Hiện nay, khi
Chương trình xây dựng pháp luật của mỗi nhiệm kỳ Quốc hội đã là con số
gồm 3 chữ số, vấn đề bảo đảm tính đồng bộ giữa số lượng và chất lượng
văn bản luật được ban hành phải được đặt ra nghiêm túc. Một trong những
hướng nâng cao hiệu quả hoạt động lập pháp, nâng cao hiệu quả của từng
văn bản luật được ban hành là tăng số lượng các bộ luật có tính chuyên
ngành về từng lĩnh vực của đời sống xã hội, từng bước đưa các bộ luật
này trở thành hình thức văn bản chủ yếu của hệ thống pháp luật nước nhà.
Với tinh thần đó, điều quan trọng là phải thấy được quá trình ra đời,
phát triển, trở thành truyền thống của hoạt động pháp điển hóa pháp luật
trong lịch sử xã hội Việt Nam.
1. Hình thư đời Lý - Bộ luật pháp điển hóa đầu tiên của Việt
Nam
1.1.
Xã hội Việt Nam trong suốt một giai đoạn dài hơn mười thế
kỷ đã rơi vào nạn Bắc thuộc, các triều đại phong kiến Trung Quốc từ Hán
đến Đường lần lượt chiếm đoạt, nô dịch đất nước và con người Việt Nam.
Năm 938, khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, dân
tộc Việt Nam mới bắt đầu thời kỳ độc lập lâu dài.
Ngô, Đinh, Lê là ba triều đại độc lập, tự chủ đầu tiên, nhưng
chỉ tồn tại được trong thời gian rất ngắn: nhà Ngô 5 năm (939-944); nhà
Đinh 12 năm (968-980); còn nhà Tiền Lê là 19 năm (981-1009). Tuy về công
việc lập pháp chưa làm được gì nhiều, nhưng chắc chắn trong việc điều
hành, quản lý xã hội, các triều đại này cũng đã dùng đến pháp luật,
nhưng đó chủ yếu chỉ là những quy định có tính nhất thời, tình thế.
1.2. Hình thư đời Lý - Bộ luật thành văn đầu tiên của Việt
Nam, đã mở ra thời kỳ trở thành truyền thống pháp điển hóa pháp luật
Việt Nam.
Năm 1009, Lý Công Uẩn lên làm vua, lập
ra triều Lý (1009-1225). “Sang đời Lý, nhất là trong khoảng thế kỷ XI,
công việc xây dựng đất nước bước vào quy mô lớn, đặt nền tảng vững chắc
và toàn diện cho sự phát triển của dân tộc và của quốc gia phong kiến
độc lập”[1]. Chính quyền trung ương tập quyền được
củng cố; kinh tế phát triển, địa vị của nước Đại Việt so với các quốc
gia láng giềng được nâng cao; hoạt động lập pháp của triều Lý bắt đầu
được đẩy mạnh.
Năm 1042 (Minh Đạo nguyên triều), vua Lý
Thái Tông - đời vua thứ hai - thấy “buổi đầu trong nước việc hình ngục
kiện cáo phiền nhiễu, pháp quan câu nệ luật văn, chuộng xử nghiêm khắc,
phần nhiều oan uổng sai lầm...”. Vua lấy làm thương dân mới sai quan
Trung thư san định luật lệnh[2] “châm chước cho thích dụng với thời
thế, chia ra loại bài, biến thành điều khoản, làm thành sách Hình thư cho một triều đại, để cho người xem dễ hiểu, sách
làm xong cho xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện”[3].
Đáng tiếc
là, bộ Hình thư của triều Lý đã không còn. Theo Phan
Huy Chú, tác giả Lịch triều hiến chương loại chí,
trong phần “Văn tịch chí” thì, khi xâm lăng nhằm đặt trở lại ách đô hộ
lên dân tộc Việt, triều đại nhà Minh tiếp tục thực hiện dã tâm đồng hóa
người Việt, đã cho tịch thu hết các văn thư, sách vở của dân ta mang về
Kim Lăng tiêu hủy. Tuy Bộ luật không còn, nhưng những thông tin về bộ
luật vẫn được ghi chép trong nhiều bộ sử, tiêu biểu là Lịch
triều hiến chương loại chí, phần Hình luật chí của Phan Huy Chú.
Ngoài ra, nó còn được ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn
thư của Lê Văn Hưu hoặc một số bộ sử khác.
Có nhiều phán đoán về sự tiếp thu của Hình thư
đời Lý đối với nhiều quy định, chế định của pháp luật nhà Đường. Điều
đó có thể xảy ra và không có gì đáng ngạc nhiên. Xét theo tính chất của
hai triều đại nhà Đường, nhà Lý đều là những nhà nước phong kiến quân
chủ có tính tập quyền cao nhưng xã hội đời Đường có trình độ phát triển
cao hơn. Ngay cả trong trường hợp triều đại nhà Đường chưa từng xâm
lược, đô hộ Việt Nam và thực thi chính sách ngu dân, đồng hóa tàn bạo
nhưng là quốc gia phong kiến láng giềng, nói chung có trình độ phát
triển cao hơn và trong lĩnh vực pháp luật có một bộ luật thể hiện trình
độ pháp điển hóa cao thì đến lượt mình, triều đại nhà Lý khi có nhu cầu
ban hành bộ Hình thư chắc chắn phải tìm đến bộ luật
của nhà Đường để tham khảo và có thể tiếp thu, vận dụng những chế định
pháp luật có tính phổ biến, phù hợp. Đây là hiện tượng mang tính quy
luật trong mối quan hệ giữa các quốc gia, xã hội.
Nhưng nhà Đường cũng đô hộ Âu Lạc đến 300 năm và đương nhiên,
khi xem “An Nam đô hộ phủ” là thuộc quốc của mình thì với dã tâm đồng
hóa cả dân tộc Việt, nhà Đường nhất định mở rộng phạm vi áp dụng pháp
luật của triều đại mình đến cả xứ “man di” này. Vấn đề đặt ra ở đây là
pháp luật của nhà Đường và của các triều đại trước đó, tiêu biểu là Hán,
Tùy đã bám được vào đời sống của dân tộc Việt đến mức nào và các triều
đại tự chủ đầu tiên có thái độ như thế nào đối với các hệ thống pháp
luật đô hộ này.
Các nhà Ngô - Đinh - Lê với thời gian
tồn tại rất ngắn, lại trong buổi đầu tự chủ, có thể thấy ảnh hưởng của
pháp luật nhà Đường nói chung, của cả thời Bắc thuộc đối với pháp luật
các triều đại trên là điều không thể tránh khỏi, nhưng không có gì đáng
kể.
Đến triều đại nhà Lý, cũng phải ở năm thứ 33 của bản
triều, tức năm 1042 và đến đời vua thứ hai - Lý Thái Tông mới sai Trung
thư xây dựng Hình thư - bộ luật thành văn đầu tiên mà lịch sử biết đến
của nước ta. Trong khi xây dựng bộ luật, việc tham khảo, tiếp thu các
chế định pháp luật ra đời trước đó nhiều thế kỷ (ban bố năm 653 của nhà
Đường[4]) và vẫn đang có ảnh hưởng lớn đối với
các triều đại về sau ở ngay Trung Quốc, là điều dễ hiểu và cần thiết.
Điều đó không phụ thuộc vào việc trước đó luật nhà Đường đã có ảnh hưởng
ở Việt Nam như thế nào.
Trong chỉ dụ của mình, Lý Thái Tông chỉ
ra một cách khái quát về nguồn pháp luật cần được xem xét, san định là
“luật lệnh” và trước hết phải là “luật lệnh” của bản thân triều Lý. Đó
chỉ là những luật lệnh có tính đơn hành. Chính vì những luật, lệnh ấy
chỉ ở dạng đơn hành nên mới cần san định, châm chước cho thích dụng với
thời thế, chia ra loại bài, biến thành điều khoản để ban hành thành sách
(bộ luật). Đúng như Phan Huy Chú đã chỉ rõ: “Nước Việt ta, các triều
dựng nước đều định hình chương, nhà Lý có ban Hình thư, nhà Trần có định
hình luật đều đã tham chước xưa nay, để nêu thành phép tắc lâu dài”[5].
Nói là “tham
chước xưa nay” thì có thể hiểu rất rộng, vừa của trong nước, vừa của
nước ngoài, vừa từ thời Bắc thuộc hoặc các vương triều Hán, Tùy, Đường
của Trung Hoa. Dù là “san định luật lệ” hoặc “tham chước xưa nay” thì
vua Lý Thái Tông cũng chỉ đề cập đến nội dung của vấn đề có tính nguyên
tắc, dành cho người được giao việc vừa là một địa bàn rất rộng để lựa
chọn, cân nhắc, vừa không yêu cầu phải đặc biệt lưu ý đến một chủ thể
cần được ưu tiên đặt lên hàng đầu nào.
Sau khi Hình thư được ban bố, các đời vua Lý sau có bổ sung. Chẳng
hạn, năm 1125, vua Nhân Tông có chiếu: “Phàm kẻ đánh người đến chết thì
đày làm khao giáp, đánh 100 trượng, thích 50 chữ vào mặt”[6]. Năm 1139, vua Anh Tông định phép
chuộc ruộng, nhận ruộng, trong đó có ý “có kẻ tranh nhau ruộng ao, dùng
khí giới đánh người chết hay bị thương thì bị 80 trượng, xử tội đồ lấy
ruộng ao trả lại cho người chết hoặc bị thương”. Giết người hoặc làm
chết người mà chỉ bị những hình phạt như trên đã bị Ngô Thì Sỹ, nhà sử
học thế kỷ 18 phê phán: “sát nhân giả tử” là phép cổ. Nay tội giết người
mà cũng xử phạt như tội đánh người bị thương, thật là không có thứ bực,
mất cả sự cân nhắc nặng nhẹ…[7].
Xét từ góc
nhìn pháp điển hóa, pháp luật đời Lý nói chung và Hình thư
nói riêng, trực tiếp là chỉ dụ của vua Lý Thái Tông sai Trung thư san
định luật lệnh phải được xem là một sự kiện đặc sắc. Đáng chú ý, lý do
của việc san định luật lệnh, ban bố Hình thư là tình
trạng việc kiện tụng trong nước nhiều phiền nhiễu, khắc nghiệt đối với
dân, thậm chí còn gây oan uổng đối với dân và đây không phải là sự oan
sai thông thường mà là một sự oan sai quá đáng và vua lấy làm thương
dân. Điều này nói lên đầy đủ đạo lý của chủ trương san định luật lệ, ban
bố Hình thư, một chủ trương thấm đậm tình người của
người đứng đầu triều đại. Vua không ra chỉ dụ chung chung thuần túy đạo
lý mà cùng với chủ trương san định luật lệ, nhà vua còn chỉ rõ cách thức
phải theo để đạt được mục đích: san định luật lệnh - tham chước[8] cho thích dụng với thời thế - chia ra
loại bài - biên thành điều khoản - làm thành sách hình thư - của một
triều đại - để cho người xem dễ hiểu.
Một chỉ dụ
hoàn chỉnh về nội dung và nói theo ngôn ngữ ngày nay, đây là một chỉ dụ
thật đặc sắc về pháp điển hóa. Nhìn bằng con mắt đời nay cũng thấy khó
mà bổ sung, thêm bớt gì vào đây, từ phương diện đạo lý đến từng bước đi,
quy trình phải thực hiện và kết quả phải đạt tới[9].
Theo quan
điểm này, việc làm đầu tiên là phải san định luật lệ. “San định luật lệ”
là “sửa chữa cho gọn và quy định cho nhất trí”[10]. Một định nghĩa khác coi “san định là
sửa sang lại một văn bản cổ bằng cách bỏ đi những đoạn cho là không hợp,
xác định lại những chỗ còn nghi ngờ, sắp xếp lại”[11]. Riêng từ “san” được Đào Duy Anh định
nghĩa: “dọn bớt đi cho gọn”[12]. Tìm thuật ngữ tương đồng trong Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 (được sửa đổi, bổ sung năm
2002) thì đó là “rà soát”, “chỉnh lý”... (các điều 8, 26, 45a). Một công
việc quan trọng được tiến hành song song với việc “san định” luật lệnh
là “tham chước xưa nay”, nghĩa là “thêm bớt cho vừa”[13]. Trên cơ sở xem xét, tham khảo,
so sánh, tra cứu các thông tin đủ loại cần thiết nhằm làm sao cho “thích
dụng” với thời thế. Thuật ngữ “thích dụng” ở đây được dùng thật “đắc
địa”, tức phải phù hợp, đáp ứng được yêu cầu của công việc thực tại, thi
hành, áp dụng pháp luật. Từng thuật ngữ, từng từ được dùng, được đặt
rất đúng chỗ với sự diễn đạt cô đọng, súc tích, chứng tỏ nhận thức về
pháp điển hóa của nhà vua, của triều đình nhà Lý thật sâu sắc, chuẩn
xác, theo một lô gíc chặt chẽ. Mục tiêu rất rõ, nhưng hoàn toàn không dễ
dàng. Sự thích dụng với thời thế cũng phải “để cho người xem dễ hiểu”.
Yêu cầu này tưởng như là bình thường, giản đơn, thật ra lại
chính là biểu hiện của một thuộc tính, của một nhân cách mang đậm tính
nhân văn, nhân bản, cũng có thể nói là tính đại chúng của người đứng đầu
một nước trong xã hội phong kiến, vương quyền. ở La Mã trước đây có
nguyên tắc: một người không được lấy lý do không biết pháp luật để vi
phạm, làm trái pháp luật. Pháp luật do nhà vua ban hành, người dân có
nghĩa vụ phải biết và nghiêm chỉnh chấp hành; nếu làm trái pháp luật, họ
phải bị trừng phạt. Các vua nhà Lý về mặt này có thái độ hoàn toàn
khác, Lý Thánh Tông đã chỉ ra điều đơn giản nhưng thật cơ bản: dân vì
không hiểu luật mà mắc vào tội. Cũng vì vậy, vua lấy làm thương và chỉ
đạo cho cấp dưới phải khoan hồng, dù tội nặng hoặc nhẹ. Cụ thể: Lý Thánh
Tông (1023-1072), đời vua thứ ba lên ngôi năm 1054, mùa hạ, tháng tư,
khi vua nghe xử kiện ở điện Thiên Khánh, Đổng Thiên công chúa đứng hầu
bên, vua chỉ vào công chúa mà bảo ngục lại rằng: “Ta làm cha mẹ dân,
lòng yêu dân cũng như yêu con ta đây. Nhân dân vì không biết luật mà sa
vào hình pháp, ta rất thương. Từ nay về sau, không cứ tội nặng, tội nhẹ,
đều nên khoan hồng”[14].
Có thể nói, san định luật lệnh, tham chước xưa
nay là khâu cơ bản, quan trọng của hoạt động pháp điển hóa của bất kỳ
thời đại nào; nhưng không phải bao giờ nó cũng nhận được sự quan tâm đầy
đủ, thích đáng của các ông vua, vị chúa và nói chung của các nhà lập
pháp. Và có thể khẳng định, cách đây 1000 năm mà quan niệm của Lý Thái
Tông và nói chung của triều đại nhà Lý về pháp điển hóa không khác gì
nhiều lắm so với quan niệm ngày nay. Thật đáng trân trọng và tự hào.
Thực tế lịch sử giúp chúng ta thấy được tất cả tính đặc sắc
riêng biệt, tân kỳ, nếu không nói là sáng tạo của nền pháp luật dân tộc
đời Lý với Hình thư của Lý Thái Tông nói riêng và việc
thi hành, áp dụng nó xứng đáng trở thành niềm tự hào của cả cộng đồng
dân tộc Việt Nam trong những điều kiện lịch sử không nhẹ nhàng, thanh
thoát sau một ngàn năm Bắc thuộc. Đó là nền pháp luật mang đậm tính nhân
văn, nhân bản thể hiện đầy đủ tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường, tự
tôn dân tộc, đặc sắc riêng biệt không có dấu ấn của nền pháp luật Bắc
thuộc hoặc của phương Bắc mà mang tính chất đối lập; đối lập với chính
hệ thống pháp luật của quốc gia đã thống trị mình hơn cả ngàn năm. Nền
pháp luật đó ngay từ đầu mang tính pháp điển hóa, biết tiếp thu, kế
thừa, tham chước xưa nay để trở thành cái riêng, khác của mình mở đầu
cho truyền thống pháp điển hóa hệ thống pháp luật Việt Nam mang đậm tính
nhân văn, nhân bản và theo cách nói của nhà sử học Ngô Sỹ Liên, là “vua
thành thực thương dân, khoan rộng việc hình, cũng là vua tôi thân nhau,
không ngăn cách trên dưới, phong độ trung hậu, dễ dãi có thể trông thấy
được”[15].
2. Bộ luật Hồng
Đức và truyền thống pháp điển hóa pháp luật Việt Nam
Tiếp sau nhà Lý là các triều đại Trần, Lê, Nguyễn lần lượt trị
vì đất nước hơn 700 năm (1226 -1945). Mỗi triều đại trong những điều
kiện lịch sử cụ thể theo cách của mình đều tiến hành pháp điển hóa và
ban bố các các văn bản pháp điển hóa: nhà Trần có Hình luật,
nhà Lê có Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng ĐứcB),
nhà Nguyễn có Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long).
Cũng với những văn bản pháp điển hoá, “theo Phan Huy Chú trong
sách Lịch triều hiến chương loại chí, năm 1230, vua
Trần định thể lệ làm ra các sách chép về việc hình. Năm 1244, lại định
hình luật một lần nữa. Năm 1341, vua Trần Dụ Tông giao cho Nguyễn Trung
Ngạn và Trương Hán Siêu cùng soạn ra “Hình thư” để ban hành”[16]. Nhưng pháp luật triều Trần bị đương
thời và cả hậu thế chê trách. Theo sách “Cố tự sao” của Trần Cương Trung
mà Phan Huy Chú đã chép lại thì luật hình đời nhà Trần rất nghiêm. Kẻ
trộm cắp và nô tỳ trốn đi khi bị bắt đều phải chặt ngón chân và giao cho
chủ cũ được toàn quyền định đoạt về định mệnh hoặc cho voi giày[17]. Về mặt đó, pháp luật nhà Trần thua
kém pháp luật nhà Lý. Thêm nữa, “nhà Trần được nước là do cướp ngôi vua
nhà Lý, về hình pháp không lập ra kỷ cương phép tắc gì, chỉ tuỳ ý định
mà buộc tội nặng nhẹ, hình phạt thảm khốc đến là cùng”[18].
Pháp luật nhà Lê, tiêu biểu là Bộ luật Hồng Đức, pháp luật nhà
Nguyễn, tiêu biểu là Bộ luật Gia Long vốn thuộc hai triều đại, hai dòng
họ trị vì đất nước gần như tiếp liền nhau và đều là kết quả của những
công trình pháp điển hoá công phu với kỹ thuật lập pháp đạt trình độ
cao. Tuy nhiên, người ta tranh luận nhiều về tên gọi, niên đại của Bộ
luật Hồng Đức còn vấn đề này không đặt ra đối với Bộ luật Gia Long vì
tính quá rõ ràng của nó.
2.1. Niên đại của
Bộ luật nhà Lê
Một trong
những vấn đề có nhiều ý kiến khác nhau, đó là vấn đề niên đại của Quốc triều hình luật. Điều này có vẻ như thuần tuý kỹ
thuật, nhưng thực ra có tầm quan trọng hàng đầu, vì nó có quan hệ trực
tiếp với chủ đề đang được xem xét: tính pháp điển hoá sâu sắc của nó
thuộc truyền thống đặc biệt quý báu của quá trình hình thành, phát
triển, hoàn thiện pháp luật với tính cách là một bộ phận cấu thành hữu
cơ của nền văn hoá Việt Nam.
Đinh Gia
Trinh trong tác phẩm “Sơ thảo lịch sử nhà nước và pháp quyền Việt Nam”
đã dứt khoát lấy năm 1483 làm niên đại và đặt tên cho Bộ luật là Bộ luật
1483. Cũng theo Đinh Gia Trinh thì, Quốc triều hình luật
được ban hành dưới triều vua Lê Thánh Tông trong khoảng niên hiệu Hồng
Đức (1460-1497) trên cơ sở tập hợp có hệ thống các luật lệ của các vua
nhà Lê trước đó và có sửa đổi, bổ sung thêm một số điều khoản mới[19].
Tác giả
người Pháp, R. Deloustal, Chánh thông dịch viên tại Sở Tư pháp Đông
Dương, người dịch sang tiếng Pháp Quốc triều hình luật
theo Hình luật chí của Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí và hiệu đính, bổ sung theo
Lê triều hình luật mà trên bìa có đề 1777 là năm in,
đã đem năm in 1777 làm niên đại của Bộ luật Hồng Đức[20].
Theo Vũ Thị
Nga, người có công đối chiếu và phát hiện sự tương đồng về lời văn của Quốc triều hình luật với lời văn của nhiều luật, lệnh,
chỉ do chính Lê Thái Tổ ban bố, đã khẳng định: theo ghi chép của chính
sử về các sự kiện lập pháp của nhà Lê sơ, có thể nhận định rằng Quốc triều hình luật được ban hành dưới triều vua Lê Thái
Tổ[21].
Một số tác
giả khác, từ Vũ Văn Mẫu, Hầu Văn Liêm, Nguyễn Quang Quỳnh đến InsuYu,
mỗi người đều có những nhận định của mình về niên đại này.
Trong số các khẳng định, nếu dứt khoát cho rằng Quốc
triều hình luật được ban hành năm 1777 như tác giả người Pháp thì
rõ ràng không đủ thuyết phục, vì, phải đồng ý với Vũ Văn Mẫu, khi ông
viết: đến năm 1777, vào quãng thời Lê Mạt, vận nhà Lê đã suy vi, giặc
cướp nổi lên như ong, trong triều thì chúa Trịnh cướp quyền đâu phải lúc
nhà Lê san định và ban hành bộ luật mới[22]. Lấy năm 1483 để khẳng định và đặt tên
cho Quốc triều hình luật như Đinh Gia Trinh cũng có
phần khiên cưỡng, vì theo Hầu Văn Liêm cũng như một vài tác giả khác,
1483 chỉ là năm Lê Thánh Tông ra lệnh soạn thảo Bộ luật[23]; còn khẳng định Quốc
triều hình luật được ban hành dưới triều Lê Thái Tổ e còn quá sớm.
Lê Thái Tổ chỉ ở ngôi có 5 năm. 5 năm để bắt tay vào xây dựng triều
đình mới và tổ chức nhân dân xây dựng lại xã hội Đại Việt mới, khi mọi
việc vẫn còn lạ lẫm, mới mẻ thì thật khó có thể xây dựng, ban hành được
cả bộ luật lớn, bảo đảm như Quốc triều hình luật. Tất
nhiên, trong 5 năm trị vì đất nước, Lê Thái Tổ đã ban hành nhiều văn bản
pháp luật và thông tin, theo ngôn ngữ ngày nay, đó là những văn bản đơn
hành về từng lĩnh vực, từng loại sự việc.
Tất nhiên, chúng ta không được lẫn lộn: với bề dày chiến đấu,
với tư cách thủ lĩnh phong trào, sau ngày chiến thắng, Lê Lợi trở thành
Lê Thái Tổ với niên hiệu Thuận Thiên, nhân danh trời đất, Lê Thái Tổ có
thể có nhiều ý tưởng về xây dựng triều đại họ Lê, xây dựng đất nước. Lê
Lợi có thể và trên thực tế, vạch ra nhiều ý tưởng cả về mặt lập pháp là
lĩnh vực mới mẻ, còn rất ít kinh nghiệm. Có lần, Lê Thái Tổ đã chỉ ra
cho triều đình, bá quan: “từ xưa đến nay, việc cai trị trong nước tất
phải có phép, nếu không sẽ loạn. Bởi thế, nên bắt chước đời xưa mà dựng
phép, để dạy tướng tá, quan quân và thứ dân, khiến cho đều biết đâu là
điều thiện, điều ác. Điều thiện thì làm, điều ác thì tránh, không đến
nỗi phạm pháp. Vua ban tờ chiếu rằng: Đạo kinh luân, thiên hạ phải tính
ban đầu để yên lúc cuối, phải lập pháp luật để lưu về sau”[24].
Đúng là ngôn
từ của một vị vua khai sáng, mở đầu cho một triều đại. Nhưng từ ý tưởng
lớn lao, tốt đẹp đó đến một văn bản mang đậm tính pháp điển hoá cao như
Quốc triều hình luật thì không đơn giản. Và nói đến
pháp điển hoá phải thấy rằng, có thể và hoàn toàn hợp logic là dù Quốc triều hình luật ra đời vào triều vua nào, Lê Thái
Tông (1434-1442), Lê Nhân Tông (1453-1459), hoặc Lê Thánh Tông
(1460-1497), thì những quy định và có khi cả luật, lệnh, chỉ do Lê Thái
Tổ ban hành với tư cách là những văn bản đơn hành vẫn có thể được thu
hút vào Bộ luật trên cơ sở san định, bảo đảm sự thống nhất nội tại của
toàn bộ luật. Cũng vì vậy, không nên ngạc nhiên nếu Quốc
triều hình luật với tính cách là một sản phẩm pháp điển hoá mãi đến
đời Nhân Tông hoặc Thánh Tông mới được ban hành mà nội dung lại có
những quy định, những luật, lệnh ban hành từ đời Lê Thái Tổ.
Đó không chỉ là cách làm luật và làm pháp luật nói chung của
người xưa, của cha ông chúng ta, mà ngày nay cũng vậy. Đọc Hiến pháp năm
1992, Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình ta sẽ thấy không chỉ
nhiều ý tưởng mà cả lời văn, quy định của những văn bản pháp luật hết
hiệu lực thi hành đã được thu hút vào các văn bản pháp luật này. Và cũng
không nên quá ngạc nhiên nếu ta gặp nhiều chế định, khái niệm của pháp
luật dân sự La Mã vẫn còn chỗ trong Bộ luật Dân sự. Đời sống hiện thực
pháp luật là như vậy.
Trở lại với ý tưởng pháp điển hoá của Quốc triều hình luật, điều hoàn toàn có thể khẳng định và
đa số các tác giả đã phát biểu ý kiến về niên đại và về Quốc
triều hình luật cũng đều thống nhất rằng, Quốc triều
hình luật không phải là công trình của một đời vua, cũng không phải
được ra đời như sản phẩm của một hoạt động lập pháp đơn lẻ, cá biệt,
đơn hành. Nó là thành quả trí tuệ trên cơ sở phản ánh thực tế đời sống
xã hội Việt Nam tham chiếu xưa nay của cả triều Lê, mà chủ yếu là của 4
đời vua đầu triều thời Lê sơ: Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, Lê
Thánh Tông.
2.2. Bộ luật của nhà Lê mang tên
gì?
Đây cũng là vấn đề không đơn thuần chỉ
có ý nghĩa chính thức, văn bản học xét theo nghĩa thông thường. Mọi văn
bản pháp luật được ban hành đều có tên gọi nhất định và đi vào lịch sử
với tên đó. Đồng thời, do mối quan hệ đặc thù, riêng biệt của văn bản
pháp luật với người chủ trì, người đề xướng, người có thẩm quyền ban
hành mà văn bản pháp luật có thể mang tên không chính thức, nhưng lại
rất phổ thông trong dư luận, trong dân chúng và cả trong lịch sử. Hoàng triều luật lệ của nhà Nguyễn không chỉ được gọi theo
tên chính thức là Hoàng triều luật lệ mà còn được gọi
là Luật Gia Long, không chỉ vì nó được ban hành trong đời vua đầu tiên
nhà Nguyễn - Gia Long mà còn vì tên tuổi Gia Long gắn bó mật thiết với
Bộ luật, từ ý tưởng ban hành đến nội dung, tư tưởng cơ bản của Bộ luật
và cả sự chỉ đạo trực tiếp với những chỉ dụ cụ thể, rõ ràng và cũng
chính vua Gia Long là người đọc duyệt cuối cùng. Trong lời tựa đầu của
Bộ luật, chính Gia Long đã viết “Đích thân Trẫm tu chỉnh lại sau cùng…”[25].
Cuốn
Almanach “Những nền văn minh thế giới” do Nhà xuất bản văn hoá - Thông
tin xuất bản năm 1995 có mục “Những Bộ luật cổ nổi tiếng thế giới” có
giới thiệu 7 bộ luật của các nước, trong đó có Bộ luật Hammonrabi là bộ
luật của vương triều thứ nhất Babylone (thế kỷ XVIII – XVII TCN), Bộ
luật Manu của ấn Độ (giữa thiên niên kỷ thứ hai TCN), Bộ luật Napoleon
(1804) đều được gọi theo tên của người trị vì đất nước ở thời điểm các
bộ luật này được ban hành. Từ điển Bách khoa Việt Nam cũng giới thiệu về
một số bộ luật Juxtinian của đế quốc Đông La Mã do Juxtiniannus đứng
đầu…
Như vậy, việc dùng danh xưng của các
nhân vật vốn thường là những người đứng đầu các quốc gia đặt tên cho các
bộ luật lớn không phải là những hiện tượng cá biệt, ngẫu nhiên, riêng
lẻ ở một vài nước mà khá phổ biến, được thừa nhận rộng rãi, có cơ sở
khách quan và thường trong thời gian dài, gắn liền với lịch sử của giai
đoạn được ban hành và được lưu truyền lâu dài trong lịch sử quốc gia, có
khi là của khu vực, châu lục hoặc thế giới. Đó là sự thừa nhận không
phải do áp đặt mà theo cách suy tôn, tôn vinh và do có sự gắn bó của tên
tuổi cá nhân, nhân vật lịch sử với các văn bản pháp luật cũng đi vào
lịch sử như một hiện tượng in dấu ấn sâu sắc vào thời đại của mình và
của một đất nước…
Ở Việt Nam, Hoàng Việt
luật lệ - Bộ luật của nhà Nguyễn được thừa nhận rộng rãi là Bộ luật
Gia Long không xuất hiện vấn đề gì phải làm rõ hoặc bàn thảo, còn tên
gọi Hồng Đức của Quốc triều hình luật lại được đặt
thành vấn đề phải xem xét. Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 1, tại trang
266 có mục từ “Bộ Quốc triều hình luật” - tên khác Bộ
luật Hồng Đức. Từ điển này viết: “việc xác định thời điểm ban hành Bộ Quốc triều hình luật vẫn chưa được khẳng định dứt khoát.
Theo ý kiến nhiều nhà sử học thì Bộ luật đã được khởi thảo từ những năm
đầu của triều Lê, được bổ sung hoàn chỉnh trong suốt triều đại Lê, trong
đó có những đóng góp to lớn của Lê Thánh Tông…”. Nội dung của đoạn văn
trên trong Từ điển phản ánh khá trung thực thực trạng ý kiến của các
chuyên gia về ngày, tháng hay đúng hơn, về thời điểm ra đời của Bộ luật.
Điều đáng tiếc trong khi thuật lại như vậy, tác giả đã không chú ý đến
một thuật ngữ làm sai lệch cả nội dung trình bày: khởi thảo.
Để xác định niên đại của một văn bản pháp luật, kể cả luật cơ
bản là Hiến pháp, nói chung, người ta lấy ngày được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thông qua chính thức và ngày có hiệu lực pháp luật. Nếu nói
là “khởi thảo” thì việc đó chưa có quan hệ gì nhiều với niên đại của văn
bản pháp luật đó. Bởi, nói “khởi thảo” là nói đến thời điểm bắt tay vào
việc. Từ sự “khởi thảo” - bắt đầu xây dựng dự án luật cho đến ngày hoàn
thành dự thảo, khoảng thời gian thường dài, ngắn khác nhau nhưng điều
đó không quan trọng, không có ý nghĩa về mặt pháp lý đối với việc thi
hành nó. Vấn đề cơ bản của một văn bản luật, thời điểm, niên đại được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền chính thức thông qua mới đáng quan tâm,
nhất là thời điểm văn bản pháp luật có hiệu lực thi hành.
Qua nội dung, lời văn trình bày của Từ điển Bách khoa Việt Nam
ta thấy, có vẻ như việc Quốc triều hình luật được
“khởi thảo” từ những năm đầu của triều Lê và điều đó có ý nghĩa quyết
định để xác định niên đại của nó. Đây thực sự là một sự hiểu lầm đáng
tiếc, nhất là khi nó lại được đưa ra tại Từ điển bách khoa Việt Nam làm
căn cứ cho sự phân vân về niên đại của Bộ luật vốn quan trọng, tiêu biểu
như Quốc triều hình luật. Vấn đề duy nhất có ý nghĩa
quyết định để xác định niên đại của Bộ luật này phải là việc nó chính
thức được đời vua nào của triều đại Lê thông qua.
Ở đây, các tác giả của Từ điển bách khoa Việt Nam đã không phát
hiện một sự hiểu nhầm lớn vì không phân biệt hai khái niệm: văn bản đơn
hành và văn bản pháp điển hoá, nhất là bộ luật. Thật ra, nên hiểu mỗi
vị vua nhà Lê, nhất là ngay từ những ngày mở đầu triều đại như Lê Thái
Tổ hoặc các vị vua sau - Thái Tông, Nhân Tông trong trị vì, điều hành
công việc triều đình đều tất yếu phải ban hành nhiều luật, lệnh, chỉ.
Nếu vị vua nào chủ trương xây dựng một văn bản pháp luật quy mô liên
quan đến nhiều lĩnh vực, có tính tổng quát, thì đương nhiên, việc xây
dựng dự án luật có tính tổng hợp bao quát không thực hiện trên một
khoảng đất trống mà trên cơ sở san định tất cả các văn
bản được các đời vua trước ban hành, thu hút những quy định, điều luật,
có khi cả từng chương, mục vào dự án luật mới. Đây cũng chính là đặc
trưng cơ bản của hoạt động pháp điển hoá.
Có lẽ, đây
chính là điểm cơ bản để các ý kiến vẫn còn khác nhau khi đề cập đến niên
đại của Quốc triều hình luật vì có nhiều băn khoăn
rằng, không thể nói đến việc Quốc triều hình luật được
ban hành trong triều vua Lê Thánh Tông trị vì, nhất là ở thời kỳ nhà
vua lấy niên hiệu Hồng Đức (1460 – 1497) và như Vũ Văn Mẫu khẳng định:
“và phần chắc chắn là vào những năm cuối cùng của niên hiệu Hồng Đức”[26] chỉ với một lý do đơn giản: xét theo
nội dung của nhiều quy định của Quốc triều hình luật
mà Vũ Thị Nga đã có công chọn lọc[27] thì xuất xứ là từ những văn bản pháp
luật của đời vua trước - Lê Thái Tổ và trong cả đời vua sau - Thái Tông,
Nhân Tông.
Đây là một sự hiểu lầm lớn. Bộ luật dân
sự đầu tiên của nước ta - Bộ luật Dân sự năm 1995 - không phải là sản
phẩm chỉ của Quốc hội khóa IX mà nó là kết quả của cả quá trình “quy
định, tham chiếu” các văn bản pháp luật của 8 khoá Quốc hội trước đó, từ
khoá I đến khoá VIII. Nhưng không vì thế mà không định được niên đại
của Bộ luật Dân sự đầu tiên vì Bộ luật được ban hành tháng 10/1995 là Bộ
luật Dân sự năm 1995, ít ra để phân biệt với Bộ luật Dân sự được Quốc
hội khoá XI thông qua năm 2005 thay thế Bộ luật Dân sự năm 1995.
Trở lại với Bộ luật nhà Lê. Không những trên thực tế và hầu hết
các ý kiến dù có khác nhau về niên đại của Bộ luật thì cũng đều thống
nhất trong nhận định rằng Bộ luật được nhiều đời vua bằng hoạt động lập
pháp của mình mà sáng tạo nên. Nhưng đó chỉ là cách nói không chính thức
vì với tên gọi” Quốc triều hình luật” với tư cách là
một văn bản pháp luật hoàn chỉnh thì chỉ được ban hành vào một đời vua.
Đó là đời vua nào, xét một cách khách quan, có thể có căn cứ để khẳng
định danh tính của vị vua đó không?
Tên gọi
“Luật Hồng Đức” hoặc Bộ luật Hồng Đức đi vào sử sách đến nay, ít nhất đã
vài ba trăm năm và không phải mãi đến thời cận, hiện đại mới được đặt
ra. Cho đến nay, biết được tên gọi Bộ luật Hồng Đức với tư cách Bộ luật
nhà Lê, tên gọi thay thế cho Quốc triều hình luật là
nhờ ở Phan Huy Chú trong “Hình luật chí” thuộc Lịch triều
hiến chương loại chí và cả trong “Văn tịch chí” của Bộ bách khoa
này. Quyển XXXIII nói về “Đại cương việc sửa định luật lệ qua các đời
Lý, Trần, Lê” nhưng về pháp luật đời Lý, đời Trần chỉ dành 3-4 dòng để
nói, tuy cũng có ý tích cực, nhưng nhận xét chung rằng, pháp luật đời
Lý, đời Trần “đều chưa gọi là phép hay được”[28] để chuyển qua nói đến luật nhà Lê. Đến
khi nhà Lê dựng nghiệp, mới sửa định lại một nhận định đánh giá có tính
chất chung khái quát về Luật nhà Lê để rồi đi ngay vào nói đến pháp
luật đời Hồng Đức. “Hình luật đời Hồng Đức tham dụng các đời Tuỳ, Đường,
xử trí có những điều nhất định, nặng nhẹ có những mức các đời tuân theo
dùng làm phép sẵn, dù các điều mục lặt vặt có thêm bớt, nhưng đại cương
chế độ bao giờ cũng đều theo đó, thật là cái mẫu mực để trị nước, cái
khuôn phép để buộc dân. Nay thử khảo xem, hình pháp thì nặng nhẹ có 5
bậc, luật văn thì có hơn 700 điều”[29].
Dõi theo các
đánh giá, nhận định về luật pháp nhà Lê, có thể dễ dàng nhận ra rằng
Phan Huy Chú đang trực tiếp bàn đến Quốc triều hình luật,
nhưng họ Phan không theo cách gọi đó mà nói rất cụ thể: Hình luật đời
Hồng Đức, cũng tức là Luật Hồng Đức. Hơn nữa, đi vào nội dung đoạn cuối
phần mở đầu này, sẽ thấy Phan Huy Chú dành “Hình luật chí” của mình để
trực tiếp xem xét, khảo lược Luật Hồng Đức và được trình bày trong 5
quyển còn lại, từ quyển XXXIV đến quyển XXXVIII.
Phan Huy Chú sinh năm 1782, vào những năm cuối triều Lê. Khi
ông lớn lên, nhà Lê không còn. Nhưng một triều đại tồn tại 360 năm với
những công lao to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và những triều
vua dẫn dắt đất nước đến những năm thịnh trị, nhất là gần 40 năm trị vì
của đời vua Lê Thánh Tông, chắc chắn thời đại đó đã để lại trong nhận
thức, tâm lý xã hội với những dấu ấn sâu đậm, nhất là về mặt tinh thần,
trong đó có đời sống pháp luật và một người có hiểu biết uyên bác sâu
rộng về mọi mặt đời sống xã hội để viết nên Bộ bách khoa toàn thư đầu
tiên của Việt Nam[30]. Lịch triều hiến chương
loại chí, trong đó có Hình luật chí có những nhận định và cả những
thông tin về Bộ luật nhà Lê mà Phan Huy Chú gọi Hình luật
đời Hồng Đức là đáng tin cậy.
Cùng thời
với Phan Huy Chú, ông vua đầu tiên của triều Nguyễn - Gia Long nhận thức
ra vai trò, ý nghĩa của pháp luật theo cách hiểu riêng, đã lệnh cho
đình thần biên soạn một bộ luật với sự chỉ đạo: giở xem hình luật của
các triều đại trước của nước Việt ta, mỗi triều đại thành lập từ Lý,
Trần, Lê đều có pháp chế riêng cho mỗi triều đại, mà đầy đủ hơn cả Bộ
luật Hồng Đức (đời Lê). Đồng thời, trong chỉ lệnh của mình, Gia Long còn
đề cập đến các triều đại phương Bắc, pháp luật của các triều đại đó, và
có nói rõ: mỗi triều đại các sách về luật đều có sửa đổi mà đầy đủ nhất
là luật triều đại Thanh. Thế nên, ta ra lịnh cho triều thần lấy luật
của các triều đại nước ta làm căn bản, tham chiếu Luật Hồng Đức và Luật
Thanh triều, rút lấy, thêm bớt, cân nhắc, biên tập thành Bộ luật tiện
dụng[31].
Gia Long,
khi nhận xét về pháp chế nói chung của các triều đại trước đều chỉ cụ
thể, đích danh rằng Lý, Trần, Lê đều có pháp chế riêng của triều đại
mình, nhưng khi đặt ra việc tham chiếu thì không còn nói chung chung về
các triều nữa mà chỉ đích danh Bộ luật Hồng Đức và xem đó là bộ luật đầy
đủ nhất. Như vậy, Hồng Đức đã trở thành danh xưng một cách tự nhiên của
Bộ luật và Gia Long nói đến Bộ luật Hồng Đức cũng rất tự nhiên, có vẻ
đương nhiên. Luật Hồng Đức đã đi vào tiềm thức chung của nhà vua như văn
bản chính thức của một triều đại - triều đại nhà Lê. Tất cả điều đó nói
lên tính cách đặc biệt của Quốc triều hình luật nhà
Lê - gắn bó sâu sắc với niên hiệu của ông vua đã ban hành nó.
Cũng phải nói thêm, cũng có ý kiến băn khoăn: rất có thể Quốc triều hình luật đã ra đời ngay từ đời vua Lê Thái Tổ
và vì vậy, lấy niên hiệu của vị vua hậu duệ, đời thứ tư gắn cho Bộ luật
có được và có nên không? Nếu thực sự Quốc triều hình luật
ra đời trong thời kỳ vua đầu triều nhà Lê trị vì thì, có thể hình dung
dù đời vua Lê Thánh Tông thịnh trị và được yêu mến đến đâu cũng không
thể nào làm điều “phạm thượng” kỳ quặc đó. Có thể khẳng định, Quốc triều hình luật ra đời muộn hơn và khả thi nhất là
trong đời vua Lê Thánh Tông niên hiệu Hồng Đức với công đóng góp to lớn
của Thánh Tông.
Sự ghi nhận của Nguyễn Văn Thành, tổng
tài nhân biên soạn Hoàng Việt luật lệ cũng chứng tỏ
việc gọi Quốc triều hình luật - Bộ luật tiêu biểu của
nhà Lê bằng tên gọi Luật Hồng Đức là rất thông dụng và có sự kính trọng,
suy tôn: “Nước ta, trong các triều đại trị vì từ trước tới nay thì
triều đại nào cũng có đầy đủ pháp luật. Các bộ luật ấy vẫn tham chiếu
theo Bộ Luật Hồng Đức vì những điều luật trong Bộ luật ấy gọn rõ, văn
lại giản lược, phân minh, dễ hiểu[32].
Nói gọn lại, Quốc triều hình luật không ngẫu
nhiên được các thế hệ trong suốt iều dài lịch sử dân tộc gọi bằng tên Bộ
luật Hồng Đức. Đó là một thực tế lịch sử, có thể nói, đã vượt thời
gian, không gian. Nhiều thế hệ sau, tại chốn đô hội, cao trọng cũng như
chốn quê dân dã, khi nghe nói đến luật triều Lê, người ta nghĩ ngay,
liên tưởng đến Luật Hồng Đức một cách tự nhiên, với sự tự hào.
Nên chăng, đã đến lúc cần khẳng định Quốc
triều hình luật - Bộ luật nhà Lê, thành quả hoạt động lập pháp của
cả triều đại nhà Lê, nhất là của 4 vua thời Lê sơ chỉ có thể ra đời
thời Lê Thánh Tông niên hiệu Hồng Đức và tên luật - Luật Hồng Đức - ra
đời ít nhất 3, 4 thế kỷ nay là một hiện thực lịch sử khách quan. /.
-------------------
Chú thích
[1] Lịch sử Việt Nam,
tập I, Nxb. Khoa học xã hội, năm 1971, tr. 151, 152.
0 comments:
Post a Comment