Tóm tắt: Ra đời cách đây trên hai nghìn năm, mặc dù còn có nhiều hạn
chế do lịch sử, do bản chất giai cấp nhưng học thuyết Pháp trị của Trung
quốc cổ đại vẫn toát lên nhiều giá trị tư tưởng quý báu mà học thuyết
Nhà nước pháp quyền sau này đã tiếp thụ được. Những giá trị tư tưởng này
đã đóng một vai trò tích cực trong lịch sử Trung quốc. Trong
quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay, chúng
ta nên tham khảo, tiếp thụ những hạt nhân tiến bộ của học thuyết này,
như: đề cao pháp luật; pháp luật phải phù hợp với đời sống xã hội; và,
pháp luật phải được thi hành triệt để, nghiêm minh.. Đấy là những vấn đề
được đề cập đến trong bài viết.. Cuối thời Xuân thu sang đầu Chiến
quốc, xã hội Trung Quốc lâm vào cuộc khủng hoảng ngày càng trầm trọng:
nền chính trị Thiên Tử của nhà Chu suy vong, các chư hầu cùng nổi lên
tranh giành bá chủ. Trung Quốc bước vào thời kỳ loạn lạc chưa
từng thấy với hơn năm trăm năm chiến tranh đau thương " người chết đầy
đồng, thây chất đầy thành " (Mạnh Tử). Hiện thực nóng bỏng đó là tiền đề
tích cực cho ra đời hàng loạt các học thuyết tư tưởng, nhằm lý giải
hiện thực và đề xuất những quan điểm, đường lối chính trị- những phương
thuốc cứu đời từ loạn về trị. Lịch sử Trung Quốc đã từng kiểm
nghiệm vai trò các học thuyết "Đức trị ", "Vô vi trị ", "Kiêm ái "...
Song chúng đều tỏ ra bất lực vì không đáp ứng được yêu cầu thời cuộc.
Vào lúc tưởng chừng bế tắc đó, học thuyết pháp trị đã xuất hiện trên vũ
đài lịch sử với tư cách là đường lối chiến lược chính trị lấy pháp luật
làm công cụ chủ yếu, nhanh chóng trở thành ngọn cờ tư tưởng góp phần đưa
sự nghiệp thống nhất của nhà Tần đi đến thắng lợi, thúc đẩy sự chuyển
biến xã hội Trung Quốc từ phong kiến sơ kỳ sang quân chủ chuyên chế,
đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch sử Trung Quốc. Học thuyết pháp trị với vai trò Tập đại thành của Hàn Phi Tử (-280-234) được hình thành trên cơ sở thống nhất của 3 học phái: Pháp của Thương Ưởng (?- 338); Thế của Thận Đáo (-370-290); Thuật của Thân Bất Hại (-401-337),
đã phát triển rực rỡ ở thời kỳ tiên Tần và tuy không được bổ sung phát
triển liên tục trong lịch sử như các học thuyết khác, song hôm nay dưới
góc độ của khoa học pháp lý hiện đại để tìm hiểu về học thuyết này chúng
ta vẫn thấy toát lên những giá trị tư tưởng bổ ích. 1. Pháp luật là công cụ của quyền lực chính trị
Trước tình hình rối ren, các chư hầu thi nhau nổi loạn tranh bá, tiếm
đoạt quyền lực thiên tử, đa số các nhà tư tưởng Trung Quốc cổ đại đều
cho rằng: nguyên nhân xã hội loạn là do sự suy yếu địa vị của nhà Chu.
Từ đó, họ thống nhất với nhau chủ trương tôn quân quyền (đề cao uy thế
nhà vua). Từ điểm xuất phát này, mỗi học thuyết lại đề xuất những giải
pháp khác nhau: Đức trị chủ trương dùng đạo đức, Pháp trị tìm thấy ở
pháp luật tính khả thi cho việc thực hiện đường lối của mình. Đề cập đến
phương thức cai trị- nội dung cốt lõi của vấn đề chính trị, các nhà
pháp trị cho rằng: Việc trị nước, quản dân không thể dựa theo lễ nghi
truyền thống mà phải được thực hiện trên cơ sở những đạo luật cụ thể và
chặt chẽ. Pháp luật, theo Hàn Phi " là hiến lệnh công bố ở các công sở,
thưởng hay phạt đều được dân tin chắc là thi hành thưởng người cẩn thận
giữ pháp luật, phạt kẻ phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo pháp " 1 . Điều
đó cho thấy Pháp trị đã coi pháp luật là cơ sở của việc cai trị.
Quan niệm của Hàn Phi về "pháp luật như dây mực, cái thuỷ chuẩn, cái
quy, cái củ" (thước tròn, thước vuông)- là những đồ dùng làm tiêu chuẩn
để lo đường sự đúng sai của các hành vi và làm khuôn phép để khen chê
cho đúng. Theo các nhà pháp trị, pháp luật hết sức cần thiết để duy trì
sự thắng thế của nhà vua vì pháp luật là gốc của vương quyền và để bảo
vệ vương quyền, do vua đặt ra để bắt dân thi hành , theo quan niệm:
"Pháp luật là gốc của vua, hình phạt là đầu mối của tình thương".
Sự cần thiết của pháp luật ở chỗ là mẫu mực để an dân, làm cho nước trị
vì nó có mục đích xoá nguồn gốc của sự rối loạn " làm cho trị là pháp
luật, gây ra loạn là cái riêng tư " 2 . Ở đây, tư tưởng của Hàn Phi
không hẹn mà gặp các nhà tư tưởng vĩ đại của Hy Lạp cổ đại. Xolong
(-638-559) cho rằng pháp luật là cái bảo đảm cho sự bình yên của quốc
gia, " tình trạng vô chính phủ sẽ đem lại bao tai hoạ, đưa thành phố tới
chỗ diệt vong. Chỉ có pháp luật mới thiết lập được trật tự và tạo nên
sự thống nhất ". Hêraclit (-530-470) cũng rất coi trọng pháp luật. Bằng
câu nói nổi tiếng: " các nhà nước thị thành phải được thiết lập căn cứ
trên pháp luật. Đấu tranh bảo vệ pháp luật cũng quan trọng như đấu tranh
bảo vệ thành phố quê hương ", Ông đã coi pháp luật là phương tiện để
thực hiện cái phổ biến. Đặc trưng nổi bật của pháp luật là
những quy tắc xử sự chung, làm khuôn mẫu hành vi cho mọi người trong xã
hội. Sức mạnh của pháp luật được bảo đảm bằng chính sức mạnh quyền lực
chính trị để buộc mọi người phải tuân theo. Và ngược lại, pháp luật được
thực thi để củng cố và duy trì uy thế nhà vua. Cho nên, pháp luật là
cẩm nang và phương tiện đặc biệt đảm bảo cho sự cai trị thành công.
Ngoài pháp luật là chỗ dựa duy nhất để nhà vua tin cậy, tất cả các quan
hệ khác như: vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng... đều tuyệt đối không
thể tin tưởng và luôn phải cảnh giác. Theo họ thì mọi tình cảm như: sự
kính trọng, thuỷ chung, trung hiếu... đều là huyễn hoặc xa vời.
Sự nghi kỵ luôn là cần thiết và phải được coi là phương châm xử thế.
Việc xem xét quan hệ giữa con người với nhau phải trên nguyên tắc lấy
cái lợi làm hệ quy chiếu. Pháp trị cho rằng bản chất của con người là
ác, luôn tranh giành, xâu xé nhau về lợi ích, cho nên, những lời lẽ ca
ngợi sự tin tưởng giữa con người với nhau đều là giả dối hay ngây thơ
trong chính trị. Với họ, đạo đức, nhân nghĩa chỉ là món hàng xa xỉ,
những thứ đồ chơi của trẻ nhỏ. Cái quý nhất là pháp luật và chỉ có thể
là pháp luật " áp dụng pháp luật thì kẻ trí phải theo mà kẻ dũng không
dám cãi, khiến cho toàn dân noi theo một đường thì không gì bằng pháp
luật. Pháp luật phân minh thì người trên được coi trọng, không bị lấn.
Người trên được coi trọng không bị lấn thì vua mạnh, nắm được cái mối
quan trọng "(3). Cho rằng pháp luật là công cụ đắc lực và hiệu
nghiệm nhất để duy trì và củng cố quyền lực chính trị (uy thế) của nhà
vua- công cụ của đế vương, chỗ dựa vững chắc nhất để bảo đảm an toàn cho
sự ngự trị của vua, nên theo Hàn Phi, nhà vua sáng suốt phải đặt pháp
luật lên trên đức hạnh và trên cả người hiền (vụ pháp chứ không vụ đức) "
Thánh vương không quý nghĩa mà quý pháp luật "(4). Không chỉ
thế, các nhà pháp trị còn chủ trương lấy pháp luật làm chuẩn mực duy
nhất áp đặt cho các giá trị của đạo đức, tình cảm, văn hoá... trong đời
sống xã hội. Có thể nói, Hàn Phi đã cực đoan khi độc tôn pháp luật.
Từ chỗ ghi nhận những nội dung quan trọng (như trên) đến việc phát hiện
ra vai trò cực kỳ quan trọng của pháp luật là phương tiện hữu hiệu
trong việc quản lý xã hội là sự phát triển logic của quá trình nhận thức
mang tính khoa học trong tư duy các nhà pháp trị. Điều này thể hiện rõ
trong vấn đề cáo gian (tố cáo kẻ gian) do Hàn Phi đặt ra: " cái đạo của
minh quân là người được tố cáo việc gian của người sang. Thượng cấp cáo
tội, thuộc hạ không tố cáo thì bị liên luỵ... " trong một huyện, nhà nào
cũng gần nhau, họp nhau thành từng "ngũ" (năm nhà), từng " liên " (250
nhà), hễ ai tố cáo lỗi của người khác thì được thưởng, không tố cáo thì
bị trị. Bề trên đối với kẻ dưới, kẻ dưới đối với bề trên đều như vậy cả.
Như vậy thì trên dưới sang hèn đem pháp luật ra răn nhau, đều đem điều
lợi ra dạy nhau 5 . Đây là biện pháp nhằm để thống nhất tư tưởng toàn
dân, tạo khả năng tăng cường trật tự, trị an và kiểm soát hành động của
mỗi người. Tư tưởng này đã đặt cơ sở cho việc quản lý nhà nước
bằng pháp luật và là một hình thức sơ khai của biện pháp nghĩa vụ dân sự
liên đới trong khoa học pháp lý hiện đại- là một loại nghĩa vụ mà những
người có nghĩa vụ luôn liên quan với nhau trong cả quá trình thực hiện
toàn bộ nghĩa vụ cũng như quyền yêu cầu của những người có quyền luôn
được coi là một thể thống nhất. Biện pháp " cáo gian " của Hàn Phi đã
tạo hiệu quả cao trong phòng ngừa tội phạm để giữ gìn an ninh trật tự xã
hội. Điều đó cho thấy, từ xa xưa các nhà pháp trị đã nhận thức được vấn
đề mang tính bản chất: Pháp luật do giai cấp thống trị ban hành và là
công cụ đắc lực để bảo vệ quyền lực chính trị. Bằng sự kết hợp giữa
quyền lực và luật pháp, Pháp trị đã cho chính trị ly khai khỏi sự chế
ngự của đạo đức và soi rõ thực chất của mối quan hệ giữa nhà cầm quyền
và người bị trị là quan hệ của quyền lực, vạch rõ cơ sở khoa học của mối
quan hệ giữa luật pháp với chính trị trong vai trò là công cụ của quyền
lực chính trị. Khác với các nhà đức trị đã tìm cách đồng nhất
thần quyền (thuyết thiên mệnh) với thế quyền, các nhà pháp trị đã không
ngần ngại gạt bỏ những quan niệm sáo mòn trong quá khứ, trả lại một cách
dứt khoát cho siêu nhiên những gì của nó để đề cao duy nhất vai trò của
pháp luật- sản phẩm của nhân định. Họ tìm thấy niềm tin ở ngay nhân tố
chủ quan, đề cao năng lực nhận thực và sức mạnh cải tạo ở chính con
người, công khai tuyên bố bản chất của chính trị là quan hệ giữa con
người với con người hoàn toàn mang tính trần gian và chỉ rõ quan hệ đó
bị chi phối bởi yếu tố lợi ích. Vì thế, cái mà họ đề cao chính là uy thế
địa vị (quyền lực) và pháp luật của nhà vua chứ không phải là sự thuyết
giảng về thiên mệnh và đạo đức. 2. Pháp luật phải phù hợp với đời sống xã hội
Một trong những quan điểm hàng đầu của Pháp trị cho rằng: việc ban hành
pháp luật phải thích ứng với thời đại, theo nguyên tắc thời biến pháp
biến, " pháp luật mà cùng với thời mà thay đổi thì nước trị, trị dân mà
hợp với đời thì có kết quả... thời thay mà pháp luật không đổi thì nước
loạn. Đời đã thay đổi mà cấm lệnh không biến thì nước bị chia cắt. Cho
nên thánh nhân trị dân thì pháp luật theo thời mà đổi, cấm lệnh cùng với
đời mà biến " 6 . Pháp trị cho rằng việc trị nước không có cái nguyên
tắc bất biến. Xét trong bối cảnh đương thời, khi tư tưởng Đức trị đã trở
thành chính thống và việc theo gương các vua nhân đức đời xưa trở thành
mẫu mực của đạo trị nước thì quan điểm trên đây của Pháp trị thực sự
mang tính cách mạng và đột phá cao. Ngoài ra, các nhà Pháp trị
còn cho rằng, pháp luật phải chiều theo tập quán của dân chúng, " thánh
nhân cai trị thì xem phong tục của thời đại thì pháp luật không đứng
được, mà dân loạn " 7 . Tư tưởng này thể hiện cái khôn ngoan của kẻ cai
trị: dùng sức mạnh của tập quán để củng cố sức mạnh cho pháp luật và
cũng chính tập quán là chất xúc tác quan trọng để pháp luật phát huy vai
trò trong cuộc sống. Tuy nhiên, Hàn Phi cũng không cứng nhắc trong vấn
đề này. Theo ông, việc pháp luật thay đổi hay không đổi không phụ thuộc
vào vấn đề cổ hay kim, cũ hay mới mà cái chính là ở chỗ việc đó có hợp
thời hay không: Thánh nhân không nhất định phải theo cổ, giữ cựu lệ mà
phải xét việc đương thời rồi tuỳ nghi tìm biện pháp 8 : Điều đó cho
thấy, trong quan điểm của các nhà Pháp trị luôn thống nhất giữa tính
nguyên tắc với sự linh hoạt cần thiết của tư duy biện chứng sâu sắc.
Đây là quan điểm duy vật lịch sử mà cách đây trên 2000 năm các nhà pháp
trị bằng tư duy trực quan mách bảo đã tiếp cận được, thực sự là quan
điểm tiến bộ, rất duy vật mà cũng rất biện chứng khi xem xét vấn đề pháp
luật và coi đây là cơ sở lý luận, là xuất phát điểm khoa học quan trọng
của học thuyết này. Xét trên phương diện nhất định, quan điểm này phần
nào " gần " với quan điểm của các nhà Mác xít sau này khi cho rằng, pháp
luật là một hình thái ý thức thuộc thượng tầng kiến trúc, phản ánh hạ
tầng cơ sở của xã hội, khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì thượng tầng kiến
trúc phải thay đổi theo, " pháp luật không cao hơn cũng không thấp hơn
trình độ phát triển kinh tế- xã hội " (Mác). Yêu cầu đối với pháp luật
là phải phản ánh phù hợp với thực trạng kinh tế- xã hội. Trên
quan điểm đó, các nhà pháp trị đã đả phá kịch liệt quan điểm cổ hủ của
Nho gia luôn miệng " kính tiên thiên " cho rằng đời sau không bằng đời
trước. Tiếc thay, đến giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã thống trị ở
Châu Âu và quay sang thôn tính phương Đông, giai cấp phong kiến Trung
Quốc và Việt Nam vẫn không tỉnh ngộ, nhìn thẳng vào thực tại đất nước mà
vẫn khư khư chủ trương " pháp tiên vương " và cho Tây phương- những kẻ
có súng ống, tàu đồng là " man di ", để rồi nhanh chóng chuốc lấy thất
bại. Trong xây dựng pháp luật thực định, Pháp trị chủ trương
pháp luật phải đơn giản, dễ hiểu. Phải soạn thảo cho dân dễ biết, dễ thi
hành. " Pháp luật không gì bằng thống nhất và ổn cố, khiến cho dân biết
được " 9 . Từ chức năng là khuôn mẫu xử sự chung nên pháp luật trong
bản chất tự nhiên đã mang tính công bằng, trở thành đại biểu của công
lý. Theo Hàn Phi, pháp luật phải công bằng, bênh vực kẻ yếu, số ít, như
vậy mới tạo nên trật tự trong nước: "... trị nước thì mình định pháp
luật, đặt ra hình phạt nghiêm khắc để cứu loạn cho dân chúng, trừ hoạ
cho thiên hạ, khiến cho kẻ mạnh không lấn kẻ yếu, đám đông không hiếp
đáp số ít, người già được hưởng hết tuổi trời, bọn trẻ con được nuôi
lớn, biên giới không bị xâm phạm, vua tôi thân nhau, cha con bảo vệ
nhau, không lo bị giết hay bị cầm tù, đó cũng là cái công cực lớn vậy "
10 . Pháp luật được quan niệm như là mẫu số chung để điều chỉnh các mối
quan hệ khác nhau trong xã hội quy về một trật tự thống nhất theo ý chí
của giai cấp thống trị. Công bằng phải được thiết lập trên cơ
sở mọi người đều bình đẳng trước pháp luật- là điểm tiến bộ của pháp trị
so với chủ trương phân biệt đẳng cấp " lễ bất há thứ dân, hình bất
thướng đại phu " của đức trị (lễ không dành cho dân đen, hình phạt không
dùng cho người trên), thể hiện bước phát triển lớn trong quan niệm về
dân chủ của phương Đông. Tuy nhiên, do xuất phát từ lợi ích của giai cấp
thống trị nên nội hàm của khái niệm công bằng theo Hàn Phi còn phiến
diện và khác xa so với hiện nay bởi đó mới chỉ là quy định công bằng
trong phục tùng nghĩa vụ giữa các thành viên trong xã hội, (còn công
bằng về quyền lợi chưa được đề cập đến). Do vậy mà pháp luật chỉ được
chú trọng đến quyền lợi của Nhà nước mà xem nhẹ quyền lợi của người dân
và các biện pháp chế tài cũng thường tuyệt đối hoá mặt trừng trị mà chưa
nhìn thấy một chức năng không kém phần quan trọng của pháp luật là giáo
dục. Những quan điểm về ban hành pháp luật của Pháp trị như
trên về cơ bản vẫn phù hợp và giữ nguyên giá trị trong xây dựng pháp
luật hiện đại. Đến nay, yêu cầu về ban hành văn bản pháp luật vẫn phải
là chính xác, đơn giản, dễ hiểu, chặt chẽ, phổ thông. Xưa và nay với
khoảng cách của trên 2 thiên niên kỷ song tư tưởng của Hàn Phi vẫn đang
sống với thực tại của chúng ta chứ chưa phải đã lùi về quá khứ. 3. Pháp luật phải được thi hành triệt để
Việc ban hành pháp luật mới chỉ đáp ứng về điều kiện cần để điều chỉnh
các quan hệ xã hội. Điều quan trọng hơn là những quy định pháp luật đó
được tổ chức thực hiện trong cuộc sống để trở thành pháp luật trên thực
tế và mới đáp ứng được yêu cầu của chính trị. Thống nhất giữa pháp luật
và pháp chế luôn là một đòi hỏi khách quan trong xây dựng và thực thi
pháp luật. Nhận thức rõ điều này, Hàn Phi không chỉ coi trọng việc xây
dựng pháp luật trên cơ sở khoa học mà còn đòi hỏi nó phải được thực thi
một cách triệt để: trong xã hội từ trên xuống dưới, từ vua quan cho đến
thần dân đều phải tuân thủ nghiêm minh. Tính nghiêm minh của
pháp luật được thể hiện trước hết ở việc thưởng phạt. Nhà vua không được
tuỳ tiện mà phải theo đúng phép nước chí công vô tư " dùng pháp luật để
trị nước là để khen đúng người phải, trách đúng kể quấy... trị tội thì
không chừa các quan lớn, thưởng công thì không bỏ sót các dân thường "
và " nếu quả thật có công thì dù là kẻ không thân mà hèn mọn cũng
thưởng, nếu quả thật có tội thì dù là kẻ thân ái cũng phạt " " không
tránh người thân và đại thần, thi hành với cả người mình yêu "... Những
quan điểm đó cho thấy việc thi hành pháp luật của Hàn Phi là hết sức
triệt để, không có chỗ cho những tình cảm cá nhân, hay địa vị, tư lợi mà
chỉ dành cho phép công duy nhất. Chủ trương của Pháp trị là đề cao
tuyệt đối pháp luật, vứt bỏ hết thi- thư- lễ- nhạc là những cơ sở giáo
hoá của đức trị để đưa mọi người vào một khuôn khổ duy nhất là luật
pháp. Thậm chí, giữa vua- tôi cũng không cần bày tỏ tình cảm kính trọng,
thân ái mà chỉ cần làm theo đúng pháp luật. Với các nhà pháp trị, pháp
luật được đặt ở vị trí tối thượng và thực sự là thứ đạo đức không có
tình cảm. Với vua là người đề ra và nắm pháp luật trong tay,
cũng là người cao nhất có quyền thực thi pháp luật, hơn ai hết Vua phải
gương mẫu tự đưa mình vào khuôn khổ trong thi hành pháp luật. Bậc minh
quân phải là người có tinh thần thượng tôn pháp luật và bắt các quan lại
thi hành luật pháp một cách đúng đắn: "Người thi hành pháp luật mà
cương cường thì nước mạnh, người thi hành pháp mà nhu nhược thì nước
yếu" 11 . Vai trò và sự sáng suốt của vua là yếu tố tiên quyết
đảm bảo cho việc thực thi pháp luật có hiệu quả. Muốn vậy, vua phải gạt
bỏ hoàn toàn những riêng tư để chỉ tuân theo pháp luật: " nhà cầm quyền
nào biết từ bỏ tư lợi tà tâm mà theo phép công (tức pháp luật) thì dân
sẽ yên, nước sẽ trị; biết từ bỏ hành động riêng tư mà làm theo phép công
thì binh sẽ mạnh, địch sẽ yếu " 12 . Ở đây, Hàn Phi đã nhận thấy ý muốn
cá nhân là cội nguồn của tình trạng vô pháp luật và ông cảnh báo nguy
cơ: khi pháp luật bị xem thường và đặt dưới ý chí chủ quan của người cầm
quyền là lúc xảy ra tai hoạ của sự suy vong. Như vậy, trong khi Đức trị
chủ trương vua nêu gương nhân đức, Pháp trị lại chủ trương vua nêu
gương tuân thủ pháp luật. Pháp luật là vũ khí sắc bén để bảo vệ
uy thế của vua. Vì vậy, vua phải sử dụng pháp luật một cách hữu hiệu
bằng việc nắm trong tay các quyền thưởng phạt để chế ngự bề tôi, yêu cầu
việc thưởng phạt phải xác thực, đúng người và đích đáng mới phát huy
hiệu quả của pháp luật. " Phạt tội một kẻ mà ngăn cấm được mọi sự gian
tà trong nước (...). Kẻ bị phạt nặng là kẻ cướp, kẻ sợ hãi là lương dân "
13 . Đây là quan điểm dùng hình phạt để bỏ hình phạt (hình dĩ
khử hình) của Pháp trị, trái ngược với Nho giáo là bãi bỏ hình phạt để
không còn hình phạt nữa (hình bất hình). Ở đây, các nhà pháp trị đã tiếp
cận đến nguyên tắc kết hợp giữa giáo dục với trừng phạt; hình phạt là
để răn đe, phòng ngừa tội phạm. Tư tưởng này khác xa so với tư tưởng của
Phương Tây cổ đại (mà tiêu biểu là Bộ luật La Mã), trong đó quy định
nguyên tắc trừng phạt mang tính trả thù ngang bằng máy móc và thô thiển.
Chẳng hạn, có những quy định nếu ai đó phạm phải một trong các tội như:
giết người, đánh người bị thương hay làm gãy tay mù mắt người khác...
thì người đó phải chịu sự trừng phạt tương ứng. Đáng buồn hơn "... quy
tắc trả thù đó tồn tại suốt lịch sử tiến triển của pháp luật: nó xuất
hiện trong luật báo thù (Lex talionis) của La Mã; nó đóng vai trò quan
trọng trong bộ luật của Hamourabi, trong luật của Moixse "dĩ oán báo oán
", và người ta có thể dễ dàng nhận ra nó ở phía sau nhiều điều lệ trong
các bộ luật hiện hành 14 ... Ở đây, tư tưởng phương Đông đã
thể hiện tầm cao hơn hẳn phương Tây, vượt qua những giới hạn nhận thức
hạn hẹp và cụ thể để vươn đến mục tiêu xa hơn là đáp ứng những yêu cầu
về chính trị, phản ánh ưu thế của một tư duy duy vật biện chứng với một
bên là tư duy siêu hình máy móc. Ngoài ra, đề cập đến việc thi
hành pháp luật, Hàn Phi cho rằng, phải phổ biến pháp luật (trái với
Thuật được dùng bí mật) để không một người dân nào có thể viện cớ rằng
mình không biết pháp luật nên lỡ phạm pháp. " Pháp luật là cái chép
trong sách vở, bày ở công sở và công bố cho toàn dân... pháp luật không
gì bằng phải bày ra cho mọi người biết mà Thuật thì không muốn cho người
khác thấy. Bậc minh chủ nói đến pháp luật thì hết thảy những kẻ ty tiện
đều được nghe biết " 15 . Quan điểm này trái ngược với các nhà
đức trị là luôn chủ trương không phổ biến pháp luật nhưng thể hiện tính
hợp lý ở chỗ: việc phổ biến, tuyên truyền là bước đi đầu tiên trong tổ
chức thực thi, bảo đảm cho pháp luật đi vào cuộc sống với mục đích cuối
cùng làm cho ý chí của giai cấp thống trị trở thành hiện thực trong thực
tế đời sống xã hội. Trên quan điểm duy vật lịch sử, học thuyết
pháp trị đã phản ánh đúng quy luật vận động của lịch sử, trở thành đại
biểu cho tiếng nói của giai cấp địa chủ phong kiến đang lên thay thế địa
vị giai cấp quý tộc chủ nô trong xã hội Trung Quốc cổ đại. Mang lập
trường của giai cấp tiến bộ đương thời, các nhà pháp trị đã tìm thấy vai
trò vô cùng quan trọng của pháp luật trong việc duy trì, bảo vệ quyền
lực thống trị, coi đó là vũ khí đặc biệt trong việc quản lý xã hội, nhờ
đó, giai cấp thống trị (mà nhà Tần là đại biểu) tạo được sự thống nhất
bên trong để có điều kiện đối phó với tình hình bên ngoài (tranh bá giữa
các nước) để hoàn thành sứ mệnh lịch sử: lần đầu tiên đưa sự nghiệp
thống nhất Trung Quốc đến thắng lợi. Pháp trị ra đời đáp ứng
được yêu cầu của lịch sử. Tuy nhiên, do đã thủ tiêu những giá trị nhân
đạo, nhân văn là hạt nhân tích cực trong nội dung các học thuyết "Đức
trị ", " Kiêm ái "... nên ở phương diện này Pháp trị lại phản ánh một
bước lùi lịch sử. Như một đứa con yêu có công lao lớn nhưng cũng mang
nhiều lỗi tật, tuy được giai cấp phong kiến sau này thực sự cưng chiều
nhưng đành phải che giấu mặt tàn ác (cái tật) của nó dưới hình thức vỏ
bọc " Dương Nho âm Pháp ". Pháp trị đã xuất hiện trong lịch sử
như một vì sao sáng chói rồi sau đó phải khuất chìm sau ánh sáng của Đức
trị. Tư tưởng đề cao pháp luật, coi pháp luật là công cụ quản lý nhà
nước và xã hội, cũng như những quan điểm và nguyên tắc pháp lý như trên
của Pháp trị thực sự là tiến bộ lịch sử, trở thành niềm tự hào và là nét
đặc sắc của tư tưởng phương Đông mà mãi sau này đến thế kỷ Khai sáng
phương Tây mới tiếp cận và vượt lên bởi các tên tuổi John Lock, JJ.
Rut-Xo, Mongtexkiơ... phát triển tư tưởng về nhà nước và pháp luật lên
đỉnh cao bởi các học thuyết "tam quyền phân lập", "nhà nước pháp
quyền"... Hai tư tưởng cách nhau trên một ngàn năm song bước
nhảy của phương Tây so với phương Đông chỉ trong một khoảng ngắn ngủi:
Pháp trị đề cao pháp luật, yêu cầu mọi người phải tuân thủ pháp luật,
chỉ chừa đặc quyền cao nhất cho một người được đứng trên là nhà vua (do
hạn chế của thời đại). Còn phương Tây chủ trương tất cả mọi người đều
bình đẳng trước pháp luật. Sự thay đổi từ công thức (n - 1) đến (n), tuy
rất nhỏ nhưng thực sự là kết quả đấu tranh gian khổ và lâu dài của nhân
loại, đánh dấu một bước ngoặt mang tính thời đại. Học thuyết
pháp trị do phản ánh đúng quy luật khách quan nên đã đáp ứng được yêu
cầu của lịch sử. Ngày nay, chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân thì một yêu cầu
quan trọng là phải xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, tạo
môi trường pháp lý ổn định cho phát triển kinh tế- xã hội. Qua thực tiễn
hơn mười năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu không thể phủ nhận trong
hoạt động xây dựng và thực thi pháp luật, trên thực tế cũng xuất hiện
tình trạng chồng chéo, khủng hoảng thiếu hay thừa về luật trong một số
lĩnh vực. Pháp luật của chúng ta lại thiếu tính ổn định và sự cụ thể
chặt chẽ; ý thức pháp luật của một bộ phận cán bộ và nhân dân còn thấp
dẫn đến việc coi thường trong chấp hành hoặc áp dụng pháp luật tuỳ
tiện... là những nguyên nhân của kỷ cương phép nước không nghiêm. Những
hạt nhân tiến bộ của Học thuyết pháp trị chắc chắn sẽ cho chúng ta nhiều
suy nghĩ trong công tác xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước và hệ
thống pháp luật hiện nay. /. 1. Nguyễn Hiến Lê- Giản Chi: Hàn Phi Tử, NXB Văn Hoá, tr.273. 2. Nguyễn Ngọc Huy: Đề tài người ưu tú trong tư tưởng chính trị Trung Quốc cổ thời, NXB Cấp Tiến, tr.215. 3. Lê Văn Được: Thuật trị nước của người xưa, NXB TP Hồ Chí Minh, Tr. 161. 4. Nguyễn Ngọc Huy- Sđd, tr.219. 5. Nguyễn Hiến Lê- Giản Chi- Sđd, tr.232. 6. Nguyễn Hiến Lê- Giản Chi- Sđd, tr.276. 7. Nguyễn Ngọc Huy- Sđd, tr. 215. 8. Nguyễn Hiến Lê- Giản Chi- Sđd, tr.153.154. 9. Nguyễn Ngọc Huy- Sđd, tr.216. 10. Nguyễn Hiến Lê- Giản Chi- Sđd, tr.279. 11. Nguyễn HIến Lê- Giản Chi- Sđd, tr. 284. 12. Nguyễn Hiến Lê- Giản Chi- Sđd, tr. 284. 13. Nguyễn Hiến Lê- Giản Chi- Sđd, tr. 262. 14. Will Durant- Nguồn gốc văn minh (Nguyễn Hiến Lê dịch), tr.56. 15. Nguyễn Hiến Lê- Giản Chi- Sđd, tr. 282. THS. ĐỖ ĐỨC MINH Khoa Chính trị học- Phân viện Chính trị quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
Học thuyết nhà nước pháp quyền – Một số vấn đề trong việc hình thành và
phát triễn, TS.KH Lê Cảm. Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 10/2002.
0 comments:
Post a Comment