GS.TS. Nguyễn Đăng Dung
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu lập pháp,
truy cập tại đây
Hệ thống pháp luật về XLVPHC và việc thực thi pháp luật XLVPHC
đã bộc lộ những bất cập, hạn chế, đòi hỏi phải khẩn trương giải quyết
nhằm đáp ứng yêu cầu phòng chống VPHC đang diễn ra trong thực tiễn ngày
càng phức tạp.
Để
đáp ứng yêu cầu này, Quốc hội khóa XII đã chính thức đưa Dự án Luật
XLVPHC vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của toàn khóa Quốc hội.
Việc xúc tiến xây dựng dự án Luật này nhằm giải quyết cơ bản những vấn
đề hạn chế, bất cập đặt ra từ hệ thống pháp luật XLVPHC hiện hành, đồng
thời xác lập cơ sở pháp lý mới với những nội dung thay đổi phù hợp, có
tính khoa học và khả thi, để nâng cao một bước cơ bản về hiệu lực, hiệu
quả của pháp luật XLVPHC.
Trước đây, khi Nhà nước chưa ban hành Pháp lệnh Xử phạt VPHC 1989 thì các văn bản pháp luật chỉ đề cập đến khái niệm “vi cảnh”1. “Vi cảnh” được hiểu là việc “vi phạm luật lệ sinh hoạt ở nơi công cộng”2,
như vi phạm quy định về giữ gìn vệ sinh công cộng, trật tự công cộng,
trật tự an toàn giao thông… Sau này, trong các văn bản pháp luật, khái
niệm “vi cảnh” được hiểu rộng hơn: không chỉ là những vi phạm luật lệ
sinh hoạt nơi công cộng mà được hiểu là những vi phạm nhỏ chưa đến mức
bị coi là tội phạm hình sự.
Khái
niệm “vi phạm hành chính” lần đầu tiên được định nghĩa một cách chính
thức tại Pháp lệnh Xử phạt VPHC 1989. Điều 1 Pháp lệnh quy định “VPHC là
hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm
quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”.
Định
nghĩa này sau đó đã được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn thi hành pháp
luật và đưa vào các giáo trình giảng dạy về pháp luật.
1. Những tồn tại, hạn chế của hệ thống pháp luật xử lý vi phạm hành chính hiện hành
-
Pháp luật XLVPHC thể hiện sự “lẫn lộn” giữa các quyền lực: lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật về XLVPHC
nói chung và xử phạt VPHC nói riêng phải thuộc thẩm quyền của “cơ quan
đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Điều 51 Hiến pháp còn quy định
“quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định”. Phù
hợp với những quy định này, những hành vi vi phạm pháp luật bị tước các
quyền hạn và lợi ích của công dân cũng phải do cơ quan lập pháp quy
định. Việc ủy quyền cho Chính phủ quy định hành vi vi phạm và hình thức
xử phạt đối với hành vi đó là chưa thực sự phù hợp với Hiến pháp, trong
trường hợp này, các cơ quan hành pháp đã thực thi chức năng lập pháp.
Hiện
nay, nhiều VBQPPL về XLVPHC quy định chi tiết hoặc hướng dẫn thi hành
quy định của văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn nhưng lại không đúng
với tinh thần, thậm chí mở rộng quy định hoặc trái với quy định của
Luật, của Hiến pháp. Một thực tế đã từng xảy ra những năm qua trong hoạt
động soạn thảo và ban hành VBQPPL về XLVPHC là tình trạng “xé rào” của
một số địa phương, vi phạm quy định thẩm quyền ban hành văn bản về
XLVPHC. Điều 2 Pháp lệnh XLVPHC 2002 quy định, chỉ Chính phủ mới có
quyền quy định hành vi và chế tài xử phạt VPHC trong các lĩnh vực quản
lý nhà nước mà không trao quyền này cho Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy
ban nhân dân (UBND) các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Tuy
nhiên, vừa qua nhiều tỉnh, thành phố đã ban hành VBQPPL về XLVPHC áp
dụng riêng trong phạm vi địa phương mình. Tình trạng địa phương ban hành
văn bản về XLVPHC trái thẩm quyền, tuỳ tiện, dẫn đến tình trạng hỗn
loạn, không kiểm soát, đã không những vi phạm về thẩm quyền mà còn xâm
phạm đến quyền cơ bản của công dân. Theo quy định của pháp luật hiện
hành, thì khái niệm “xử phạt vi phạm hành chính” cùng với “các biện pháp
xử lý hành chính khác” đã được đưa vào Pháp lệnh XLVPHC 2002 một cách
gượng ép (Điều 1 Pháp lệnh XLVPHC 2002 quy định “XLVPHC bao gồm xử phạt
VPHC và các biện pháp xử lý hành chính khác”).
Các
“biện pháp xử lý hành chính khác” của Pháp lệnh hiện hành có nguồn gốc
ban đầu là biện pháp cưỡng chế hành chính đặc biệt, xuất phát từ Nghị
quyết 49 năm 1961 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Nghị quyết này quy định
việc đưa vào các cơ sở tập trung giáo dục, cải tạo đối với người có
hành động nguy hại cho xã hội, được giáo dục nhiều lần, nhưng không hối
cải. Chủ tịch tỉnh ra quyết định và Bộ trưởng Công an duyệt với thời hạn
03 năm mà không cần thông qua việc xét xử của cơ quan tư pháp - Tòa án.
Những biện pháp này được dành cho những người chống đối chế độ biểu
hiện qua những hành vi như: gián điệp, mật thám, ngụy quân, ngụy quyền,
cốt cán đảng phái phản động… Biện pháp tập trung giáo dục cải tạo, ngoài
những đối tượng nói trên, cũng được áp dụng cho những người có những
hành tội phạm như lưu manh, trộm cắp, lừa đảo… Các biện pháp xử lý hành
chính khác về cơ bản không phải là biện pháp xử phạt hành chính, mà có
bản chất rất khác so với xử phạt các hành vi vi phạm quy tắc quản lý
hành chính nhà nước. Đa phần trong số đó không những chỉ là những tội
phạm hình sự bình thường, mà còn là là tội phạm hình sự nguy hiểm, được
quy định trong chương đầu tiên về tội phạm hình sự, tội xâm phạm an ninh
quốc gia của pháp luật hình sự hiện hành3.
Việc
phân biệt các hành vi VPHC với các hành vi tội phạm như quan niệm lâu
nay là một thành công lớn về mức độ nhân đạo của pháp luật các nước xã
hội chủ nghĩa, không hình sự hóa các quan hệ hành chính. Nhưng trên thực
tế, việc phân biệt này rất khó khăn về hình thức cũng như về mặt nội
dung, tuy VPHC luôn luôn vi phạm dưới mức nguy hiểm của tội phạm.
Sự
bất cập của pháp luật hiện hành là việc quy định thẩm quyền áp dụng các
biện pháp này cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) cấp huyện, cấp tỉnh.
Việc bắt buộc đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở chữa bệnh hay cơ sở giáo
dục đều có một đặc điểm chung là tính chất khắc nghiệt, trực tiếp tước
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo vệ danh dự, nhân
phẩm, quyền tự do đi lại, tự do cư trú của công dân…, những quyền đã
được Hiến pháp bảo đảm: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình
phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”
(Điều 72 Hiến pháp 1992).
Những
quy định này cũng chưa phù hợp với Công ước quốc tế về Các quyền dân sự
và chính trị mà Việt Nam đã ký kết và tham gia. Khoản 4 Điều 9 Công ước
quốc tế về Các quyền dân sự và chính trị quy định: Bất cứ người nào do
bị bắt hoặc giam giữ mà bị tước tự do đều có quyền yêu cầu xét xử trước
Tòa án nhằm mục đích để Tòa án có thể quyết định không chậm trễ về tính
hợp pháp của việc giam giữ và trả lại tự do, nếu việc giam giữ là bất
hợp pháp”, cũng như các quy định tại Điều 9 Công ước quốc tế về Quyền
trẻ em, các quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng, trẻ em sẽ không bị
buộc cách ly cha mẹ trái ý muốn của cha mẹ, chỉ trừ trường hợp những nhà
chức trách có thẩm quyền, quyết định theo luật pháp và các thủ tục
thích hợp, sự cách ly như thế là cần thiết cho những lợi ích tốt nhất
của trẻ em.
-
Pháp luật hiện hành thiếu một số quy định thủ tục để việc xử phạt có
thể được tiến hành khách quan, chính xác và đảm bảo quyền tự do, dân
chủ, quyền lợi hợp pháp của con người.
Các
Pháp lệnh Xử phạt VPHC năm 1989, Pháp lệnh XLVPHC năm 1995, Pháp lệnh
XLVPHC năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung năm 2008 vẫn duy trì hai
loại thủ tục xử phạt: thủ tục đơn giản và thủ tục có lập biên bản. Mức
tiền được xử phạt theo thủ tục đơn giản đã được nâng lên từ 20.000 đồng
lên 200.000 đồng.
Các
pháp lệnh này thiếu một số quy định bảo vệ người bị XLVPHC mang tính
chất trình tự/thủ tục như: những tình tiết phải được xác minh; sự tồn
tại của sự kiện VPHC (trên thực tế có việc vi phạm hay không; tình tiết
này đặc biệt quan trọng trong trường hợp vụ việc vi phạm không phải do
người có thẩm quyền phát hiện, mà do tin báo hoặc do tố cáo hành vi vi
phạm của nhân dân) lỗi của người vi phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ, các tình huống loại trừ trách nhiệm hành chính… Chứng cứ gồm: biên
bản vi phạm, giải trình của đối tượng vi phạm, lời khai của nhân chứng,
kết luận của giám định (chẳng hạn như để xử phạt vụ vi phạm sản xuất
hàng giả thì cần phải có kết luận giám định xem hàng đó chất lượng thế
nào, có phải là hàng giả, hàng kém chất lượng hay không…).
Về
quyền được trình bày của đối tượng vi phạm cũng rất quan trọng trong
trường hợp người có thẩm quyền quyết định tước quyền sử dụng giấy phép,
chứng chỉ hành nghề hoặc phạt tiền với số lượng lớn (có thể từ 10 triệu
đồng trở lên). Việc pháp luật tạo điều kiện cho đối tượng vi phạm được
trình bày là vừa thể hiện tính dân chủ trong xử phạt VPHC, vừa là cơ hội
để người có thẩm quyền xử phạt cân nhắc lại các sự kiện cũng như các
tình tiết của vụ việc trước khi ban hành quyết định xử phạt.
2. So sánh với pháp luật xử phạt hành chính ở một số nước
So sánh với pháp luật nước ngoài, nhất là của các nước phát triển, chúng ta có thể thấy hệ
thống pháp luật xử phạt VPHC của Việt Nam rất khác. Sự hiện diện hệ
thống pháp luật xử phạt VPHC của Việt Nam dày đặc, như là một đặc điểm
có một không hai trên thế giới. Nhưng điểm khác đặc biệt là việc xử phạt
- tức là việc tước bỏ, việc hạn chế quyền con người của các nước - đều
phải được theo một thủ tục tố tụng đúng (due process) của tư pháp, do
một thẩm phán thực hiện, và người dân có quyền được khiếu nại lên Tòa án
để bảo vệ quyền của mình… Pháp
luật nhiều quốc gia cho phép các chủ thể bị xử phạt có điều kiện thể
hiện ý chí của mình một khi không đồng ý với quyết định xử phạt, và thậm
chí, họ có thể mời luật sư tham tụng trong trường hợp không đồng ý với
quyết định xử phạt họ. Họ còn có thể chủ động đưa vụ việc ra tòa để tìm
công lý cho mình. Nguyên tắc một thủ tục tố tụng đúng đòi hỏi không ai
bị tước đoạt quyền được sống, quyền tự do, quyền sở hữu tài sản, mà
không phải qua một quy trình tố tụng đúng.
Do
những điều kiện riêng về lịch sử, kinh tế, xã hội, thể chế chính trị,
cách thức tổ chức quyền lực nhà nước, truyền thống lập pháp… mỗi quốc
gia xây dựng một hệ thống pháp luật riêng về XLVPHC. Ở một số nước, cơ
quan lập pháp không ban hành đạo luật hay pháp lệnh riêng về XLVPHC, mà
các quy định về XLVPHC được xác lập ngay trong các văn bản luật chuyên
ngành.
Trong luật của Pháp, chế tài hành chính còn được gọi là “luật hình sự đặc biệt.”4
Thụy Sĩ cũng vậy, gọi là “luật hình sự trong lĩnh vực hành chính”. Ở
Pháp hiện nay có 03 quan điểm về xử phạt hành chính: 1. Quan điểm thực
dụng, do yêu cầu của lợi ích công, đặc biệt là tính nhanh chóng của hoạt
động hành chính, nên cơ quan hành chính phải được trao quyền xử phạt
hành chính - nghĩa là tự mình áp dụng các chế tài mà không cần qua cơ
quan tư pháp. 2. Quan điểm dựa trên nguyên tắc pháp chế, chế tài hành
chính cũng phải do thẩm phán áp dụng, đặc biệt là các chế tài liên quan
đến việc tước đoạt tự do cá nhân. 3. Quan điểm trung gian, phụ thuộc vào
việc phân biệt các mức độ vi phạm, nếu vi phạm chỉ đơn thuần là không
tôn trọng các quy định thủ tục, vi phạm nhẹ, thì cơ quan hành chính có
quyền xử lý, tuy nhiên, nếu việc thực thi chậm trễ thì Tòa án cảnh sát
có thể can thiệp; đối với trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng, không
tuân thủ lệnh kiểm tra, thì thẩm quyền thuộc Tòa án.
Cơ
quan hành chính nào có quyền cấp phép thì cũng có quyền tước giấy phép
nếu có những vi phạm kỷ luật (quy tắc sử dụng giấy phép), ngay cả khi
không có văn bản nào quy định quyền này: “xuất phát từ nội dung chấp
nhận, cơ quan cấp giấy phép có quyền tước giấy phép của chủ sử dụng đã
không tuân thủ đầy đủ những điều kiện được cấp phép”5.
Ở
Bỉ, chế tài hành chính không chỉ là phạt tiền mà còn có thể áp dụng
hình thức lao động công ích, bởi đã dự liệu đến các trường hợp không thể
phạt tiền. Ngoài ra, biện pháp này cũng có tác dụng giáo dục tốt. Tuy
nhiên, điều kiện để thực hiện phải là sự phân quyền rất nhiều cho địa
phương trong xử phạt hành chính. Ở Thụy Sĩ, khái
niệm chế tài hình sự trong lĩnh vực hành chính được dùng để chỉ các
biện pháp xử phạt mang tính hình sự mà cơ quan hành chính có thể áp dụng
thì hình phạt chủ yếu là phạt tiền dưới 5000 fr. Mức phạt là cố định,
không cần cân nhắc đến các yếu tố khác, nhưng có thể chuyển đổi : 30fr =
1 ngày giam, nhưng thời hạn giam không được vượt quá 3 tháng. Khi nào
nộp tiền phạt, sẽ giảm trừ ngày giam.
Luật
pháp của Mỹ rất ít sử dụng đến khái niệm “vi phạm hành chính”. Những vi
phạm pháp luật được gọi là những hành vi phải áp dụng các chế tài hành
chính, gọi là xử phạt hành chính thì ở Mỹ, các vi phạm này được gọi là
các tội phạm nhỏ, tội phạm ít nghiêm trọng. Một số tiểu bang có sự xác
định rõ hơn một số loại tội phạm ít nghiêm trọng gọi là “tội phạm nhỏ”
(petty ffenses/infractions/violations ~ misdemeanors). Những tội phạm
này không bị lên án mạnh và chỉ bị phạt tiền. Ví dụ như: đánh bạc bất
hợp pháp (illegal gambling); làm ồn (disturbing the peace); người vị
thành niên sử dụng rượu (possession of alcohol by a minor); gian lận
tuổi (presenting false evidence of age); gây cản trở người có thẩm quyền
tại nơi xảy ra việc khẩn cấp (going to the scene of an emergency for
viewing when it results in impeding official personnel); vứt bỏ tủ lạnh
mà cửa còn nguyên vẹn (discarding a refrigerator with its door
intact)...
Luật
Hành chính của Mỹ luôn luôn nhấn mạnh đến tính thủ tục hành chính. Điểm
khởi đầu cho sự nhấn mạnh này là yêu cầu của Hiến pháp về quy trình tố
tụng đúng. “Khi chúng ta nói về việc lắng nghe phía bên kia (audi
alteram partem) là chúng ta đã đề cập đến nhận thức cơ bản đã ăn sâu bám
rễ trong văn hoá pháp lý Anh - Mỹ”6, nhận thức này giờ đây
đã thành mệnh lệnh bắt buộc, được phát biểu dưới hình thức của quy trình
tố tụng đúng. Được xây dựng trên nền tảng của quy trình tố tụng đúng,
luật pháp Mỹ đã tạo ra một khối vững chắc các thủ tục chính thức bắt
buộc. Kết quả là sự “tư pháp hoá” của các cơ quan hành chính Mỹ - từ khi
ra đời Uỷ ban Thương mại giữa các bang tới nay - là phần lớn các quy
trình hành chính của Mỹ đã được định hình theo khuôn mẫu của ngành tư
pháp có sửa đổi.
Yêu
cầu về quy trình tố tụng đúng được diễn giải là đòi hỏi phải có một
phiên điều trần tranh biện chính thức - được gọi là điều trần về bằng
chứng - trước khi đưa ra các quyết định hành chính có tác động bất lợi
tới các cá nhân. Chính vì liên quan tới các quyết định xét xử, mà quy
trình hành chính của Mỹ được định hình chủ yếu theo mô thức của ngành tư
pháp. Điều này có nghĩa là, trước khi đưa ra các quyết định hành chính
có ảnh hưởng bất lợi đến cá nhân, thì cá nhân đó được quyền có một phiên
điều trần về bằng chứng, phiên điều trần này gần giống như một phiên
xét xử của toà án. Những cá nhân đó có những quyền như sau: 1. được
thông báo cả danh sách cụ thể các đối tượng và vấn đề liên quan đến vụ
việc; 2. trình bày các bằng chứng, lời khai, tài liệu và lập luận; 3.
bác bỏ các bằng chứng của đối phương thông qua việc thẩm tra chéo và các
biện pháp thích hợp khác; 4. xuất hiện cùng với luật sư; 5. phán quyết
đưa ra dựa trên các bằng chứng được ghi vào hồ sơ của phiên điều trần;
6. có đầy đủ hồ sơ của phiên điều trần, bao gồm bản tốc ký lời khai và
các lý lẽ nêu ra cùng các bằng chứng, tài liệu, các giấy tờ khác được đệ
trình trong quá trình xét xử; 7. được cơ quan giải thích cơ sở đưa ra
quyết định - một biện pháp quan trọng để bảo đảm rằng, cơ quan đã tuân
thủ luật pháp, trong phạm vi quyền tự quyết rộng rãi dựa trên sự việc,
chính sách và thậm chí, cả trên các vấn đề pháp lý.
Nhiều
nhà nghiên cứu nước ngoài đã so sánh và chỉ trích yêu cầu của pháp luật
Mỹ về một phiên điều trần toàn diện với hồ sơ chính thức trước khi đưa
ra các phán quyết hành chính. Làm thế nào một cơ quan hành chính có thể
thực thi công việc một cách hiệu quả nếu mỗi quyết định hành chính tác
động đến quyền hạn và lợi ích của cá nhân đều phải tiến hành một phiên
điều trần theo kiểu phiên xét xử tại Toà án trước khi được ban hành?
Quyền được tiến hành phiên điều trần sẽ có xu hướng làm tê liệt các công
việc hành chính của cơ quan hành chính vốn đang cần phải được tiến hành
liên tục?
Câu
trả lời là “không phải thế”. “…Theo kinh nghiệm của chúng tôi, không
phải mọi trường hợp các cá nhân đều đòi hỏi quyền mà họ có… Điều này
không xảy ra vì rất nhiều lý do, một phần là vì chi phí, một phần là vì
thực tế rằng, việc tranh cãi là vô ích và rằng, không có lợi ích gì khi
tiến hành toàn bộ thủ tục của một phiên điều trần chính thức. Tôi đã xem
các con số tại các cơ quan và không có cơ quan nào trong số đó có các
vụ đòi quyền được xem xét bởi một phiên điều trần toàn diện lớn hơn 5%.
Đó chính là lý do khiến cho bộ máy hành chính của Mỹ vẫn hoạt động”7.
3. Phương hướng, giải pháp cải cách và hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính ở Việt Nam
Từ
những sự phân tích trên, pháp luật xử phạt VPHC (hay có thể còn gọi như
hiện nay là pháp luật XLVPHC) của nước ta đang có sự ảnh hưởng rất nặng
nề từ cơ chế tập trung, bao cấp của
nền kinh tế kế hoạch hóa, dẫn đến tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn,
trùng lắp. Hiện có hai vấn đề cần phải đặt ra để giải quyết, nhằm hoàn
thiện pháp luật XLVPHC của nước ta hiện nay.
Thứ
nhất, cần phải phi hành chính hóa. Khác với trước đây - pháp luật hành
chính hầu như bao quát sang rất nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, song
song với vấn đề này là việc xử phạt hành chính của chúng ta cũng rất
rộng, lấn sang các lĩnh vực khác như lập pháp và tư pháp, vì vậy, công
việc có tính chất bao trùm cả lĩnh lực cải cách luật hành chính nói
chung và lĩnh vực XLVPHC nói riêng hiện nay là phải phi hành chính hóa.
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường thì xác định VPHC như thế nào phải
đúng với nghĩa nó là VPHC và dùng công cụ, chế tài hành chính để áp
dụng.
Vấn
đề thứ hai là giải quyết sự khác nhau giữa Việt Nam và thế giới. Sự
khác nhau giũa pháp luật Việt Nam và các quy định trong các văn kiện và
công ước quốc tế là nhiều. Nếu như ở Việt Nam, các hành vi vi phạm các
quy tắc hành chính và tội phạm nhỏ được cho là ít nguy hiểm đến xã hội
đều có thể bị xử phạt bởi các cơ quan hành chính, thông qua người thi
hành công vụ mà không cần phải thông qua các cơ quan Tòa án, thì ở các
nước phát triển, hầu như tất cả sự tước bỏ quyền hạn và lợi ích của con
người đều phải đưa ra Tòa để phán quyết. Vì thế, tất cả các vụ việc liên
quan đến việc xử phạt đều do các cơ quan tư pháp thực hiện. Các công
ước quốc tế cũng như các văn bản hướng dẫn kèm theo đều quy định như
vậy. Chúng ta cũng phải thay đổi quan niệm theo xu thế chung này. So với
các xử lý bằng biện pháp hành chính, thủ tục tư pháp xét xử có nhiều ưu
thế hơn trong việc đảm bảo nhân quyền đối với người vi phạm, vì họ được
xét xử công khai, nhất là trong việc họ có thể nhờ vả đến sự giúp đỡ
cần thiết của các luật sư. Nhưng thủ tục tư pháp cũng sẽ gây nhiều khó
khăn, phức tạp cho người thi hành công vụ, làm mất thời gian và tốn kém
cho xã hội hơn.
Nhưng điều này là cần thiết để xây dựng một Nhà nước pháp quyền. Hệ thống pháp luật phải
biết gạt ra khỏi cơ thể mình những quy định thể hiện tàn dư của cơ chế
cũ tập trung, bao cấp, xác lập sự phân công giữa các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất. Cũng
vì vậy, phải khẩn trương nâng cấp Pháp lệnh XLVPHC thành luật XLVPHC do
Quốc hội ban hành, mạnh dạn chuyển các biện pháp xử lý hành chính khác
sang biện pháp tư pháp. Việc tước bỏ quyền lợi và tài sản của một người
dân nhất thiết phải bằng con đường tư pháp - xét xử. Trong trường hợp
chưa thể, vì điều kiện hoàn cảnh còn khó khăn và phức tạp, cũng như khả
năng các cơ quan tư pháp không thể đảm đương được, thì phải chấp nhận
giai đọan quá độ - vẫn xử lý bằng các biện pháp hành chính như hiện nay,
nhưng kiểu gì đi chăng nữa, cũng phải tính đến lập quy trình cho người
bị xử phạt, người bị xử lý có cơ hội được việc bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của mình, không thể giống như trước đây - chỉ bằng một quyết
định đơn phương của những người thi hành công vụ. Đây là một trong những
bước đi đầu tiên của hệ thống pháp luật Việt Nam hướng tới những biểu
hiện của một tinh thần tố tụng chuẩn, biểu hiện của Nhà nước pháp quyền
mà Việt Nam đang xây dựng.
-------------
(1)
Khái niệm này chính thức được sử dụng trong “Điều lệ Xử phạt vi cảnh”
ban hành kèm theo Nghị định số 143/CP ngày 27/05/1977. Theo quy định của
Điều lệ xử phạt vi cảnh thì tất cả những hành vi xâm hại đến trật tự an
toàn xã hội có tính chất đơn giản, rõ ràng hoặc hậu quả không nghiêm
trọng, chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc áp dụng các biện
pháp hành chính khác là phạm pháp vi cảnh. Hình thức xử phạt vi cảnh
được chia thành 4 loại: cảnh cáo; phạt tiền từ 01 đến 10 đồng; phạt lao
động công ích từ 01 đến 03 ngày; phạt giam từ 01 đến 03 ngày. Nghị định
cũng quy định tịch thu phương tiện dùng vào việc vi phạm tùy theo tính
chất, mức độ của vi phạm; quy định thẩm quyền xử phạt với hình thức phạt
cảnh cáo, phạt tiền cho cán bộ có thẩm quyền của các ngành Kiểm lâm,
Thủy sản, Thương nghiệp Y tế, Giao thông vận tải… trong khi thừa hành
công vụ ngoài lực lượng cán bộ, chiến sĩ công an là lực lượng có thẩm
quyền áp dụng tất cả các hình thức xử phạt mà Nghị định quy định.
(2) Viện Ngôn ngữ học (1997), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr. 1073.
(3)
Xem Đặng Văn Khanh, Các biện pháp xử lý hành chính theo hướng không
cách ly đối tượng khỏi cộng đồng – Thực trạng và phương hướng hoàn thiện
/Báo cáo Phúc trình đề tài nghiên cứu cấp bộ “Cơ sở lý luận và thực
tiễn xây dựng mô hình Bộ luật XLVPHC ở Việt Nam. Hà Nội, 2008 tr.198-
199
(4)
LA SANCTION EN MATIERE ADMINISTRATIVE DANS LE DROIT FRANÇAIS, Rapport
présenté parM. M. ROUGEVIN – BAVILLE, Maître des requêtes au Conseil
d’Etatde France.
(5) CE 23/5/1997, Công ty Amerique Europe, RFDA 1997, tr.880.
(6) In re Andrea B., 405 NY. S. ed. 977 tại 981 (Fam. Ct.1978).
(7) Uỷ ban Nghiên cứu điều tra và xét xử hành chính, Minutes of Evidence 1034 (1956).
0 comments:
Post a Comment