Thursday, August 8, 2013

Khảo lược Bộ luật Hammurabi Của nhà nước Lưỡng Hà cổ đại(phần 2)

2. Các quy định điều chỉnh quan hệ hình sự trong bộ luật Hammurabi 1. Trong bất cứ chế độ xã hội nào, các quy định của nhà nước về tội phạm và hình phạt cũng đều có ý nghĩa quan trọng. Có người đã nói rất hình ảnh rằng luật hình sự không khác gì tấm lá chắn vững chắc bảo vệ cho xã hôi, không có tấm lá chắn đó, xã hội không thể tồn tại và phát triển bình thường được. Nghiên cứu về bộ luật Hammurabi, có ý kiến cho rằng đây là “một bộ luật tổng hợp được xây dựng dưới dạng luật hình”.[1]Mặc dù theo học chuyên ngành hẹp là luật hình sự song tôi không nhất trí với ý kiến này, bởi hai lý do sau đây:
 
 
          Thứ nhất, trong tổng số 247 điều còn đọc được của bộ luật Hammurabi, có đến một nửa số điều luật này không liên quan đến hình luật. Quy phạm pháp luật chứa đựng trong các điều luật này là quy phạm điều chỉnh chứ không phải là quy phạm bảo vệ. Các điều luật trong nhóm này thường không có chế tài.
          Thứ hai, ngay cả đối với những điều luật có quy định chế tài thì chế tài đó cũng không rõ rệt là chế tài của luật hình sự. Chẳng hạn như chế tài buộc người vi phạm gây thiệt hại cho người khác phải bồi thường. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp này dường như mang tính chất chế tài dân sự nhiều hơn là hình sự, mặc dù nó được đem ra để giải quyết nhưng vụ việc về bản chất là vụ việc hình sự.
          Chính bởi lý do trên, không thể khẳng định tất cả các quy phạm pháp luật trong bộ luật Hammurabi đều là quy phạm pháp luật hình sự. Việc phân tách quy phạm pháp luật hình sự và quy phạm pháp luật dân sự, thực chất,  không có trong tư duy pháp lý của nhà làm luật Lưỡng Hà cổ đại. Điều này có nghĩa rằng, việc đặt vấn đề nghiên cứu các quy phạm pháp luật hình sự ở đây chỉ mang hàm nghĩa: trên bình diện khoa học, chúng ta vận dụng lý thuyết pháp luật hiện đại về việc chia hệ thống pháp luật quốc gia ra thành nhiều ngành luật khác nhau để tiếp cận các quy phạm điều chỉnh những vụ việc mang tính chất hình sự mà thôi.
 
          2. Các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của quy phạm pháp luật mang tính chất hình sự trong bộ luật Hammurabi có đặc điểm là mang tính chất tư tố. Đây là đặc điểm lớn nhất của loại quan hệ này được phản ánh trong bộ luật.
          Theo quan niệm của chúng ta ngày nay, luật hình sự điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước và người phạm tội khi tội phạm được thực hiện. Như thế, quan hệ pháp luật hình sự thường được xác định là quan hệ giữa hai bên chủ thể: một bên là người thực hiện hành vi phạm tội và bên kia là nhà nước.  Điều này dường như không đúng với những gì được quy định trong bộ luật Hammurabi. Theo quan điểm của nhà lập pháp Lưỡng Hà cổ đại, các quan hệ có tính chất “hình sự” vẫn là quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa người có hành vi “phạm tội” với bên bị hại. Kể cả trường hợp người phạm tội có hành vi gây thiệt hại cho cả cộng đồng, như việc không trông nom đê điều cẩn thận dẫn đến vỡ đê, làm ngập lụt cho cả vùng (Điều 53) thì quan hệ trách nhiệm hình sự vẫn là quan hệ giữa người phạm tội với từng người bị hại. Người bị hại là người có quyền truy tố kẻ phạm tội ra trước Toà án. Và cũng chính người bị hại là người có nghĩa vụ và trách nhiệm chứng minh tội phạm. Trách nhiệm chứng minh tội phạm của người bị hại nặng nề đến nỗi nếu như họ không chứng minh được người mà mình đưa ra trước Toà là tội phạm thì bản thân họ sẽ chuyển địa vị pháp lý từ nguyên cáo thành bị cáo. Theo Điều 1 bộ luật Hammurabi, nếu người nào đi buộc tội người khác mà không đưa ra được bằng chứng xác đáng, người đó sẽ bị xử phạt tử hình.
          Điểm thứ hai để khẳng định tính chất tư tố của các quan hệ pháp luật hình sự được xác lập bởi bộ luật Hammurabi là vấn đề hình phạt, cụ thể là hình phạt tiền. Phạt tiền là loại “hình phạt”, nếu có thể nói như vậy, phổ biến nhất được quy định trong bộ luật. Trong luật hình sự hiện đại, phạt tiền do nhà nước, cụ thể là do Hội đồng xét xử tuyên cho người phạm tội và khoản tiền phạt được xung vào quỹ nhà nước. Về vấn đề này, bộ luật Hammurabi quy định khác: khoản tiền phạt không chuyển vào ngân sách nhà vua mà trả trực tiếp cho người bị hại. Chẳng hạn, theo Điều 120 của bộ luật quy định trường hợp người nhận trông giữ thóc lúa cho người khác mà lại chiếm đoạt một phần số thóc lúa được gửi giữ sẽ bị phạt gấp đôi số  thóc lúa đã chiếm đoạt và khoản phạt này được trả cho người gửi giữ (là chủ của số thóc lúa bị chiếm đoạt).
 
          3. Tư tưởng cơ bản, có tính chất chi phối việc điều chỉnh các quan hệ pháp luật hình sự là hình phạt ngang bằng. Nguyên tắc hình phạt ngang bằng (talion) được vận dụng một cách triệt để trong bộ luật Hammurabi. Bản thân việc áp dụng nguyên tắc này như là nền tảng của pháp luật cũng cho thấy tính chất tư tố của các quan hệ pháp luật hình sự thời kỳ cổ đại ở Lưỡng Hà. Nguyên tắc talion bắt nguồn từ tập quán trả thù nguyên thuỷ cho phép người trong thân tộc người bị hại đi truy tìm và giết chết kẻ làm hại người trong dòng tộc họ. Nội dung của nguyên tắc Talion thể hiện trong câu nói đã được ghi vào Thánh Kinh của người Do Thái: “mắt đền mắt, răng đền răng”. Điều 196 bộ luật Hammurabi quy định: “Kẻ nào làm hỏng mắt của người dân tự do, kẻ đó sẽ bị người ta chọc mù mắt”. Điều 197 bộ luật lại quy định: “Kẻ nào đánh gãy tay của một người tự do, người ta sẽ đánh gãy tay của hắn”. Điều 230 bộ luật quy định người thợ xây, xây nhà không cẩn thận, làm đổ nhà chết con chủ nhà thì phải giết con người thợ xây.
         
          4. Phương pháp quy định tội phạm trong bộ luật Hammurabi là cụ thể hoá hành vi phạm tội. Nhà làm luật Lưỡng Hà cổ đại không có ý thức khái quát hoá và trừu tượng hoá các hành vi trái pháp luật. Điều này cho thấy bộ luật thuộc loại văn bản có tính chất tổng tập các tập quán được tập hợp hoá.  Trước thời Hammurabi, các tập quán của người Sumer, người ác-cát, người Amôrít chắc chắn là có nhiều nhưng tản mát và không thống nhất. Công lao to lớn của Hammurabi chính là hệ thống hoá và thống nhất hoá các tập quán đó. Cái lợi của việc làm này là làm cho quy định của bộ luật rất dễ hiểu và dễ áp dụng; và đã áp dụng là áp dụng chính xác bởi quy định của luật rất chặt chẽ, dự liệu hầu như toàn bộ các tình huống có thể xảy ra đối với cùng một vụ việc để có phương án xử lý phù hợp.
        
         5. Bộ luật Hammurabi thể hiện rất rõ nguyên tắc tính có lỗi của hành vi phạm tội. Tất nhiên, cho đến thời đại ngày nay của chúng ta, người ta vẫn còn phải bàn luận với nhau xem bản chất của lỗi là gì; Nhiều vấn đề liên quan đến lỗi vẫn chưa thống nhất. Tuy vậy, trong nhận thức chung, lý luận luật hình sự xác định lỗi là thái độ chống đối xã hội của người phạm tội thông qua việc lựa chọn xử sự trái pháp luật. Về cơ bản, lỗi được chia làm hai loại cố ý và vô ý tương ứng với hai loại tội: tội cố ý và tội vô ý. Trong bộ luật Hammurabi, nhà lập pháp cũng chia hành vi phạm tội thành tội phạm vô ý và tội phạm cố ý với chính sách xử lý khác nhau rõ rệt. Chẳng hạn, theo quy định của Điều 126 bộ luật, người thợ cạo nào mà cố ý xoá bỏ dấn ấn nô lệ cho nô lệ của một người khác mà không được sự đồng ý của đó thì sẽ bị chặt tay. Ngược lại, nếu người thợ cao chỉ vô ý làm việc này do bị người khác lừa dối thì anh ta sẽ được miễn tội. Tương tự như vậy, người nào cố ý đánh bị thương người khác ở cùng đẳng cấp sẽ bị xử theo nguyên tắc “mắt đền mắt, răng đền răng”. Ngược lại, nếu vô ý thì chỉ phải chi trả số tiền thuốc mà người bị hại đã bỏ ra để chữa trị vết thương mà thôi (Điều 206).
        
         6. Vấn đề đồng phạm không được xây dựng thành một chế định riêng trong bộ luật Hammurabi mà chỉ được nhắc tới qua một số điều luật. Điều 6 bộ luật quy định: “Nếu kẻ nào dám cả gan trộm cắp những đồ vật quí giá trong các đền thờ thần hay trong cung điện của nhà vua, kẻ đó sẽ phải chết. Kẻ nào tàng trữ, che dấu hoặc tiêu thụ đồ trộm cắp đó cũng sẽ bị phạt tử hình”. Trong điều luật nói trên, nhà làm luật đưa ra một mức hình phạt như nhau cho cả chính phạm, tòng phạm và người phạm tội liên quan đến đồng phạm nhưng hành vi cấu thành một tội độc lập. Chính sách xử lý này sở dĩ được đề ra là vì căn cứ vào tầm quan trọng của khách thể bảo vệ. Đối với những trường hợp khác, ở một mức độ nào đó, nhà làm luật có biện pháp đối xử mang tính chất phân biệt hơn. Chẳng hạn, Điều 227 bộ luật quy định: “Nếu kẻ nào lừa dối người thợ cắt tóc để cho người thợ cắt tóc này xoá bỏ dấu ấn của một tên nô lệ; Kẻ đó phải bị xử tử hình;     Xác kẻ đó chôn ngay trong nhà của nó. Còn về phần người thợ cắt tóc, nếu y thề: “Tôi không cố ý làm việc này; Người thợ cắt tóc đó sẽ được tha”. Trong điều luật nói trên, nhà làm luật đã rất có ý thức khi xác định vai trò của người thợ cắt tóc đối với hành vi phạm tội đã xảy ra. Người thợ cạo trong trường hợp này là người liên quan trực tiếp đến tội phạm, nhưng do không có sự liên kết ý thức với người đã lừa dối mình trong việc thực hiện hành vi trái pháp nên không đồng phạm với người đó và không có tội. Trách nhiệm của tội phạm do người thực hiện tội phạm thông qua người khác (người lừa dối người cắt tóc) gánh chịu.
        
         7. Do tính chất của quan hệ pháp luật hình sự được phản ánh trong bộ luật Hammurabi là tư tố nên nhà làm luật thường chỉ coi có tội phạm khi các lợi ích xã hội cần được bảo vệ đã bị xâm hại, hay nói cách khác đã có hậu quả xảy ra. Điều này dẫn đến hệ quả là chế định giai đoạn phạm tội không tồn tại trong bộ luật. Qua nghiên cứu bộ luật Hammurabi, tôi không thấy có điều luật nào quy định về âm mưu phạm tội hay trừng phạt tội phạm khi hậu quả đang có nguy cơ xảy ra. Tuy nhiên, cần lưu ý, bộ luật hầu như không điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến sự an toàn của nhà nước, mà vấn đề âm mưu phạm tội lại chủ yếu chỉ liên quan đến nhóm tội này. Do đó, sự không hiện diện của chế định giai đoạn phạm tội trong bộ luật Hammurabi không đồng nghĩa với với chế định này tồn tại trên thực tế.
        
         8. Về hình phạt trong bộ luật Hammurabi, có thể thấy rằng nhà làm luật đã đưa ra cả một hệ thống chế tài hình sự để đối phó với từng loại tội phạm. Hình phạt phổ biến nhất là phạt tiền. Tiền phạt được tính trên cơ sở số tiền chiếm đoạt hoặc thiệt hại thực tế đã gây ra. Mức phạt có thể là gấp hai lần, ba lần, sáu lần, mười lần, thậm trí là ba mươi lần số tài sản đã chiếm đoạt. Nếu gây thiệt hại do lỗi vô ý thì thường chỉ phải bồi thường toàn bộ số tài sản tính theo giá trị thiệt hại đã gây ra.
         Loại hình phạt phổ biến thứ hai là tử hình. Có thể thấy hình phạt tử hình được Hammurabi quy định rất rộng rãi trong bộ luật của ông. Phương pháp thi hành án tử hình rất khác nhau, có thể làm dìm xuống nước cho chết, có thể là hoả thiêu hay treo cổ. Thậm trí, có điều luật còn quy định cả quy trình và địa điểm thi hành án tử hình, chẳng hạn như Điều 21 bộ luật “Nếu kẻ nào đục tường khoét lỗ nhà người khác, người ta sẽ giết y và chôn y ngay đối diện cái lỗ tường mà  y đã đào”.
         Ngoài hai loại hình phạt trên, bộ luật còn quy định nhiều hình phạt thân thể như:
         - Chặt tay người phạm tội. Chẳng hạn, Điều 195 bộ luật quy định: “Đứa con nào dám đánh cả cha đẻ; Nó sẽ bị chặt tay”.
         - Xẻo vú người phạm tội. Chẳng hạn như Điều 194 bộ luật. Điều 194 quy định:
Trường hợp một người giao con của hắn ta cho người vú nuôi
Và đứa trẻ này đã chết trên tay người vú nuôi
Người vú nuôi lại nuôi một đứa trẻ khác
Mà không được sự đồng ý của cha mẹ đẻ nó
Người vú nuôi sẽ bị truy tố ra trước toà
Người ta sẽ xẻo vú người vú nuôi
Vì đã nuôi một đứa trẻ khác
Mà không được sự đồng ý của cha mẹ nó”.
         - Chọc mù mắt người phạm tội (Điều 196)
         - Đánh gãy tay người phạm tội (Điều 197)
         - Đánh gãy răng người phạm tội (Điều 200)
         - Cắt tai người phạm tội (Điều 282)
         - Cắt lưỡi người phạm tội (Điều 192)
         - Đánh người phạm tội bằng roi gân bò trước công chúng (Điều 202).
         - Đóng dấu vào trán (Điều 127). Hình phạt này mang tính chất hạ nhục người khác, được áp dụng đối với người có hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh dự phụ nữ.
         Nhìn chung, các hình phạt quy định trong bộ luật Hammurabi mang tính hà khắc cao. Dù vậy, theo quan niệm của tôi, chúng ta cũng nên có cái nhìn lịch sử đối với sự hà khắc trong các hình phạt quy định tại bộ luật này bởi như K.Marx đã nói: “Hình phạt không phải là cái gì khác ngoài phương tiện để tự bảo vệ mình của xã hội chống lại sự vi phạm các điều kiện tồn tại của nó”.[2]
        
         9. Bên cạnh việc quy định trách nhiệm hình sự, bộ luật Hammurabi còn quy định cả vấn đề miễn trách nhiệm hình sự. Trong bộ luật, miễn trách nhiệm hình sự không được xây dựng thành một nguyên tắc chung như ở luật hình sự hiện đại chúng ta mà được quy định cho các trường hợp cụ thể (chẳng hạn như Điều 20, Điều 129, Điều 227 bô luật).
         Một trong những điểm tiến bộ của bộ luật là phân biệt rõ chế định miễn trách nhiệm hình sự với trường hợp không có tội. Chẳng hạn, Điều 134 bộ luật Hammmurabi quy định:
         “Nếu như người chồng bị bắt làm tù binh,
         Và nếu như ở nhà của anh ta, không còn phương tiện sinh hoạt để duy trì cuộc sống
         Thì người vợ có quyền dời nhà anh ta để lấy một người đàn ông khác.
         Cô ta vô tội”.
         Về mặt thực tế, dù là không có tội hay được miễn trách nhiệm hình sự, kết quả đều như nhau: không phải gánh chịu hình phạt của nhà nước; Tuy nhiên, đối với trường hợp miễn trách nhiệm hình sự, người thực hiện hành vi mà nhà làm luật điều chỉnh không phải là người vô tội mà là người có tội. Người này sở dĩ được miễn trách nhiệm hình sự là do chính sách đặc biệt của nhà nước trong một số trường hợp cụ thể.
        
         10. Về các tội phạm cụ thể, có thể chia các tội phạm được quy định trong bộ luật Hammurabi thành 8 nhóm sau đây:
         - Các tội xâm phạm sự an toàn của nhà nước và sự tôn nghiêm của tôn giáo.
         - Các tội xâm phạm quyền sở hữu nô lệ của chủ nô.
         - Các tội xâm phạm sở hữu của thể nhân.
         - Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con người.
         - Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình.
         - Các tội phạm xâm phạm chế độ quân dịch; tôi phạm do nhân viên chính quyền thực  hiện.
         - Các tội phạm khác.
        
         Thứ nhất, các tội xâm phạm sự an toàn của nhà nước và sự tôn nghiêm của tôn giáo.
         Như đã nói ở trên, lĩnh vực an toàn nhà nước và sự tôn nghiêm của tôn giáo được đề cập tương đối ít trong bộ luật Hammurabi. Sở dĩ có tình trạng này là bởi vì “Nhà lập pháp không hề cố tìm cách đưa ra một bộ luật (corpus juris); ông ta chỉ công bố danh sách những điều sửa đổi đối với các điều khoản đã phát biểu trước đó, hay những bổ sung cần thiết do những sự biến đổi trong các điều kiện sống của thời đại ông ta; nhưng các điều khoản  không cần phải sửa đổi thì không có trong bảng danh sách này; chúng được xem như đã biết”.[3]
         Bộ luật chỉ có một điều duy nhất có nhắc đến từ “những kẻ nổi loạn”, đó là Điều 109:
Nếu mụ bán rượu dám để cho những kẻ nổi loạn vào cửa hàng của mình (để uống rượu);
         Mà không bắt và giải chúng ra trước nhà vua;
         Mụ sẽ phải chịu hình phạt tử hình”.
         Hành vi nói trong Điều 109 nói trên không phải là hành vi chống đối nhà nước mà chỉ là hành vi liên quan đến những kẻ chống đối nhà nước. Hơn nữa, quán rượu là nơi mở ra cho công chúng, việc những kẻ nổi loạn vào quán ăn uống không phải là lỗi của chủ quán. Không thể lấy việc kẻ phản loạn vào quán ăn uống để quy kết chủ quán che giấu, nuôi dưỡng những kẻ phản loạn. Thực chất, điều luật muốn nói đến nghĩa vụ của mọi công dân Lưỡng Hà phải bắt giữ những kẻ chống đối nhà vua. Người nào vi phạm nghĩa vụ này sẽ bị xử phạt tử hình. Nếu như vi phạm nghĩa vụ không bắt giữ những kẻ phản loạn đã bị tử hình thì hình phạt đối với kẻ phản loạn còn đến đâu? Qua đây, có thể khẳng định hình phạt đối với những người có hành vi xâm phạm đến sự an toàn nhà nước là rất nghiêm khắc.
         Một điều luật khác trong bộ luật Hammurabi được xây dựng để bảo vệ tài sản của nhà vua và đền thờ. Điều 8 bộ luật quy định:
         “Kẻ nào trộm cắp bò, cừu, lừa hay thuyền của người khác;
         Nếu tài sản bị trộm cắp là của các đền thờ hay của nhà vua, kẻ trộm cắp đó sẽ bị phạt gấp 30 lần giá trị tài sản trộm cắp.
         Nếu tài sản bị trộm cắp là của mouchkinou,
         Y sẽ bị phạt gấp 10 lần giá trị số tài sản trên.
         Nếu kẻ phạm tội không có tiền nộp phạt, y sẽ phải chết”.
         Từ điều 8 nói trên, có thể thấy nhà làm luật có cách ứng xử rất khác nhau đối với từng trường hợp trộm cắp cụ thể. Trộm cắp tài sản của nhà vua hay đền thờ bị phạt rất nặng: đến 30 lần giá trị tài sản trộm cắp. Với mức phạt này, nhà làm luật muốn cấm ngặt mọi hành vi xâm phạm tài sản của nhà vua. Mặt khác, điều luật còn quy định khả năng chuyển đổi hình phạt: chuyển từ phạt tiền sang phạt tử hình. Như thế, tài sản nhà vua được hai lần hàng rào pháp luật bảo vệ.
         Bộ luật cũng dành một điều luật bảo vệ sự tôn nghiêm của đền thờ qua việc bảo vệ danh dự của các nữ tu. Người nào xúc phạm nữ tu sẽ bị đóng dấu vào mặt (Điều 127 bộ luật).
        
         Nhóm tội thứ hai được quy định trong bộ luật Hammurabi là các tội xâm phạm quyền sở hữu nô lệ của chủ nô.
         Trong chế độ xã hội chiếm hữu nô lệ, nô lệ luôn ở vị trí phụ thuộc trong mối quan hệ với chủ nô, là tài sản thuộc sở hữu của chủ nô. Quan hệ chủ nô - nô lệ được coi là quan hệ có tính cách nền tảng của xã hội Lưỡng Hà cổ đại. Để bảo vệ quan hệ này, nhà lập pháp xây dựng nhóm tội xâm phạm quyền sở hữu nô lệ của chủ nô.
         Trong bộ luật Hammurabi, nhóm tội phạm này được quy định rải rác ở nhiều điều luật khác nhau; về cơ bản, có thể được chia thành ba nhóm nhỏ sau đây:
         - Các tội liên quan đến việc nô lệ bỏ trốn.
         - Các tội liên quan đến việc xoá bỏ dấu ấn nô lệ.
         - Tội chối bỏ chủ của nô lệ.
         Nô lệ là tài sản của chủ nô nhưng tài sản đó không phải là đồ vật vô tri. Họ là những con người, mà con người thì luôn có sự phản kháng khi bị áp bức, bị bóc lột hay bị ngược đãi quá đáng. Bộ luật Hammurabi không có điều luật nào quy định hành vi nổi loạn của nô lệ, cũng không thấy có điều luật nào nói về việc nô lệ chửi đánh lại chủ nô. Tôi suy nghĩ rằng có thể lý giải việc này tương tự như sự lý giải việc thiếu vắng của các tội xâm phạm an toàn nhà nước trong bộ luật. Đối với những hành vi chống đối công khai này, luật cho phép chủ nô tuỳ ý dùng hình phạt đối với nô lệ. Nhà làm luật chỉ điều chỉnh những trường hợp hành vi phản kháng của nô lệ ở mức độ thấp hơn và có tính phổ biến hơn cũng như điều chỉnh hành vi của những người khác liên quan đến hành vi chống đối của nô lệ. Có thể nói đặt ra luật bảo vệ quyền sở hữu nô lệ của chủ nô chủ yếu không nhằm vào bản thân người nô lệ, mà nhằm vào những người khác. Việc trừng phạt nô lệ xưa nay vốn dĩ không cần đến luật.
         Như trên đã nói, các tội xâm phạm quyền sở hữu nô lệ của chủ nô có thể được chia thành ba nhóm nhỏ. Tiểu nhóm thứ nhất liên quan đến hành vi bỏ trốn của nô lệ. Tiểu nhóm này bao gồm các tội phạm cụ thể sau đây:
         + Tội đánh tháo nô lệ, quy định tại Điều 15 với nội dung:
            “Nếu kẻ nào đánh tháo nam hay nữ nô lệ của nhà vua, nam hay nữ nô lệ của mouchkinou, kẻ đó sẽ phải chết”.
          + Tội che dấu nô lệ bỏ trốn, quy định tại Điều 16:
         “Nếu kẻ nào che giấu nam hay nữ nô lệ của nhà vua hay của một mouchkinou bỏ trốn;
Và người chủ của nô lệ bỏ trốn đã yêu cầu nhận lại nô lệ của mình;
         Mà vẫn không giao nộp;
          Thì kẻ che giấu sẽ phải chịu tội chết”.
Đối với tội phạm này, cần lưu ý tình tiết " người chủ của nô lệ bỏ trốn đã yêu cầu nhận lại nô lệ của mình mà vẫn không giao nộp" . ở đây, về mặt kỹ thuật lập pháp, rõ ràng nhà làm luật đã có ý thức thu hẹp phạm vi cấu thành thông qua việc mở rộng điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự.  Đây là một kỹ thuật xây dựng luật tiên tiên tiến mà ngày nay chúng ta vẫn còn sử dụng.
+ Tội giữ nô lệ bỏ trốn trong nhà (Điều 19 bộ luật):
         “Nếu kẻ [bắt giữ nô lệ bỏ trốn] không giao nộp tên nô lệ đó cho chủ cũ mà lại giữ nó trong nhà mình;
         Và việc này bị phát giác;
         Thì y sẽ bị phạt tử hình”.
         Nhóm nhỏ thứ hai là các tội liên quan đến việc xoá bỏ dấu ấn nô lệ. Dấu ấn nô lệ là dấu hiệu vừa để xác định thân phận của người nô lệ, phân biệt họ với người tự do, vừa cho phép xác định căn cứ để truy đuổi, nếu họ bỏ trốn. Xoá bỏ dấu ấn nô lệ được bộ luật Hammurabi quy định là tội phạm.
         Điều 226 quy định:
         “Người thợ cắt thóc nào tự tiện xoá bỏ dấu ấn nô lệ của một tên nô lệ mà không được phép của chủ nhân nó sẽ bị chặt tay”.
         Trường hợp người thợ cắt tóc bị người khác lừa dối mà thực hiện hành vi trên, người thợ cắt tóc được miễn tội. Người lừa dối người thợ cắt tóc phải chịu hình phạt tử hình (Điều 227 bộ luật).
         Nhóm nhỏ thứ ba là tội phạm do nô lệ thực hiện. Điều 282 bộ luật quy định:
         “Đứa nô lệ nào dám nói với chủ của nó rằng: Ông không phải là chủ của tôi
         Cần phải kiểm tra sự thật câu nói đó
         Nếu người mà nó chối bỏ chính là chủ của nó
         Thì nó phải bị cắt tai”.
 
         Thứ ba, các tội xâm phạm quyền sở hữu tài sản của thể nhân.
         Như đã nói ở trên, nô lệ là  tài sản của chủ nô, các tội xâm phạm quyền sở hữu nô lệ của chủ nô thực chất cũng là các tội xâm phạm quyền sở hữu của thể nhân, và nằm trong phạm vi các tội xâm phạm quyền sở hữu tài sản của thể nhân. Tuy nhiên, do nô lệ là “tài sản” đặc biệt nên tôi tách các tội xâm phạm quyền sở hữu nô lệ thành một nhóm riêng để nghiên cứu như trên.
         Nhìn chung, nhà làm luật đã luật hoá hầu hết các hành vi xâm phạm quan hệ sở hữu thông thường thành tội phạm, từ trộm cắp, lạm dụng tín nhiệm đến lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, quy định của bộ luật Hammurabi về nhóm tội này có tính khái quát không cao, các hành vi phạm tội luôn được quy định gắn với những đối tượng tác động cụ thể mà không bao trùm hết được mọi loại tài sản thông thường trong cuộc sống.
         + Về tội trộm cắp tài sản, nhà làm luật phân biệt tài sản trộm cắp là tài sản thông thường hay tài sản có giá trị cao, tài sản đó thuộc sở hữu thường dân hay là của nhà vua, của đền thờ để đưa ra mức hình phạt phù hợp (Điều 6 và Điều 7 bộ luật). Ngoài ra, Điều 25 bộ luật còn quy định tội trộm cắp trong trường hợp giúp người khác chữa cháy:
         “Nếu có hoả hoạn xảy ra trong một căn nhà và nếu kẻ đến chữa cháy để mắt đến tài sản của chủ nhà;
         Và sau đó lấy chúng đi;
         Thì kẻ đó sẽ bị quẳng ngay vào ngon lửa đang cháy”    
         + Về tội cướp tài sản, Điều 22 bộ luật quy định: “Kẻ nào đi cướp tài sản của người khác, khi bị bắt, sẽ phải chịu hình phạt tử hình”.
         + Về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Điều 224 bộ luật quy định:
         “Trường hợp kẻ gửi giữ vàng, bạc và các của cải khác cho kẻ khác trước mặt người làm chứng;
         Mà kẻ này dám chối bỏ việc đó
         Thì y sẽ bị đưa ra Toà và phải đền gấp đôi số tài sản nhận gửi giữ.
         Cũng về tội lừa đảo, Điều 126 bộ luật quy định:
         “Nếu kẻ nhận giữ tài sản, mặc dù không bị mất tài sản, nhưng lại khẳng định rằng tài sản của mình nhận giữ bị mất,
         Cố ý  bịa đặt về thiệt hại (không có thật xảy ra)
         Và cầu xin trước mặt thần linh để không phải bồi thường thiệt hại;
         Thì kẻ đó (chính nó - kẻ khiếu nại vô cớ) phải bồi thường gấp đôi giá trị số tài sản mà y đã bịa đặt là bị mất (cho chủ tài sản).
           Như thế, có đến ít nhất là hai điều luật trong bộ luật Hammurabi cùng quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Đây là nhược điểm của bộ luật này về mặt kỹ thuật lập pháp, đồng thời cũng là nhược điểm chung của phương pháp quy định tội phạm chi tiết. Việc chi tiết hoá các hành vi phạm tội mà không tính đến những điểm chung trong đối tượng tác động của tội phạm sẽ dẫn đến sự chồng chéo, kồng kềnh không cần thiết cho các văn bản luật.
+ Về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản,Điều 113 bộ luật quy định:
         “Kẻ nào cho người khác vay thóc hoặc bạc;
         Mà tự ý lấy thóc hoặc bạc của người đó ở nơi cất trữ mà không được sự đồng ý của y.
         Kẻ đó sẽ phải trả lại (cho người chủ) toàn bộ số thóc hoặc bạc đã lấy;
Và mất toàn bộ số nợ của y”.
+ Về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, Điều 112 bộ luật quy định:
         “Nếu một người nào đó đang trong chuyến hành trình đã trao vàng, bạc, đá quí hay các thứ của cải khác của anh ta cho kẻ khác vận chuyển;
         Kẻ này không chuyển những thứ cần chuyển đến nơi phải đến;
         Mà lại chiếm đoạt những thứ đó (cho bản thân  y)
         Thì người chủ sở hữu có quyền đưa kẻ vận chuyển ra trước toà.
         Kẻ đó sẽ phải nộp cho người chủ số tài sản gấp 5 lần số y đã chiếm đoạt”.
         + Về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, Điều 113 bộ luật quy định:
         “Kẻ nào cho người khác vay thóc hoặc bạc;
         Mà tự ý lấy thóc hoặc bạc của người đó ở nơi cất trữ mà không được sự đồng ý của y.
         Kẻ đó sẽ phải trả lại (cho người chủ) toàn bộ số thóc hoặc bạc đã lấy;
         Và mất toàn bộ số nợ của y “.
         - Về tội huỷ hoại tài sản của người khác, Điều 59 bộ luật quy định:
         “Kẻ nào dám tự tiện chặt cây ăn quả trong vườn của người khác mà không được người này cho phép;
         Kẻ đó sẽ phải trả cho chủ vườn một phần hai mine bạc (cho một cây bị chặt).
        
         Thứ tư, các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do thân thể của con người.
         - Các tội xâm phạm tính mạng con người.
         Nhà làm luật không có điều luật nào quy định tội giết người. Chắc chắn, đối với tội phạm này, người ta áp dụng nguyên tắc “sát nhân giả tử”, “mắt đền mắt, răng đền răng”. Luật chỉ chủ yếu điều chỉnh hành vi làm chết người do lỗi vô ý. Cách quy định hình phạt đối với tội vô ý làm chết người trong các trường hợp khác nhau cũng rất khác nhau. Nếu như vô ý làm chết người trong khi cãi vã với người khác (Điều 205) thì chỉ bị phạt tiền thì vô ý làm chết người do xây nhà không cẩn thận (Điều 229) lại bị xử tử hình.
         Ngoài ra, nếu hành hạ người khác trong nhà mình đến mức người đó chết cũng bị phạt tử hình (Điều 116).
 
         - Các tội xâm phạm sức khoẻ con người:
         Nhà làm luật phân biệt rõ vô ý gây thương tích với cố ý gây thương tích; Trong tội cố ý gây thương tích, nếu đối tượng tác động khác nhau thì hình phạt được quy định cũng khác nhau.
         Về cơ bản, những người cùng đẳng cấp với nhau mà cố ý gây thương tích cho nhau sẽ áp dụng nguyên tắc hình phạt ngang bằng, “mắt đền mắt, răng đền răng”. Người ở đẳng cấp dưới gây thương tích cho người ở đẳng cấp trên phải phạt nặng, người ở đẳng cấp trên gây thương tích cho người ở đẳng cấp dưới thì hình phạt được quy định nhẹ hơn.
         Chẳng hạn, Điều 202 bộ luật quy định:
         “Kẻ nào đánh vào đầu người ở đẳng cấp trên mình
         Kẻ đó sẽ bị đánh 60 roi gân bò ở giữa nơi công cộng”.
         Điều 205 cũng quy định:
         “Tên nô lệ nào dám đánh vào đầu người tự do thì nó phải bị cắt tai”.
Còn Điều 204 quy định :
Kẻ nào đánh vào đầu mouchkinou sẽ phải trả (cho người bị hại) mười sieles bạc.
 
- Các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm con người
         + Điều 130 bộ luật quy định tội hiếp dâm:
         “Kẻ nào bị bắt quả tang giao cấu trái ý muốn với người con gái đã là vợ của người khác;
         Nhưng chưa về nhà chồng và vẫn còn trinh tiết
         Kẻ đó sẽ phải chết
         Người con gái được miễn tội”.
         Đối tượng được bảo vệ bởi quy phạm nói trên rất hạn chế, chỉ giới hạn trong phạm vi những người con gái đã đính hôn nhưng chưa về nhà chồng. Không thấy luật nói đến những đối tượng khác.
         + Về tội xúc phạm người khác, Điều 127 quy định:
         “Kẻ nào dám xúc phạm nữ tu hoặc xúc phạm vợ của người khác,
         Mà không có lý do chính đáng,
         Kẻ đó sẽ bị lôi ra trước Toà và bị đóng dấu vào trán”.
         + Tội vu khống. Tuỳ thuộc vào nội dung của sự vu khống mà bộ luật Hammurabi đưa ra cách xử lý khác nhau:
         Điều 3 bộ luật quy định tội vu khống người khác giết người:
         “Nếu kẻ nào, trước các quan toà, tố giác người khác phạm tội giết người hoặc các tội chết khác mà không đưa ra được các bằng chứng xác đáng, kẻ đó sẽ phải chết.
         Điều 4 bộ luật quy định tội vu khống người khác phạm các tội liên quan đến tài sản:
         “Nếu vu khống người khác phạm các tội liên quan đến tài sản (hình phạt là thóc lúa hoặc bạc) thì kẻ vu khống sẽ bị phạt tài sản.
 
         - Tội phạm xâm phạm tự do thân thể của con người.  Điều 114 bộ luật quy định:
         “Kẻ nào không phải là chủ nợ của người khác mà dám cầm giữ người đó (hoặc người thân thích của người đó) làm con tin;
         Thì với mỗi con tin, y phải trả cho họ một phần ba mine bạc”.
 
           Thứ năm, các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình
          Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình là một trong những nhóm tội quan trong nhất được quy định trong bộ luật Hammurabi. Nhà làm luật quy định rất chi tiết những hành vi trái pháp luật trong lĩnh vực hôn nhân gia đình để bảo vệ chế độ gia đình gia trưởng Lưỡng Hà cổ đại.
          Bởi mỗi thành viên trong gia đình gia trưởng có một vị trí khác nhau, có những tội chỉ có thể do thành viên này mà không thể do thành viên khác thực hiện. Do đó, một trong những nguyên tắc xây dựng quy định về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình trong bộ luật Hammurabi là dựa trên cơ sở dấu hiệu chủ thể.
          + Các tội do người gia trưởng (người cha) thực hiện:
          * Tội loạn luân. Điều 154 bộ luật quy định:
          “Nếu kẻ nào loạn luân với con gái của mình, kẻ đó sẽ bị lưu đầy biệt xứ”.
          * Tội xâm hại tình dục đối với vợ của con trai. Điều 155 bộ luật quy định:
         “Kẻ nào cưới vợ cho con trai và con trai y đã quan hệ với cô gái đó
         Mà (y) còn ngủ với cô ta
         Thì (y) sẽ bị trói gô lại và bị đem quẳng xuống dưới nước”.
         
          + Các tôi do người con (trai) thực hiện:
          * Tội loạn luân.
           Điều 157 quy định:
          “Nếu người đàn ông nào dám ngủ với mẹ của hắn ta thì cả hai sẽ bị ném vào lửa.     
          Điều 158 quy định:
         “Nếu người đàn ông nào bị bắt quả tang ngủ với người phụ nữ đã nuôi hắn ta và có với cha hắn ta những đứa con
         Người đàn ông đó sẽ bị đuổi ra khỏi nhà bố đẻ của mình”.
 
          * Tội hành hung cha đẻ. Điều 195 bộ luật quy định:
         “Đứa con nào dám đánh cả cha đẻ của nó 
         Nó sẽ bị chặt tay”.
 
         + Các tội do người vợ thực hiện:
         * Tội giết chồng (sát phu). Điều 153 bộ luật quy định:
         “Nếu người vợ vì một người đàn ông khác mà giết chồng thì người vợ đó phải bị treo cổ”.
         * Tội ngoại tình. Điều 129 bộ luật quy định:
         “Người đàn bà nào đã có chồng mà lại lên giường với một người đàn ông khác,
         Thì sẽ bị trói gô vào người đàn ông ấy,
         Và cả hai sẽ bị ném xuống nước,
         Trừ trường hợp người chồng muốn tha mạng cho vợ của y hay nhà vua muốn tha mạng cho tên nô lệ của mình”.
         * Tội không chung thuỷ thờ chồng. Điều 133 bộ luật quy định:
         “Nếu như người chồng bị bắt làm tù binh,
         Và nếu như ở nhà của anh ta, vẫn còn phương tiện sinh hoạt để duy trì cuộc sống
         Mà vợ của anh ta đã bỏ anh ta đi lấy một người đàn ông khác,
         Thì thị là người có tội vì đã không chung thuỷ với anh ta
         Thị sẽ bị truy tố trước Toà và bị quẳng xuống sông, làm mồi cho cá.
         * Tội phá tán tài sản nhà chồng, gây sự với chồng  đòi ly hôn. Điều 143 quy định:
         “Nếu người vợ (đòi ly hôn) là một ả lăng loàn; phá tán tài sản nhà chồng và không có trách nhiệm với chồng con
         ả sẽ bị người ta quẳng xuống dưới nước”.
 
         Thứ sáu, các tội phạm xâm phạm chế độ quân dịch; tôi phạm do nhân viên chính quyền thực  hiện.
         + Các tội xâm phạm chế độ quân dịch. Các tội phạm này có thể do nhiều chủ thể khác nhau thực hiện.
         Điều 26 bộ luật quy định:
Nếu người chỉ huy hoặc chiến sỹ nhận được mệnh lệnh của nhà vua phải ra chiến trường;
Không tuân theo mệnh lệnh đó mà lại thuê người khác đi thay;
Và kẻ được thuê kia đã đi ra chiến trường thật;
Thì kẻ chốn tránh mệnh lệnh kia phải chết.
         Kẻ đi thay y  ra chiến trường sẽ được thưởng ngôi nhà của y”.
         Điều 33 bộ luật quy định:
Nếu người Tổng trấn nhận được mệnh lệnh của nhà vua đưa quân đội của ông ta ra trận mà trốn tránh việc điều động quân sĩ;
         Và thuê những đạo quân đánh thuê đi thay;
         Thì người đứng đầu chính quyền địa phương này phải xử tử”.
          + Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của cấp dưới.
          Điều 34 bộ luật quy định:
Nếu người Tổng trấn nào tước đoạt tài sản của các chiến sĩ dưới quyền, ức hiếp họ, chiếm đoạt những chiến lợi phẩm mà nhà vua đã ban cho họ;
          Người Tổng trấn đó sẽ  bị phạt tử hình”.
          + Tội ra phán quyết sai.
          Điều 5 bộ luật quy định:
         “Nếu một quan toà (thẩm phán) xét xử một vụ án, rồi đi đến phán quyết và ghi vào hồ sơ vụ án.
         Và nếu phán quyết đó là sai lầm;
          Sai lầm này thuộc về riêng ông ta;
         Thì ông ta sẽ phải trả cho người bị thiệt hại do phán quyết sai lầm của ông ta một khoản tiền gấp 12 lần khoản tiền mà ông ta đã phạt họ;
         Và ông ta sẽ bị cách chức, không bao giờ được phép đi xét xử người khác nữa”.
 
          Thứ bảy, những tội phạm khác.
          Có thể nêu tội không chịu nhận thóc thay cho bạc như là một ví dụ cho nhóm tội này:
Nếu mụ bán rượu nào từ chối nhận thóc khi bán rượu mà nhất quyết đòi nhận tiền;
         Và nếu như mụ hạ giá bán rượu dưới giá thóc;
          Mụ sẽ bị quẳng xuống sông”. (Điều 108 bộ luật).



[1] Nguyễn Minh Tuấn, Bộ luật Hammurabi – bộ luật cổ xưa nhất của nhân loại, Khoa Luật trực thuộc ĐH QGHN, 30 năm truyền thống (1976-2006), NXB Công an nhân dân, tr 292.
 
[2] Dẫn theo Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, năm 2006, tr 222.
 
[3] Leonard Woolley, Bước đầu của nền văn minh, (Trong cuốn “Lịch sử văn minh nhân loại thời tiền sử”), NXB Văn hoá thông tin, năm 2001, tr 589.
 

0 comments:

Post a Comment

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | LunarPages Coupon Code