Xét theo nguồn gốc, những tư tưởng về pháp luật tự nhiên ra đời tương đối sớm, ngay trong xã hội Hy Lạp, Lamã cổ đại.
Aristote ( 384 - 322 TCN ) là đại diện đầu tiên của trường phái này.
Ông cho rằng pháp luật phải là " sự suy diễn từ sự hài hoà của trật tự
tự nhiên "(1). Protagorat, nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại khẳng định: pháp
luật ra đời không phải do Thượng Đế mà do con người thống nhất thoả
thuận với nhau, nhằm đảm bảo an toàn và làm thoả mãn những nhu cầu của
mỗi cá nhân trong xã hội. Cicéron ( 106 - 43 TCN ), trong tác phẩm De
republica ( Về nền cộng hoà ), quan niệm rằng " cao hơn pháp luật do con
người sáng tạo ra là luật bất biến và vĩnh cửu của tự nhiên. Chính
những luật này đã chi phối luật pháp của con người "(2) , trên quan điểm
đó, ông biện minh cho pháp luật thực định của nhà nước chiếm hữu nô lệ
Lamã, và kêu gọi mọi người tôn trọng, tuân thủ theo pháp luật do nhà
nước ban hành.
Thời Trung cổ, các nhà nước phong kiến châu Âu
đều là những nhà nước tập quyền chuyên chế, nhà vua vừa là người ban
hành các đạo luật, vừa nắm trong tay quyền hành pháp, lại vừa là pháp
quan tối cao. Hoàng đế Louis XIV của nước Pháp đã từng tuyên bố: " Nhà
nước là ta và pháp luật là ý chí của ta ". Sự lạm dụng quyền lực của các
nhà vua đã đẩy xã hội vào tình trạng mất ổn định, gây khó khăn cho sản
xuất, và xâm hại tới cuộc sống của nhân dân. Trong hoàn cảnh ấy, những
tư tưởng về pháp quyền tự nhiên lại sống lại như một ước nguyện muốn
bênh vực, bảo vệ cho những quyền cơ bản nhất của con người trong xã hội,
ràng buộc quyền lập pháp của nhà vua.
Thomas Dacin (1225 - 1274) -
nhà thần học Thiên chúa giáo, tu sĩ dòng Dominic, được giáo hội Vatican
phong thánh năm 1323, tuy chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa duy tâm kinh
viện, nhưng lại khá tiến bộ khi đề cập tới các " luật tự nhiên ". Ông
phân biệt luật pháp thành 4 loại: luật vĩnh cửu của Chúa trời; luật tự
nhiên phản chiếu luật vĩnh cửu; nhân luật là pháp luật phong kiến hiện
hành phản chiếu luật tự nhiên; và cuối cùng: thần luật là luật của Kinh
Thánh. Trong đó, ông nhấn mạnh: nhân luật không được trái với luật tự
nhiên, vì bất luận trong hoàn cảnh nào con người cũng cần được sống; nhà
cầm quyền không được ban hành những đạo luật cấm thần dân sống, hôn
nhân và sinh đẻ như dưới thời nô lệ.
Tuy Thomas Dacin đã nhắc
tới luật tự nhiên từ thế kỷ 13, nhưng phải đến thời kỳ thế kỷ 17, 18 thì
các nhà triết học Hà Lan là H. Grotius và B.B. Spinoza mới hoàn thiện
nó thành một hệ thống lý luận hoàn chỉnh mang tên: " Học thuyết pháp
quyền tự nhiên ".
Theo học thuyết này, pháp luật tự nhiên là hệ
thống pháp luật tồn tại một cách vĩnh cửu trong tự nhiên, không phụ
thuộc vào nhà nước và xã hội mà chỉ dựa vào lý trí và bản tính tự nhiên
của con người. Pháp luật tự nhiên tồn tại nhằm điều chỉnh các mối quan
hệ giữa người và người trong trạng thái tự nhiên - khi chưa có nhà nước
và pháp luật thực định.
" Pháp luật tự nhiên thể hiện những
quy tắc, tiêu chuẩn về công bằng, bác ái, lẽ phải, lương tri, tôn trọng
tới nhân cách, phẩm giá và các quyền con người"(3).
Hugo
Grotius ( 1583 - 1645 ) - nhà luật học nổi tiếng người Hà Lan có vai trò
to lớn trong việc giải thoát lý luận nhà nước và pháp luật khỏi sự bảo
hộ của thần học và chủ nghĩa kinh viện trung đại, trong tác phẩm xuất
sắc nhất của mình, được viết khi ông đang phải sống lưu vong ở Pháp - "
Bàn về pháp luật của chiến tranh và hoà bình " (1625 ), đã đưa ra các
luận điểm nổi tiếng của pháp luật tự nhiên. Theo Grotius, pháp luật cũng
như nhà nước, bắt nguồn từ trần gian chứ không phải bắt nguồn từ Thượng
Đế; pháp luật tự nhiên và pháp luật thực định cùng tồn tại song song.
Pháp luật tự nhiên - thứ pháp luật ra đời trước, có nguồn gốc từ bản
chất của con người, là kết tinh trí tuệ của con người. Theo ông, sự giữ
mình trước tài sản của người khác, trách nhiệm thực hiện lời hứa, sự bồi
thường thiệt hại do mình gây ra, sự trừng trị thích đáng kẻ phạm tội
... là những chỉ định của pháp luật tự nhiên. Thứ pháp luật thực định
được xác lập theo ý chí con người do nhà nước ban hành phải hoàn toàn
phù hợp với những nguyên tắc của pháp luật tự nhiên. Grotius chỉ ra rằng
pháp luật phong kiến hiện hành là thứ pháp luật trái với bản chất và lý
trí của con người, nên ông nêu cao đòi hỏi phải có một thứ pháp luật
mới phù hợp với các luật của tự nhiên.
Benedic Barud Spinoza (
1632 - 1677 ) - nhà triết học người Hà Lan, tuy không đi sâu nghiên cứu
về pháp luật mà chỉ chú trọng tới vấn đề nhà nước, nhưng những quan điểm
về nhà nước của ông lại biểu hiện tính chất pháp quyền tự nhiên một
cách sâu sắc. Theo ông, một nhà nước hoàn hảo là một nhà nước dân chủ mà
pháp luật bảo đảm cho quyền lợi và sự tự do thực sự của con người: con
người không những được quyền sống, quyền tồn tại mà còn được hưởng những
quyền tất yếu nhằm thoả mãn lợi ích của họ; hơn thế, pháp luật còn phải
đảm bảo ngăn ngừa những nhà lãnh đạo không thể xâm phạm đến sở hữu, an
toàn và tự do của những người dân. Từ những quan điểm đó ta cũng có thể
khẳng định Spinoza là một trong những học giả theo học thuyết pháp quyền
tự nhiên, bởi đã chỉ ra những quyền cơ bản và tự nhiên của con người,
cũng như mối liên hệ phụ thuộc của pháp luật thực định với các quyền ấy.
Lý thuyết pháp quyền tự nhiên tuy còn bộc lộ các điểm tiêu cực như mang
bản chất giai cấp khi luôn đề cao quyền sở hữu tư nhân, nhưng cũng
không thể phủ nhận ý nghĩa to lớn của nó trong việc " góp phần xé bỏ ánh
hào quang thánh thần bao trùm chế độ xã hội phong kiến chuyên chế đang
kìm kẹp xã hội trong gông cùm tín ngưỡng phi nhân tính "(4), chỉ ra
nguồn gốc của nhà nước và pháp luật hoàn toàn không phải từ Thượng Đế
hay Chúa trời. Với vai trò của nó trong lịch sử nhận thức của nhân loại,
Mác đã nhận xét: học thuyết pháp quyền tự nhiên " đã bắt đầu xem xét
nhà nước bằng đôi mắt người và rút ra những quy luật tự nhiên của nhà
nước từ lý trí và kinh nghiệm, chứ không phải từ khoa thần học "(5).
Ngoài những ý nghĩa tích cực trong mặt nhận thức luận, việc luôn đề cao
lý trí và bản tính con người trong học thuyết pháp quyền tự nhiên đã
khiến pháp luật tự nhiên - một thứ pháp luật chỉ tồn tại trong tư tưởng
và suy nghĩ của các nhà học giả - trở thành thước đo cho tính nhân bản
của pháp luật, hay nói cách khác là: " quyền con người toát lên từ hệ
thống pháp luật thực định "(6).
________________________________
(1)(2)(3)(4)(6) Từ điển Luật học, Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp,
Nxb Tư pháp - Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội, năm 2006, tr.608, từ mục "
pháp luật tự nhiên "
(5) TS Trần Hậu Thành: Cơ sở lý luận và thực
tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, năm 2005
0 comments:
Post a Comment