Các nhà nghiên cứu lịch sử pháp luật châu Âu lục địa nói chung và lịch
sử Luật La Mã nói riêng luôn coi Tập hợp các chế định luật dân sự -
Corpus Juris Civilis là nguồn vô cùng quý giá để từ đó có thể hiểu được
lịch sử và nội dung của Luật La Mã. Trong thời kỳ phục hưng của Luật La
Mã bắt đầu từ thế kỷ XI, các khoa luật trong các trường đại học tổng hợp
ở châu Âu đã giảng dạy Luật La Mã qua Corpus Juris Civilis . Tập hợp
các chế định luật dân sự Corpus Juris Civilis được xếp là một trong 100
công trình có ảnh hưởng khắp thế giới .
Corpus Juris Civilis bao
gồm 4 bộ phận cấu thành: Codex Constitutionum - Bộ luật Justinian,
Institutiones - Sách giáo khoa Luật La Mã và Digesta - Tổng luận luật
học Justinian, Novellae - Tập hợp luật mới còn có têh gọi là Đại toàn
quốc pháp Justinian. Justinian là tên của Hoàng đế Đông La Mã - Western
Roman Empire hay còn được gọi là Đế quốc Bizantine.
1. Hoàng đế Justinian và những lý do khiến việc pháp điển hoá Luật La Mã thành công
Justinian
sinh năm 483 ở llyria và được học ở Constantinople (nay là Istanbul,
Thổ Nhĩ Kỳ). Năm 518, người chú đồng thời là bố nuôi của Justinian ngôi
Hoàng đế Đế quốc Bizantine, Justinian đã giúp đỡ giải quyết việc triều
chính. Năm 527 chú ông qua đời, Justinian được bầu kế ngôi Hoàng đế,
được sử sách gọi là Justinian Đại đế .
Dưới thời Justinian (527-565),
Đế quốc Bizantine phát triển rực rỡ nhưng Justinian không thực hiện
được khát vọng của ông là chinh phục lại các vùng phía Tây và tái thống
nhất vùng Địa Trung Hải. Các công trình vĩ đại nhất của Justinian không
phải trong lĩnh vực quân sự và chính trị mà trong lĩnh vực văn hoá: đó
là Nhà thờ lớn Hagia Sophia và việc pháp điển hoá Luật La Mã thành
Corpus Juris Civilis .
Những lý do khiến việc pháp điển hoá Luật La
Mã thành Corpus Juris Civilis thành công là: sự háo danh của Justinian
muốn có vinh quang của nhà làm luật vĩ đại và việc lựa chọn một cách
thành công những người tham gia pháp điển hoá.
Nhiệm vụ đặt ra cho
các luật gia La Mã khi biên soạn Corpus Juris Civilis là từ hai dòng văn
bản pháp luật của quá khứ (lịch sử của ba thế kỷ phát triển Luật La Mã)
- các luật của các hoàng đế (leges) và trước tác của các luật gia
cổ điển (jus) xây dựng tập pháp điển phù hợp với những điều kiện chính
trị và kinh tế mới. Để biến những nguồn luật cũ thành nguồn sống động
của luật mới, cần phải đưa ra một cấu trúc chặt chẽ cho tập hợp hỗn độn
các văn bản, luật, hướng dẫn...
Corpus Juris Civilis khác với những
lần pháp điển hoá trước đó ở quy mô chưa từng thấy và tính sáng tạo cao.
Trong Corpus Juris Civilis không chỉ có sự tập hợp đầy đủ nhất các
nguồn văn bản luật mà chứa đựng cả sự chỉnh sửa kỹ càng các văn bản được
lựa chọn.
2. Codex Justinian - Bộ luật Justinian
13
tháng 2 năm 528 Justinian I thành lập Hội đồng biên soạn bộ luật mới
gồm 10 người với sự tham gia của Magister Officiorum, Quaestor Sacri
Palatii Tribonian. Justinian trao cho Hội đồng thẩm quyền rộng bao gồm
cả việc rút gọn và thay đổi văn bản pháp luật . Ở những chỗ cần thiết
do quy định đã lỗi thời về hình thức và nội dung có thể thay thế bằng
quy định khác. Ở mỗi đề mục văn bản được sắp xếp theo trình tự thời
gian, ở đầu có ghi tên hoàng đế đã ban hành văn bản và ở cuối có ghi
ngày ban hành.
Các lần pháp điển hoá pháp luật La Mã trước đó (Codex
Gregorianus và Codex Hermogenianus năm 295, Codex Theodosinus năm
438) đã làm giảm nhẹ công việc của Hội đồng nên chỉ sau hơn một năm,
ngày 7 tháng 4 năm 529 Bộ luật Justinian chứa đựng các luật của hoàng đế
La Mã từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 6 đã được công bố. Từ ngày này các tập hợp
luật cũ bị cấm sử dụng.
Sau này, với mục đích đưa vào Bộ luật những
văn bản được ban hành trong thời gian pháp điển hoá và để thống nhất
leges với jus được tập hợp trong Digesta, Codex Justinian được Hội đồng
gồm 5 thành viên vẫn với sự tham gia của Tribonian biên soạn lại và được
công bố ngày 16 tháng 11 năm 534 dưới tên gọi Codex repetitae
praelectionis. Đến ngày nay chỉ lưu truyền lại chính bản Codex
Justinian sửa đổi này gồm 12 quyển .
3. Digesta - Tổng luận luật học
Ngày
15 tháng 12 năm 530, Justinian I thành lập Hội đồng gồm 17 người do
Tribonian đứng đầu để biên soạn Digesta (hay còn có tên là Pandectae
Justiniani) - Tập trích tuyển các trước tác của các luật gia La Mã. Dưới
góc độ lý luận - nhận thức, Digesta được đánh giá là có vai trò quan
trọng nhất trong các tác phẩm của Corpus Juris Civilis .
Ý tưởng xây
dựng tuyển tập trước tác của các luật gia La Mã đã có từ thời Hoàng đế
Theodosian II với mục đích để giảm bớt những khó khăn khi sử dụng trước
tác của các luật gia La Mã (vì rất khó có thể nắm được hết các tác phẩm
của các tác gia cổ điển và khó có thể tìm thấy đoạn trích của các tác
giả không nổi tiếng, vì nhiều chế định và điều luật đã lỗi thời và trong
trước tác của các luật gia có nhiều vấn đề chưa được giải quyết)
Đến
cuối thế kỷ 3, quá trình xây dựng hệ thống Luật La Mã về cơ bản đã hoàn
tất, các chế định và quy phạm nhằm củng cố và bảo vệ chế độ sở hữu của
chủ nô đã hình thành. Trong điều kiện này nhu cầu sáng tạo pháp luật như
thời các luật gia La Mã cổ điển không còn nữa, đồng thời cùng với việc
tập trung quyền lực vào chính quyền trung ương, quyền lập pháp trở thành
độc quyền của Hoàng đế. Do đó, chức năng trả lời (respondere) của các
luật gia La Mã dần bị hạn chế. Trước đây, suy luận của các luật gia –
jus respondendi có hiệu lực bắt buộc và khi không có bất đồng ý kiến
giữa các luật gia được sử dụng như các quy phạm pháp luật khác. Năm 426,
Hoàng đế Valentinian ban hành Luật trích dẫn, quy định chỉ có suy luận
của năm luật gia Papinian, Pavla, Ulpian, Modestin và Gaius là có hiệu
lực bắt buộc; trong đó khi có bất đồng ý kiến phải theo quan điểm của số
đông luật gia và nếu quan điểm các luật gia ngang bằng nhau sẽ theo
quan điểm của Papinian (excellentis ingenui vir).
Hội đồng biên soạn
đã không bị ràng buộc bởi Luật trích dẫn (chỉ công nhận một số juris
auctoeres) và được quyền thay đổi, loại bỏ những gì đã không còn được áp
dụng và những điểm mâu thuẫn, thậm chỉ có thể viết lại lời văn. Để đẩy
nhanh tiến độ làm việc, Hội đồng chia ra thành các nhóm làm việc: theo
luật dân sự, theo luật của các pháp quan (jus praetorium).
Sau hơn
ba năm làm việc cật lực, công việc biên soạn Digesta được hoàn thành vào
16 tháng 12 năm 533. Digesta gồm 50 quyển, trích dẫn 2000 trước tác của
39 luật gia, mỗi quyển lại chia ra thành các mục (ví dụ về vật – de
rebus, về mua bán – de actinibus empti vebditi, về di chúc – de
testamentis...)
Sau khi Digesta được công bố, việc sử dụng các nguồn
văn bản cũ bị cấm và cấm tất cả các bình luận liên quan. Trong những
trường hợp có nghi ngờ cần phải được chính Hoàng đế giải thích. Việc
trích dẫn Digesta được viết tắt D và các số kèm theo chỉ quyển, mục và
đoạn .
4. Institutiones – Sách giáo khoa Luật La Mã
Đồng
thời với việc biên soạn Digesta, theo lệnh của Justinian, Tribonian
cùng Theophin và Dorothea cũng biên soạn Institutiones (hay còn được gọi
là Institutiones sive Elementa) - Cuốn hướng dẫn có hiệu lực như văn
bản luật bằng tiếng latin và hoàn thành việc này ngày 21 tháng 11 năm
533. Việc biên soạn Institutiones có mục đích mang đến sự rõ ràng và
giới thiệu toàn bộ khoa học về luật (tota legitima scientia) bởi vậy
trong không chỉ có việc giải quyết các vấn đề pháp lý thực tế mà còn
chứa đựng những suy luận lý thuyết chung về luật như định nghĩa về luật,
về khoa học luật . Các sinh viên luật sẽ phải học theo Institutiones
nên nó còn được gọi là Sách giáo khoa Luật La Mã .
Trang 1,
Institutiones có ghi: “Uy nghiêm quang vinh của Hoàng đế không những dựa
vào vũ khí mà cần phải dùng pháp luật để củng cố, bất luận thời chiến
hay thời bình đều có thể dùng luật để cai trị quốc gia”
Institutiones
gồm 4 quyển, 98 mục, dưới mục lại chia theo các phân mục. Theo nội dung
và cấu trúc Institutiones nhắc lại Institutiones của Gaius.
Institutiones cũng là tập trích tuyển trước tác của các luật gia La Mã
như Digesta nhưng nếu Digesta trích dẫn gần 2000 trước tác thì
Institutiones chủ yếu trích dẫn Gaius .
Quyển thứ nhất của
Institutiones gồm các quy định liên quan đến con người – quy định chủ
thể pháp luật có liên quan đến tư pháp của La Mã. Chúng ta đều biết Luật
La Mã chia thành hai loại công pháp và tư pháp: công pháp quy định mối
tương quan với tôn giáo và kết cấu tổ chức quốc gia cũng phạm vi hoạt
động của nó, tư pháp là pháp luật trực tiếp liên quan đến lợi ích cá
nhân. “Công pháp liên quan đến chính thể của đế quốc La Mã, tư pháp liên
quan đến lợi ích cá nhân” (D.1.1.1.2). Tư pháp được chia thành luật tự
nhiên, luật thị dân và luật vạn dân liên quan đến loài người với các
quyền được tự nhiên giao phó (jus nature), quyền lợi của công dân La Mã
(jus civil) và quyền lợi của những người khác trong Đế quốc La Mã (jus
gentium) . Quyển thứ nhất của Institutiones luận về năng lực hành vi của
con người với tư cách là chủ thể tư pháp, luận về vị trí pháp lý của
con người...
Quyển thứ hai và ba của Institutiones gồm quy định liên
quan đến vật, quan hệ tài sản. Định nghĩa về vật rất rộng, không những
gồm vật hữu hình mà còn bao gồm cả vật vô hình, không những gồm vật do
con người sáng tạo ra mà còn gồm cả vật tồn tại trong tự nhiên. Vật được
chia ra thuộc công hữu, tư hữu, sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân. Nội
dung về vật chiếm số lượng trang nhiều nhất trong Tổng luận luật học
chứng tỏ nền sản xuất hàng hoá và quan hệ trao đổi trong Đế quốc La Mã
đã tương đối phát triển, đồng thời cũng cho thấy giai cấp thống trị rất
coi trọng việc củng cố chế độ sở hữu của mình.
Quyển thứ tư của
Institutiones quy định về khế ước và trình tự tố tụng, phân tích tường
tận về các loại tố tụng, tư cách chủ thể tố tụng, trình tự tố tụng, đảm
bảo tố tụng...
Thứ tự sắp xếp luật thực định trước, luật tố tụng sau
trong Institutiones là ngược lại với thứ tự sắp xếp trong Luật XII bảng -
Luật thành văn đầu tiên của Đế quốc La Mã, nhấn mạnh quyền lợi của chủ
thể pháp luật, phản ánh tính chất của nền kinh tế tiền tệ hàng hoá trong
Đế quốc La Mã và theo yêu cầu của nó. Việc thay đổi cách sắp xếp này
được đánh giá là một tiến bộ to lớn.
Institutiones với tư cách là một
cuốn sách giáo khoa về Luật La Mã đưa ra các nguyên lý cơ bản của Luật
La Mã, là tập hợp tinh hoa của pháp luật La Mã, đồng thời trình bày phân
tích mạch lạc rõ ràng, nội dung tỉ mỉ xác thực khiến chính Justinian
cũng thừa nhận nó “bao gồm toàn bộ nguyên lý cơ bản của luật học”.
Do
khâm lệnh Hoàng đế soạn ra, cùng với ba tác phẩm khác trong Corpus
Juris Civilis, Institutiones có tính chất bắt buộc của một văn bản pháp
luật chứ không đơn thuần là một cuốn sách giáo khoa. Cách phân chia
công pháp, tư pháp trong Tổng luận luật học đã đặt nền móng cho sự phân
chia trong luật học châu Âu lục địa, các quy định về quyền sở hữu là
hình mẫu trong việc xây dựng các Bộ luật dân sự như Bộ luật Napoleon
1804, Bộ luật dân sự Đức 1896. Nguyên tắc bảo hộ tài sản tư hữu của chủ
nô về sau được phát triển thành nguyên tắc pháp luật cơ bản “tài sản tư
hữu thiêng liêng bất khả xâm phạm”.
Nhiều nội dung trong
Institutiones đã phản ánh yêu cầu tất nhiên của việc sản xuất và phát
triển xã hội hàng hoá, đối với sự phát triển của khoa học pháp lý là
cống hiến to lớn.
5. Novellae - Tập hợp luật mới
Tất
cả các luật được ban hành sau Codex repetitae praelectionis được tập
hợp trong Novellae - phần thứ tư của Corpus Juris Civilis.
Novellae
(hay còn được gọi là Novellae leges) gồm các văn bản dưới thời Justinian
(535-565) với 122 văn bản, sau này được bổ sung lên đến 168 văn bản, đa
số bằng tiếng Hy Lạp.
6. Kết luận
Khi nghiên
cứu về Dòng họ Civil Law – Dòng họ pháp luật châu Âu lục địa với các Bộ
luật Dân sự đồ sộ là hình mẫu cho Bộ luật Dân sự của rất nhiều nước
trên thế giới, chúng ta không thể không nhắc đến Luật La Mã với Corpus
Juris Civilis. Là Tập hợp luật thành văn vĩ đại nhất trong lịch sử của
chế độ chiếm hữu nô lệ, đánh dấu Luật La Mã đã phát triển đến thời đại
huy hoàng, Corpus Juris Civilis thực sự có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát
triển của pháp luật và học thuyết pháp lý ở các nước châu Âu lục địa.
0 comments:
Post a Comment