Nghiên cứu về NNPQ nói chung không chỉ dừng lại ở khái niệm của nó mà
cần thiết phải nghiên cứu lịch sử tư tưởng, lịch sử hình thành và phát
triển. Vì nghiên cứu khoa học đòi hỏi phải có quan điểm toàn diện, quan
điểm lịch sử cụ thể.
Từ thời cổ đại, mầm mống về tư tưởng NNPQ đã xuất hiện cả ở phương Đông
và ở phương Tây. Ở phương Đông, đó được xem là tư tưởng pháp trị của các
nhà pháp gia như: Quản Trọng, Thương Ưởng, Hàn Phi...Quản Trọng chủ
trương đề cao "Luật, lệnh, hình, chính", vua phải giữ pháp, "không vì
vua muốn mà thay đổi lệnh, lệnh đáng tôn hơn vua". Hàn Phi coi pháp là
chuẩn mực cao nhất của việc cai trị đất nước, khi thi hành pháp luật thì
không kể đến tình cảm riêng, không câu nệ chuyện thân sơ, sang hèn, tất
cả đều bình đẳng trước pháp luật .
Theo ông, "pháp luật không hùa theo người sang. Sợi dây dọi không uốn
mình theo cây gỗ cong. Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn cũng không
thể từ, kẻ dũng cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ
đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót kẻ thất phu".[1]
Ở phương Tây, mầm mống tư tưởng pháp quyền lúc bấy giờ là chống lại
"thuyết đặc miễn trách nhiệm của nhà vua", tư tưởng về NNPQ ra đời chống
lại sự chuyên quyền, độc đóan, gắn liền với việc xác lập và phát triển
nền dân chủ; bạo lực, lộng quyền và hỗn lọan là cái tương phản với công
bằng, pháp luật, cần phải xóa bỏ.
Các nhà tư tửơng pháp quyền thời kì này tiêu biểu là
Solon(638-559TCN),Heraclite (530-470 TCN), Socrate (469-399TCN), Platon
(427-347 TCN), Aristote (384-322 TCN), Ceceron (106-43 TCN),...Solon chủ
trương:"giải phóng tất cả mọi người bằng quyền lực của pháp luật, bằng
sự kết hợp giữa sức mạnh và pháp luật", Platon cho rằng Nhà nước phải
đặt mình dưới pháp luật là điều kiện tồn tại của pháp luật, Aristote
khẳng định pháp luật phải thống trị trên tất cả, ông đề ra "thuyết ba
chức năng", phân biệt ba loại quyền lực Nhà nước: nghị viện, chấp hành
và xét xử...Ceceron thể hiện tư tưởng của pháp luật bằng cách đặt câu
hỏi:"pháp luật là gì nếu không phải là trật tự chung?".
Theo ông, pháp luật là cội nguồn tạo ra chế độ Nhà nước và cho rằng:"
Nhà nước là NNPQ không phải do Nhà nước tuân thủ pháp luật của mình mà
là vì về cội nguồn, về bản chất, Nhà nước chính là pháp luật, pháp luật
tự nhiên của nhân dân".[2]
Thời trung cổ, đa số các nhà nghiên cứu cho rằng thời kì này không có
mầm mống tư tưởng về NNPQ vì sự ngự trị của bóng đêm thần học. Tuy
nhiên,cũng có người cho rằng vẫn có những mầm mống về NNPQ trong chính
các nhà tư tưởng thần học.Tác giả công trình này đồng ý với quan điểm
này.Vì tư tưởng về NNPQ là tư tưởng tiến bộ hướng đến bình đẳng, công
bằng, dân chủ...
Đó là nguyện vọng, khát khao của con người, dù trong hoàn cảnh nào,
trong xã hội nào, các thế lực thống trị có làm gì đi chăng nữa thì những
tư tưởng đó vẫn tồn tại dưới hình thức này, hình thức khác.Các nhà thần
học thời kì này tiếp thu tư tưởng từ các triết gia cổ đại. Vì vậy, tiếp
cận đến tư tưởng về NNPQ là hoàn toàn có thể xảy ra."Cũng như Saint
Thomas đã cơ đốc giáo hóa triết học Aristote thì Saint Augustin đã cơ
đốc giáo hóa triết học Platon mà ông đã tu dưỡng qua Ceceron".
Cũng chính vì điều này, tư tưởng pháp quyền trung cổ gắn liền với Saint
Augustin (357-430) và Saint Thomas D'Aquin (1225-1247). Saint Augustin
cho rằng quyền lực Nhà nước phải được thực hiện như một thứ quyền lực
phục vụ. Đó là công cụ để thực hiện tình yêu và sự công bằng...Saint
Thomas D'Aquin cho rằng trật tự pháp lí đem đến cho con người cái thuộc
về họ và làm cho họ có thể đạt đến sự dồi dào về vật chất, tinh thần; xã
hội công dân sẽ thay thế xã hội thần dân. Ông chia ra bốn loại pháp
luật: luật vĩnh cửu, luật tự nhiên, nhân luật và thần luật...
Thời kì cận đại, tư tưởng về NNPQ thực sự có bước phát triển mới. Nó đã
trở thành một học thuyết và đã trở thành hiện thực, được vận dụng ở một
số quốc gia phương Tây, mà ta gọi là NNPQ TBCN hay NNPQ Tư sản để phân
biệt với NNPQ XHCN sau này. Sự phát triển lí luận học thuyết NNPQ Tư sản
chịu ảnh hưởng của hai luồng tư tưởng: Một là, sự khẳng định ngày càng
cao những quan điểm mới về tự do của con người, thông qua việc tôn trọng
tính tối cao của pháp luật - pháp luật tự nhiên. Hai là, xác lập mói
tương quan giữa quyền lực chính trị mới giữa giai cấp tư sản đang lên và
chế độ phong kiến đã lỗi thời. Hơn nữa, cần loại trừ tình trạng (khả
năng ) độc quyền, bán quyềnlực trong cơ quan hay cá nhan cụ thể. Học
thuyết NNPQ vì lẽ đó gắn liền với chủ nghĩa lập hiến tư sản.[3]
Thời kì này, học thuyết NNPQ được bổ sung, hoàn thiện, phát triển qua
các giai đoan lịch sử khác nhau. Đó là lí thuyết về pháp quyền tự nhiên
của các nhà triết học Hà Lan thế kỷ XVI-XVII với các đại diện: B.
Spinoza (1632-1677), H. Grotius (1583-1645);lí thuyết về tự do của các
nhà duy vật Anh thế kỷ XVII với các đại diện như : J. Locke
(1632-1704)-"người thể hiện rõ rệt nhất các quan điểm pháp quyền của xã
hội TBCN" (Nguyễn Văn Niên), T. Hobbs (1588-1679), J.S.Mill (1806-1873);
lí thuyết về phân quyền, chủ quyền nhân dân và khế ước xã hộ của các
nhà khai sáng Pháp thé kỷ XVIII với các đại diện: Montesquieu - người
đưa ra học thuyết phân quyền được các nước Tư sản sau này áp dụng dưới
các hình thức khác nhau, Rousseau (1712-1788) - người đưa ra lí thuyết
về chủ quyền nhân dân và "khế ước xã hội"; lí thuyết về pháp quyền của
các nhà triết học cổ diển Đức với các dại diện như : I. Kant
(1724-1804), Hegel (1770-1831)...Bước sang thế kỷ XIX-XX, lí thuyết về
NNPQ tiếp tục được các nhà triết học Đức quan tâm như: Mohn và Valker,
Stein...[4]
"Mặc dù với những góc nhìn và quan niệm hết sức đa dạng nhưng các học
thuyết này đều mang những nội dung cơ bản và chung nhất sau: Sự hiện
diện của chủ nghĩa lập hiến và coi đó là bằng chứng hữu hình về sự đồng
thuận của người dân; Nhà nước phải tự đặt dưới pháp luật không hành động
độc đóan; Nhà nước phải tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do của con
người và quyền công dân; quyền lực Nhà nước được chia thành ba quyền:
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp giao cho ba cơ quan Nhà nước tương
ứng theo nguyên tắc quyền lực giám sát kiềm chế quyền lực"[5]
Học thuyết NNPQ không chỉ có những tư tưởng của các triết gia tư sản mà
còn có cả sự đóng góp của những nhà kinh điển CNXH. Marx, Engels và
Lenin dù không chính thức nói đến NNPQ như là một trong những nội dung
chính yếu trong học thuyết của mình nhưng các ông luôn quan tâm đến Nhà
nước và cách mạng, Nhà nước và pháp luật. Trong các bài viết,bài nói ít
nhiều họ đã thể hiện tư tưởng về pháp quyền. Đó là những tư tưởng đầu
tiên về NNPQ XHCN.
Quan điểm của Marx và Engels được thể hiện trong các tác phẩm như: "Sự
khốn cùng của triết học", "Phê phán triết học pháp quyền Hegel"..Marx
chỉ ra cơ sở xã hội như nền tảng vật chất của pháp luật:"(...) xã hội
không lấy pháp luật làm cơ sở. Đó chỉ là những ảo của những nhà Luật
học. Ngược lại, pháp luật phải lấy xã hội làm cơ sở, pháp luật phải là
sự biểu hiện của lợi ích và nhu cầu chung của xã hội do một phương thức
sản xuất vật chất nhất định sản sinh ra, mà không phải do ý muốn tùy
tiện của một cá nhân". Marx cho rằng "chế độ dân chủ không phải con
người tồn tại vì luật pháp mà luật pháp tồn tại vì con nguời"...”
Thực tế, với việc trình bày luật pháp, quyền lực của luật pháp trong
tương quan với sở hữu, sự phát triển, sự phát triển công, thương nghiệp
với mỗi giai cấp, quan điểm của các ông là về tính giai cấp của pháp
luật , pháp quyền nói riêng và Nhà nước noí chung"[6]. Marx và Engels
đặt vấn đề xây dựng một xã hội mới, trong đó "tự do của mỗi người là
điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người", là "sự phát triển tòan
diện của con người". Có thể nói,"vì con người" và "giải phóng con
người" là mục tiêu của một NNPQ kiểu mới.
Về mặt Nhà nước, Marx và Engels chủ trương xác lập một chế độ dân chủ
triệt để, "do nhân dân tự quy định". Trong xã hội mới sẽ tạo ra nhiều
điều kiện để giải phóng cá nhân, rằng "xã hội sẽ không giải phóng cho
mình được nếu không giải phóng mỗi một cá nhân riêng biệt" (Engels) và
xã hội đó phải được xây dựng trên cơ sờ pháp luật, Engels viết: "đối với
chúng ta...điều bất di bất dịch là quan hệ giữa người cầm quyền và
người bị lãnh đạo phải được thiết lập trên cở sở pháp luật"[7]
Lenin tiếp thu và phát triển tư tưởng của Marx và Engels và đã đưa học
thuyết của các ông đến mức độ hoàn bị hơn. Về NNPQ, trong tư tưởng về
Nhà nước và cách mạng, về xây dựng xã hội mới của Lenin cũng có chứa yếu
tố pháp quyền.Lenin hướng đến một xã hội dân chủ rộng rãi, giải phóng
con người và phát triển tòan diện con người. Lenin nói: "Nếu không rơi
vào không tưởng thì không thể nghĩ rằng sau khi lật đổ chủ nghĩa Tư bản,
người ta tức khắc có thể làm việc cho CNXH mà không cần phải có một
tiêu chuẩn pháp quyền nào cả".
Trong việc xây dựng Nhà nước Xôviết, Lenin đã nhiều lần đòi hỏi bộ máy
chính quyền phải thật sự là của nhân dân lao động, phải thật sự bảo đảm
dân chủ, phải dùng pháp luật (pháp luật Xô viết) để đấu tranh chống sự
lề mề, quan liêu, hối lộ (tức là phải sử dụng pháp luật, đưa pháp luật
lên trên hết) [8]...Như vậy, các nhà kinh điển của CNXH dù không xem
NNPQ là bộ phận trong học thuyết của mình nhưng đâu đó trong toàn bộ học
thuyết vĩ đại ấy vẫn có những yếu tố pháp quyền trong tư tưởng của các
ông, góp phần làm phong phú các tư tưởng về NNPQ và đặt ra những ý tưởng
mầm mống về xây dựng NNPQ XHCN.
Như vậy, NNPQ là một Nhà nước thượng tôn pháp luật và phải bảo đảm dân
chủ. Lịch sử NNPQ đã có từ xa xưa và ngày càng hoàn thiện qua các giai
đọan lịch sử khác nhau và trở thành học thuyết vào thế kỷ XVII- XVIII,
gắn liền với Nhà nước Tư sản, nền dân chủ Tư sản.Bên cạnh đó, các nhà
kinh điển của CNXH cũng đã có sự đóng góp nhất định vào học thuyết NNPQ
nói chung, và định hướng cho việc xây dựng Nhà nước kiểu mới ở các nước
XHCN - NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân sau này. Nghiên cứu lịch sử tư
tưởng về NNPQ chúng ta có thể rút ra những dấu hiệu cơ bản chung nhất
của một NNPQ nói chung gồm các yếu tố sau đây:
- Sự thống trị của pháp luật trong đời sống xã hội
- Sự ràng buộc của Nhà nước và cơ quan Nhà nước bởi pháp luật
- NNPQ định rõ trách nhiệm hai chiều giữa Nhà nước và công dân trên cở sở pháp luật
- NNPQ có những hình thức kiểm tra, giám sát có hiệu quả việc tuân theo pháp luật.
[1] Dẫn theo Dõan Chính-Nguyễn Văn Trịnh,2007, Pháp gia với sự nghiệp
xây dựng NNPQ Việt Nam, NXB Chính trị Q ốc gia, trang 47,49,71,73.
[2] Dẫn theo Nguyễn Văn Thảo, 2006, Xây dựng NNPQ dư ới sự lãnh đạo của Đảng, NXB Tư pháp, trang 10,11.
[3] Nguyễn Văn Thảo, 2006, Xây dựng NNPQ dư ới sự lãnh đạo của Đảng, NXB Tư pháp, trang 12
[4] Xem thêm Đào Trí Úc,2007, Mô hình tổ chức và họat động của NNPQ XHCN Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội
[5] Đào Trí Úc, 2007, Mô hình tổ chức và họat động của NNPQ XHCN Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội,
trang 142
[6] Lê Tuấn Huy, 2006, Triết học chính trị Montesquieu với việc xây dựng NNPQ Việt Nam, NXB Tổng Hợp TpHCM, trang 161, 162.
[7] Dẫn theo Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nhà nước và
pháp luật, Lí luận chung về Nhà nước và pháp luật, tập I, NXB Lí luận
chính trị,trang 118,119.
[8] Dẫn theo Lê Tuấn Huy, 2006, Triết học chính trị Montesquieu với việc xây dựng NNPQ Việt Nam, NXB Tổng Hợp TpHCM, trang 164.
0 comments:
Post a Comment