệm chính về sự thăng trầm của đất nước.
Khi Hiến pháp đã quy định Chính phủ là cơ quan hành pháp thì cũng không
cần quy định chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội vì bản thân chữ
" hành pháp" đã nói nên điều hành. Hiến pháp của các nước đại nghị ở
Châu Âu không cần quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội,
mà chỉ quy định Chính phủ là cơ quan hành pháp, nhưng với tư cách là cơ
quan hành pháp chính phủ cũng phải cấp hành trước Quôc hôi: không phủ
quyết luật, tường trình trước Quốc hội, trả lời những câu hỏi và chất
vấn của Quốc hôi, có thể bị Quốc hội điều trần.
Cùng với việc quy định thẩm quyền hoạch định và điều hành chính sách của
Chính phủ- quyền hành pháp, Hiến pháp cũng phải xác định trách nhiệm
của Chính phủ đối với chính sách của mình. Mặc dù Hiến pháp xác định
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội nhưng cơ chế trách nhiệm chưa
được làm rõ. Có thể hiểu rằng Thủ tướng Chính phủ là người chịu trách
nhiệm về chính sách của Chính phủ. Nếu như vậy, điều này cũng phải được
quy định rõ trong Hiến pháp. Về vấn đề này, bản Hiến pháp đầu tiên của
dân tộc ta- Hiến pháp 1946 được ban hành dưới sự chỉ đạo trực tiệp của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quy định rất rõ: "Thủ tướng phải chịu trách nhiệm về con đường chính trị của nội các." ( Điều 54). Trong quá trình hoàn thiện Hiến pháp Việt Nam chúng ta cần tham khảo quy phạm này.
Vì Hiến pháp không quy định Chính phủ là cơ quan hành pháp nên Thủ
tướng Chính phủ cũng không được quy định là người lãnh đạo chính sách.
Để tăng tính chủ động cho ngành hành pháp trong bối cảnh hội nhập quốc
tế và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Hiến pháp
cần quy định Thủ tướng là người lãnh đạo chính sách- tức là lãnh đạo
việc ấn định chính sách và điều hành chính sách; đồng thời phải chịu
trách nhiệm trước Quốc hội về chính sách của Chính phủ.
Một vấn đề cuối cùng cần bàn là nên quan niệm lại về hoạt động tư pháp.
Thực ra, có một sự lẫn lộn đang diễn ra giữa khái niệm quyền hành pháp
và quyền tư pháp. Như đã trình bầy, một bộ phận căn bản của quyền hành
pháp là quyền điều hành chính sách. Trong việc điều hành chính sách, khi
hành pháp phát hiện ra những sai phạm thì hành có đương nhiên có quyền
xử lý hoặc đề nghị cơ quan tài phán đưa ra phán xét để mình đem thi
hành. Do đó, điều tra, truy tố, thi hành án là bộ phận cấu thành của
quyền hành pháp chứ không phải của quyền tư pháp14. Cách hiểu này rất
quan trọng, liên quan đến một số vấn đề về cải cách bộ máy nhà nước hiện
nay ở Việt Nam. Khi hiểu điều tra và công tố là hoạt động hành pháp thì
có nghĩa là hai hoạt động này không nêu cắt khúc thành những thiết chế
độc lập mà nên nằm trong Chính phủ. Đây chính là cơ sở lý luận cần thiết
cho việc chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố trong tương lai.
-------------
1 Montesquieu. Bàn về tinh thần pháp luật. ( Bản dịch của Hoàng Thanh Đạm). NXB Lý luận chính trị, H, 2004, tr.105.
2 Montesquieu. Bàn về tinh thần pháp luật. ( Bản dịch của Hoàng Thanh Đạm). NXB Lý luận chính trị, H, 2004, tr.118.
3 Hamilton, Madison and Jay. The Federalist papers. ( Luận về Hiến pháp Hoa Kỳ, Bản dịch của Nguyễn Hưng
Vượng, NXB Như Nguyện, Sài Gòn, 1959, tr.156)
4 C.Mác-Ph.Ăngghen. Tuyển tập,Tập II.NXB Sự thật,H, 1981,tr512.
5 V.I.Lênin.Toàn tập,Tập 33.NXB Tiến bộ Mát-xcơ va,1976 ,tr57 6 Maurice
Duverger. Institutions Politiques et Droit Constitutionnel, p.171.
PGS.TS Nguyễn Đăng Dung. Sự hạn chế quyền lực nhà nước. NXB Đại học quốc
gia Hà nội, H, 2005, tr.507. 8 Alvin Toffler. Làn sóng thứ ba. NXB
Thanh niên, 2002, tr.343.
9 B. Mirkine Guetzévitch. Les nouvelles tendances du Droit constitutionnel, Paris 1931, p.199.
10 Nguyễn Đăng Dung. Một số vấn đề về Hiến Pháp và bộ máy nhà nước. NXB Giao thông vận tải ,H, 2001, tr.236.
11 Roger H. Davidson, Walter J.Oleszek. Quốc hội và các thành viên(
Congress and its Members). NXB Chính trị quốc gia, H, 2002, tr.455.
∗ Một đại biểu của đảng Cộng hoà đã nói thẳng với đại diện của chính
quyền Kennedy: " Chúng tôi không thảo những luật ấy đâu. Đó là việc của
các anh. Các anh cứ làm đi rồi đưa cho chúng tôi."
12 Mark J. Green, James M. Fallows, David R. Zwick. Ai chỉ huy Quốc hội ?
(Sự thật về Quốc hội Mỹ). NXB Công an nhân dân, H, 2001, tr137.
13 PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung. Sự hạn chế quyền lực nhà nước. NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2005, tr.513.
14 Quyền tư pháp chỉ nên hiểu là quyền xét xử của Toà án.
0 comments:
Post a Comment