(1) John Locke: Sđd, tr. 202
Một câu hỏi được đặt ra là phải làm sao khi cơ quan hành pháp, với vũ
lực của toàn thể cộng đồng trong tay, sử dụng nó để cản trở việc hội họp
và hoạt động của cơ quan lập pháp ? Locke khẳng định rằng hành động đó
của cơ quan hành pháp là trái với thẩm quyền và nhiệm vụ đã được uỷ thác
cho nó, và hơn thế, khi dùng sức mạnh để chống lại nhân dân thì đây đã
là trạng thái chiến tranh đối với nhân dân, và nhân dân có đầy đủ lý do
cũng như thẩm quyền để xoá bỏ sức mạnh ấy đi bằng vũ lực. Locke
khẳng định rằng cơ quan hành pháp - dù khi đã nắm giữ luôn quyền liên
hiệp, và có quyền triệu tập hay giải tán cơ quan lập pháp, thì vị trí
của nó vẫn không cao hơn, nó vẫn luôn chỉ là quyền lực được uỷ thác để
thực thi các đạo luật của cơ quan lập pháp. Nhưng không phải lúc nào cơ
quan hành pháp cũng phải nhất nhất tuân thủ theo quyết định và luật pháp
của cơ quan hành pháp, mà trong một số trường hợp nó có thể giải quyết
tự do theo ý chí riêng của nó. Locke gọi đó là đặc quyền hành động của
cơ quan hành pháp. Có đặc quyền này bởi không phải lúc nào cơ quan lập
pháp cũng có thể nhìn nhận thấy trước những vấn đề xã hội cần phải điều
chỉnh trong tương lai để có luật thích ứng, nên khi ấy cơ quan hành pháp
phải hành động theo ý mình, nhưng mục đích cuối cùng cần đạt được là
lợi ích cao nhất của nhân dân. Cũng vì mục đích này, trong một số trường
hợp khác, cơ quan hành pháp có thể giải quyết các sự vụ khác với quy
định trong pháp luật, thậm chí là đi ngược lại, bởi sự khắc nghiệt của
luật pháp không phải lúc nào cũng đúng, Locke cho ví dụ của trường hợp
này là: không cho kéo sập nhà của một người vô can để dừng ngọn lửa lại
khi căn nhà bên đang cháy; do vậy, việc làm này trái với quy định của
pháp luật thực định nhưng lại phù hợp với pháp luật tối cao, chính là
lợi ích của nhân dân, như câu nói nổi tiếng của nhà luật học Lamã
Cicéron: "Salus populi suprema lex - Hạnh phúc của nhân dân là pháp luật
tối cao". Trong những dòng cuối cùng của tác phẩm, Locke đưa
ra một câu hỏi: Vậy ai sẽ là người phán xét rằng quốc vương hay cơ quan
lập pháp có hành động trái với sự uỷ thác đã được đặt vào họ hay không ?
Locke khẳng định: đó chính là nhân dân. Ông cho rằng khi có tranh cãi
giữa quốc vương với một số người dân khi pháp luật không có quy định rõ
ràng, hay khi vấn đề tranh cãi có hậu quả lớn thì người trọng tài thích
hợp nhất phải là cơ quan quyền lực của nhân dân, bởi ai sẽ là người phán
xét rằng một người được uỷ nhiệm có hành động tốt và theo đúng sự uỷ
nhiệm hay không thích hợp hơn chính người đã uỷ nhiệm ? Nhưng nếu quốc
vương phản đối cách giải quyết của cơ quan quyền lực nhân dân thì việc
cáo kiện buộc phải "đưa đến trời cao", mà ở đây có thể hiểu là việc sử
dụng bạo lực và cách mạng để lật đổ ông vua ấy đi, để thay thế cái hình
thức chính quyền cũ ấy đi, bằng những con người mới, những hình thức mới
mà nhân dân cho là tốt đẹp nhất. Tóm lại, qua tác phẩm Khảo
luận thứ hai về chính quyền hay còn có tựa đề phụ là Luận về Nguồn gốc,
Phạm vi và Mục đích chân chính của chính quyền dân sự của Locke, ta có
thể khẳng định tư tưởng phân quyền của Locke là một bước phát triển hơn
hẳn so với các học giả thời kỳ cổ đại Hy Lạp - Lamã. Tuy vẫn còn một số
điểm hạn chế, mà chủ yếu là chưa phân tách quyền tư pháp ra độc lập với
quyền hành pháp, nhưng tư tưởng phân chia quyền lực của Locke vẫn là nền
tảng đầu tiên vững chắc cho các học giả tư sản về sau tiếp tục nghiên
cứu và hoàn thiện. Charles Louis Montesquieu ( 1689 - 1755 ):
Bàn về Tinh thần pháp luật ( De L'esprit des Lois ) - viên ngọc sáng
trong kho tàng lý luận về khoa học pháp lý cũng như triết học và nhiều
môn khoa học xã hội khác của nhân loại, là tác phẩm đồ sộ nhất và cũng
là tác phẩm xuất sắc nhất của người tiên phong cho phong trào Khai sáng
Pháp Charles Louis Montesquieu. Đây chính là nơi ông thể hiện một cách
sâu sắc toàn bộ tư tưởng của mình. Thành tựu to lớn nhất của
Bàn về Tinh thần pháp luật chính là tư tưởng phân chia quyền lực, bởi
vậy khi nhắc đến Bàn về Tinh thần pháp luật là người ta nghĩ ngay đến tư
tưởng phân quyền, và bởi sự xuất sắc của Montesquieu trong tác phẩm
kinh điển này mà khi nhắc đến tư tưởng phân quyền, người ta cũng sẽ nghĩ
ngay đến Bàn về Tinh thần pháp luật. Tư tưởng này của Montesquieu được
tập trung thể hiện trong quyển 11, chương 6: Hiến pháp nước Anh, mà ta
có thể dễ dàng nhận ra nhiều sự tiếp thu, kết nối với tư tưởng phân
quyền của Locke trong Khảo luận thứ hai về chính quyền. Ngay từ
dòng đầu tiên của chương này, Montesquieu đã khẳng định: "Trong mỗi
quốc gia đều có ba thứ quyền lực: quyền lập pháp, quyền thi hành những
điều hợp với quốc tế công pháp và quyền thi hành những điều trong luật
dân sự. Với quyền lực thứ nhất, nhà vua hay pháp quan làm ra
các thứ luật cho một thời gian hay vĩnh viễn, và huỷ bỏ hay sửa đổi các
luật này. Với quyền lực thứ hai, nhà vua quyết định việc hoà hay chiến, gửi đại sứ đi các nước, thiết lập an ninh, đề phòng xâm lược.
Với quyền lực thứ ba, nhà vua hay pháp quan trừng trị tội phạm, phân xử
tranh chấp giữa các cá nhân. Người ta sẽ gọi đây là quyền tư pháp, vì
trên kia là quyền hành pháp quốc gia"(1). Ta có thể nhận ra
ngay sự tiến bộ hơn hẳn trong tư tưởng phân quyền của Montesquieu so với
tư tưởng của Locke, khi đã tách quyền lực xét xử - quyền tư pháp ra độc
lập với các thứ quyền lực khác. Theo Montesquieu, một nhà nước
tự do hoàn hảo là một nhà nước mà ba thứ quyền lực này được phân chia
và được đặt vào tay những cá nhân, tổ chức khác nhau: "Tự do chính trị
... chỉ có được khi không có sự lạm dụng quyền lực. Nhưng kinh nghiệm
muôn đời chỉ ra cho chúng ta rằng bất kỳ ai khi được trao quyền lực là
sẽ có khuynh hướng lạm dụng quyền lực ấy, và sẽ tăng quyền lực của anh
ta lên đến hết mức ... Để ngăn chặm sự lạm dụng này, điều cần thiết rất
tự nhiên là quyền lực phải được ngăn cản ( kiềm chế ) bởi quyền lực"(2). Về nguyên nhân của sự phân quyền, ông viết:
"Khi mà quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại trong tay một người
hay một viện nguyên lão, thì sẽ không còn gì là tự do nữa, vì người ta
sợ rằng chính ông ta hay viện ấy chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành một
cách độc tài. Cũng không có gì là tự do nếu quyền tư pháp không tách
khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền tư pháp nhập lại với
quyền lập pháp thì người ta sẽ độc đoán đối với quyền sống và quyền tự
do của công dân, quan toà sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp
nhập lại với quyền hành pháp thì ông quan toà sẽ có cả sức mạnh của kẻ
đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức của quan chức, hoặc của
quý tộc, hoặc của dân chúng nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì
tất cả sẽ mất hết"(3). Nguyên nhân này, so với nguyên nhân do
Locke đưa ra về cơ bản là giống nhau, bởi đều xuất phát từ luận đề:
người nắm quyền luôn có xu hướng lạm quyền, nên muốn chống sự lạm quyền
đó để bảo vệ quyền tự do dân chủ của nhân dân thì phải tổ chức và phân
chia quyền lực sao cho đảm bảo "quyền lực ngăn cản quyền lực". Thực tế
lịch sử đã chứng minh: xu hướng lạm quyền của nhà cầm quyền là rất phổ
biến khi các quyền lực không được phân tách rõ ràng. Chính bản thân
Montesquieu đã đưa ra rất nhiều minh chứng cho hiện tượng này. _____________ (1) Charles Louis Montesquieu: Bàn về Tinh thần pháp luật, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006, tr.105 (2) TS Nguyễn Thị Hồi: Sđd, tr.75 (3) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.106
Ông cho rằng ở phần lớn các nước châu Âu, khi nhà vua nắm quyền lập
pháp, hành pháp và nhường quyền tư pháp cho nhân dân thì việc cai trị
còn có mức độ; nhưng ở các nhà nước mà quyền lực bị thâu tóm toàn bộ
trong tay một người hay một nhóm người thì "nền chuyên chế nghiệt ngã đè
lên đất nước"(1). Và ông nghiên cứu khá kỹ các nhà nước cộng hoà Italia
- những biểu hiện của việc quyền lực tập trung trong tay một tập đoàn
quý tộc. Theo ông, nhân dân trong các nhà nước này có ít quyền tự do hơn
nhiều so với trong các nước quân chủ châu Âu. Ông khẳng định: "Ở đây,
tất cả quyền lực chỉ là một. Tuy bề ngoài chẳng có sự phô trương gì của
ông vua chuyên chế, mà người ta vẫn cảm thấy sự chuyên chế vào bất cứ
lúc nào"(2). Nhưng sự chuyên chế của những nhà nước cộng hoà này không
giống hẳn chính thể chuyên chế ở châu Á, ví dụ như ở Cộng hoà Venise có
sự phân quyền tương đối, khi Đại hội đồng có quyền lập pháp, các đại quý
tộc Prégadi nắm quyền hành pháp, và nắm quyền tư pháp là các quý tộc
Quaranties; nhưng cái dở ở nhà nước Venise này là: tuy có sự phân quyền,
nhưng mọi cơ quan này đều nằm trong tay tầng lớp quý tộc, nên cả ba
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thực chất cũng chỉ là một thứ quyền
lực mà thôi, thực chất là chẳng có một sự phân quyền nào cả. Và ông chỉ
ra cái tai hại của nhà nước ấy: "cơ quan cầm quyền vừa là kẻ thi hành
luật vừa tự cho mình là kẻ lập pháp. Họ có thể tàn phá quốc gia bằng
những ý chí chung sai lầm của họ. Mà họ còn nắm cả quyền xét xử nữa thì
họ có thể đè nát mỗi công dân theo ý muốn của họ"(3). Cũng
giống như Locke, Montesquieu đặc biệt chú trọng tới cơ quan lập pháp, dù
ông hoàn toàn không thừa nhận rằng đây là cơ quan quan trọng nhất, có
khả năng uỷ thác quyền lực để hình thành nên các cơ quan khác như trong
học thuyết của Locke. _____________ (1) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.106 (2)(3) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.107
Theo ông, trong một nước tự do thì mọi người dân cũng được tự do, và do
đó họ có quyền tự quản, bởi vậy, dân chúng phải nắm quyền lập pháp.
Nhưng theo ông, nếu mọi người dân đều tham gia vào công việc lập pháp,
như trong Hội nghị công dân của các nhà nước dân chủ thời cổ đại thì
hoàn toàn không thích hợp, vì họ thường đòi hỏi thực hiện những việc mà
bản thân họ và cộng đồng không đủ sức làm... Bởi vậy, tốt nhất dân chúng
chỉ nên tham gia vào công việc của nhà nước bằng cách bầu chọn đại biểu
của mình. Và cơ quan đại biểu dân chúng cũng không nên giải quyết các
công việc cụ thể, vì họ không thể làm tốt điều này, họ chỉ nên làm ra
luật, và xem xét người ta thực thi những luật này ra sao. Về tổ
chức của cơ quan lập pháp - cơ quan đại biểu nhân dân, Montesquieu cho
rằng nó nên gồm hai viện: Viện quý tộc và Viện thứ dân. Nguyên
nhân của việc cần có hai nghị viện riêng biệt, theo ông là do trong xã
hội có những người mà dòng giống, của cải hoặc danh vọng của họ nổi bật
lên trên những người khác, nên nếu trong cuộc bầu cử họ chỉ có được một
phiếu bầu như các công dân khác thì sự tự do chung là xiềng xích nô lệ
đối với họ, bởi phần lớn các quyết nghị chung sẽ chống lại họ. Bởi vậy,
những người này cần phải có một cơ quan đại diện riêng bên cạnh cơ quan
đại diện dân chúng, để bảo vệ quan điểm và lợi ích của mình. Ngoài ra,
theo ông, quyền lập pháp cần phải có một uy lực điều chỉnh để dung hoà,
nên cơ quan lập pháp gồm hai viện riêng biệt là một cơ chế thật thích
hợp để phát huy sự dung hoà này. Quan điểm này là một hạn chế
của Montesquieu, bởi chính bản thân ông cũng là một nam tước - nam tước
De La Brède. Nhưng cách thức hoạt động của các viện này được ông đưa ra
lại là sự tiến bộ rất rõ ràng. Theo ông, cơ quan đại diện quý
tộc có thể đình chỉ dự định của cơ quan đại diện dân chúng, cũng như cơ
quan đại diện dân chúng có thể ngăn cản các quyết định từ cơ quan đại
diện các nhà quý tộc. Montesquieu chia quyền lập pháp ra làm hai chức
năng: chức năng quy định và chức năng ngăn cản. Trong đó, "chức năng quy
định là quyền tự mình ra lệnh, hoặc tự mình sửa lại điều mà người khác
ra lệnh"; còn "chức năng ngăn cản là quyền làm cho quyết định của người
khác trở thành vô hiệu"(1). Theo ông, Viện quý tộc chỉ được tham gia vào
công việc lập pháp với chức năng ngăn cản chứ không có chức năng quy
định, tức là chỉ có quyền phủ quyết hoặc chuẩn y các quyết định của Viện
thứ dân mà không được sửa đổi quyết định đó, hoặc đưa ra một quyết định
khác. Nguyên nhân của việc này, theo ông là do Viện quý tộc có hình
thức cha truyền con nối, mà lại được lập nên để bảo vệ đặc quyền của một
nhóm người, nên có thể nó sẽ chỉ biết đến lợi ích riêng tư của mình mà
quên đi lợi ích chung của cả cộng đồng. _____________ (1) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.113
Về hoạt động của các đại biểu dân chúng trong cơ quan lập pháp, theo
Montesquieu, các đại biểu này là người đã nhận được ý kiến chung của
những người bầu ra họ, là đại diện cho ý chí của các cử tri, nên không
nhất thiết mọi việc đều phải hỏi ý kiến dân chúng. Ông thừa nhận làm như
thế mới đảm bảo được quyền tự do và dân chủ của nhân dân, nhưng như vậy
thì công việc sẽ kéo dài vô tận, và trong những trường hợp cấp bách thì
lối làm việc này sẽ làm ngưng trệ cả quốc gia, hay thậm chí là huỷ diệt
nó. Và ông đưa ra cách làm mà ông cho là hợp lý như ở quốc hội Hà Lan,
khi các đại biểu chỉ phải báo cáo lại công việc với các cử tri.
Về cách thức bầu cử cơ quan lập pháp, Montesquieu cho rằng người dân
biết rõ nhu cầu của thành phố mình hơn là của các thành phố khác, hiểu
năng lực của người láng giềng mình hơn là láng giềng của người khác, nên
dân chúng ở mỗi địa phương phải được chọn ra một người đại biểu, chứ
không nên tiến hành bầu cử chung trong cả nước. Về tinh thần
của người lập pháp, được ông nêu lên trong Chương 1, Quyển 29, và được
khẳng định lại bởi một chính khách Pháp về sau là Abel Francois
Villemain thì: "Luật phải thật vô tư, không thiên vị. Chính người lập
pháp phải vô tư để không ghi tham vọng của mình vào tác phẩm luật"(1).
Và Montesquieu nhấn mạnh lại quan điểm chính phủ phải "trung dung" của
Aristote trong quyển 1, sách Politics: "Một chính phủ càng xa đảng phái
và càng gắn với phương sách trung dung thì càng được vững vàng. Nhiều
nhà lập pháp trong chính thể quý tộc đã cho người giàu quá nhiều và rút
bớt của người nghèo cũng quá nhiều. Lầm lẫn đưa tới cái xấu xa thực sự;
ưu thế của nhà giàu đánh đổ chính phủ nhiều hơn là ưu thế của người
nghèo, của muôn dân"(2). Có thể nhận thấy đây là một quan điểm rất tiến
bộ của Montesquieu, nhưng tiếc là ông lại không chỉ ra làm sao để có
được sự "vô tư" và "trung dung" ấy, nên ta chỉ có thể phỏng đoán dựa
trên tư tưởng của ông rằng, theo ông, cái mà một nhà lập pháp khôn ngoan
cần có chính là "đức hạnh" và trí thông minh. _____________ (1) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.228 (2) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.228
Về thời điểm họp bàn của cơ quan lập pháp, ông khẳng định nếu trong
thời gian dài mà cơ quan này không nhóm họp thì cũng sẽ không có tự do
nào hết, bởi hoặc nhà nước sẽ rơi vào tình trạng vô chính phủ do không
có nghị quyết lập pháp mới phù hợp hoàn cảnh, hoặc cơ quan hành pháp sẽ
nắm lấy và thao túng các nghị quyết lập pháp cũ, dẫn đến tình trạng
chuyên chế. Nhưng cơ quan lập pháp họp liên tục thì cũng bất hợp lý. Thứ
nhất nó là sự bất tiện với các đại biểu. Thứ hai nó là khó khăn cho cơ
quan hành pháp, bởi sẽ mãi chỉ lo bảo vệ quyền hạn chuyên trách của mình
mà không lo được việc chấp hành các đạo luật. Và cuối cùng, nếu như
nghị viện rơi vào tình trạng sa đoạ thì thật là vô phương cứu chữa, bởi
nó luôn hiện diện nên nhân dân sẽ nhận thấy ngay sự bại hoại của cơ quan
lập pháp, nhận thấy ngay sự vô nghĩa ở pháp luật, họ sẽ tức giận mà nổi
loạn, hoặc thờ ơ, hững hỡ với công việc quốc gia. Vậy là cơ
quan lập pháp phải có thời gian họp bàn nhất định, và sau thời gian đó
nó phải giải tán. Nhưng sự triệu tập và triển hạn của cơ quan này sẽ
diễn ra như thế nào ? Theo Montesquieu, cơ quan lập pháp không
nên tự mình triệu tập lấy mình mà cơ quan hành pháp, tuỳ theo hoàn cảnh
mà nó cho là hợp lý, sẽ quyết định thời gian và thời hạn họp bàn của
nghị viện. Vậy nghị viện có quyền tự triển hạn cho mình hay
không ? Nếu như vậy thì có thể nó sẽ không bao giờ tự triển hạn cả, và
như thế thật là nguy hiểm khi nghị viện có ý định công kích cơ quan hành
pháp. Và Montesquieu lại nhấn mạnh rằng ở nước Anh, nhà vua - người nắm
quyền hành pháp có thể triển hạn nghị viện và tổ chức bầu cử nghị viện
mới; nhưng ông cũng không loại trừ hình thức xác định nhiệm kỳ của nghị
viện bằng Hiến pháp. Về quyền hành pháp, Montesquieu cho rằng
nó phải nằm trong tay một vị vua chúa, bởi bản thân quyền hành pháp luôn
cần đến những hành động tức khắc, kịp thời, mà nếu phải qua một cuộc
họp bàn thì quyết định đưa ra thường đã muộn hơn yêu cầu thực tế. Ông
cũng khẳng định cần phải có một vị vua, bởi vua nắm quyền bằng con đường
thế tập chứ không phải do được bầu chọn ra; nếu cá nhân hành pháp lại
được nghị viện bầu ra thì đó thường là người trong nghị viện, và như thế
thì sẽ chẳng còn tự do nữa, bởi hai quyền lập pháp và hành pháp đã nhập
lại với nhau, con người hành pháp ấy có thể nhúng tay vào cả quyền này
lẫn quyền kia. Như đã nói ở trên, theo Montesquieu, nhà vua có
quyền triệu tập và triển hạn nghị viện, tuỳ theo hoàn cảnh mà vua thấy
thích hợp. Còn về quyền ngăn cản giữa hai cơ quan này thì sao? Theo
Montesquieu, cơ quan lập pháp không có quyền ngăn cản cơ quan hành pháp,
do hành pháp có những đặc điểm riêng của nó, mà ở đây có thể hiểu là
ông muốn nói đến "đặc quyền hành động" của cơ quan hành pháp, như theo
quan điểm của Locke. Nhưng cơ quan hành pháp phải có quyền ngăn cản cơ
quan lập pháp, bởi nếu không cơ quan lập pháp sẽ trở thành chuyên chế,
sẽ tạo ra những đạo luật để tự ban cho mình mọi thứ quyền hành, và xoá
bỏ các quyền lực khác. Ông khẳng định: "quyền lực hành pháp phải vận
dụng chức năng ngăn cản để tham gia việc lập pháp, nếu không nó sẽ bị
tước mất ưu quyền. Nhưng trái lại, nếu quyền lực lập pháp tham gia vào
việc hành pháp thì quyền hành pháp sẽ bị thủ tiêu"(1). Về sự
tham gia của quyền hành pháp vào chức năng lập pháp, ông chỉ rõ: "Quyền
hành pháp chỉ tham gia việc lập pháp bằng chức năng ngăn cản, chứ không
chen vào bàn cãi công việc, mà cũng không phải làm các kiến nghị"(2). Và
ông lấy ví dụ trong các nước cộng hoà thời kỳ cổ đại, trong các cuộc
Hội nghị nhân dân, nhà nước phải có quyền đưa ra kiến nghị và cùng bàn
cãi với dân, nếu không thì quyết nghị cuối cùng sẽ có sự hỗn độn, xa lạ
với chính thể, bởi dân chúng không phải lúc nào cũng hiểu hết được đất
nước bằng những nhà cầm quyền. Nhưng nếu như cơ quan lập pháp
không có quyền ngăn cản hoạt động của cơ quan hành pháp, nhưng nó vẫn
phải có chức năng xem xét các đạo luật do nó ban hành đã được thực thi
như thế nào, như thế mới đảm bảo cho sự tự do của công dân. Nhưng như
thế thì nó cũng không có quyền xét xử con người hành pháp, bởi cá nhân
con người hành pháp là bất khả xâm phạm, ông ta là cần thiết cho quốc
gia; nếu cơ quan lập pháp xâm phạm tới ông ta thì có nghĩa là nó đã trở
thành chuyên chế, và như vậy cũng không còn có tự do gì nữa cả. Montesquieu còn chỉ ra một vài vấn đề quan trọng trong hoạt động của hai cơ quan này, là vấn đề thu thuế, và vấn đề quân đội. _____________ (1)(2) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.117
Đầu tiên là vấn đề thu thuế. Ông khẳng định đây phải là công việc của
cơ quan lập pháp mà cơ quan hành pháp không thể can thiệp vào, do đó là :
"điểm quan trọng nhất của việc lập pháp"(1). Ông còn cho rằng cơ quan
lập pháp không nên quy định việc thu thuế một cách vĩnh viễn bởi như thế
thì cơ quan hành pháp cũng không còn phụ thuộc vào cơ quan lập pháp
nữa, và tự do của công dân cũng sẽ biến mất. Còn về vấn đề quân
đội, Montesquieu cho rằng nó phải nằm dưới sự quản lý của cơ quan hành
pháp chứ không phải của cơ quan lập pháp, như thế mới hợp với bản chất
của quân đội là hành động chứ không phải là bàn cãi. Nhưng "để cho người
hành pháp không áp bức được dân chúng thì quân đội trong tay cơ quan
hành pháp phải mang tính nhân dân, cùng lòng với dân", "và muốn được như
vậy thì chỉ có hai cách: hoặc là những người tham gia quân đội phải có
tài sản bảo đảm tính mạng của mình trước các công dân khác và chỉ tòng
quân trong thời hạn một năm; hoặc là có một quân đội thường trực mà quân
nhân thuộc tầng lớp thấp kém nhất trong nước, để cơ quan lập pháp muốn
giải tán nó lúc nào cũng được. Binh sĩ thường trực này ở ngay trong dân
chúng, không có doanh trại hay đồn luỹ tách biệt với dân"(2).
Còn về thứ quyền lực cuối cùng, quyền tư pháp, Montesquieu cho rằng nó
không nên được giao cho một cơ quan hay một cá nhân cụ thể, thường trực
như hai quyền lực kia, mà do một đoàn thể dân chúng được cử ra trong một
thời gian ngắn do luật định. Làm như thế thì thứ quyền lực đáng sợ với
người đời này mới không phải là một sự hữu hình, như thế người ta mới sợ
cơ chế cai trị chứ không phải là sợ các quan cai trị. Nghiêng
theo cơ cấu tổ chức nhà nước của Anh, ông cho rằng quyền tư pháp không
nên kết hợp với bộ phận nào của quyền lập pháp, nhưng vẫn có những
trường hợp ngoại lệ đặc biệt. Thứ nhất, khi người bị xét xử
thuộc tầng lớp quý tộc, nếu giao cho dân chúng xét xử thì thường do bị
ganh ghét mà bị xử sai lệch, hơn thế, người này lại không được hưởng
quyền cơ bản của công dân là chỉ bị xét xử bởi những người ở cùng đẳng
cấp với mình, bởi vậy, trong trường hợp này, Viện quý tộc sẽ nắm quyền
xét xử. _____________ (1)(2) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.118
Thứ hai, Viện quý tộc nên xem xét các vụ án mà điều chỉnh cho khi tuyên
án, bản án do các quan toà đưa ra bớt phần khắc nghiệt và không mù
quáng theo luật một cách máy móc. Thứ ba, khi một viên chức nhà
nước vi phạm quyền của dân chúng, gây tội ác với nhân dân, thì Viện thứ
dân sẽ tố cáo lên Viện quý tộc, và bộ phận trong Viện quý tộc không có
chung quyền lợi hay ý đồ với cả hai bên sẽ nắm quyền xét xử.
Quan điểm này của ông có những hạn chế nhất định khi vẫn chủ trương đề
cao các đặc quyền của tầng lớp quý tộc phong kiến, nhưng mặt khác vẫn có
điểm tiến bộ, khi đề cao thủ tục đàn hạch, đảm bảo sự phụ thuộc của cơ
quan hành pháp vào cơ quan lập pháp. Nói tóm lại, qua tác phẩm
Bàn về Tinh thần pháp luật của Montesquieu, ta có thể nhận thấy một bước
phát triển mới của tư tưởng phân chia quyền lực, khi tác giả đưa ra
quan điểm phân tách các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp một cách
triệt để, có sự giám sát, kiềm chế và đối trọng giữa các nhánh quyền
lực, và ngay giữa các cơ quan trong cùng một nhánh quyền lực với nhau,
nhằm ngăn chặn sự lạm quyền, những vẫn tạo nên một bộ máy nhà nước thống
nhất: "Cả ba quyền lực này do ràng buộc lẫn nhau mà dường như nghỉ ngơi
hay bất động. Tuy nhiên, vì tính tất yếu của mọi sự vật là vận động nên
cả ba quyền lực vẫn buộc phải đi tới, mà đi tới một cách nhịp
nhàng"(1). Tư tưởng của Montesquieu tuy vẫn còn mang nặng tư
duy bảo thủ phong kiến, đòi hỏi đặc quyền cho tầng lớp quý tộc, nhưng nó
vẫn là nền tảng nòng cốt cho tư tưởng phân chia quyền lực ngày nay, vẫn
đã và đang được áp dụng rộng rãi trong tổ chức bộ máy nhà nước ở nhiều
quốc gia như Anh, Mỹ ... Có thể khẳng định sau Aristote 1300
năm, với Charles Louis Montesquieu, tư tưởng phân chia quyền lực đã hồi
sinh trở lại, và với lần trở lại này nó đã thực sự trở thành một học
thuyết đầy đủ, trọn vẹn và hoàn hảo. Montesquieu xứng đáng được mệnh
danh là cha đẻ của tư tưởng phân quyền hiện đại. _____________ (1) C.L Montesquieu: Sđd, tr.117 Jean - Jacques Rousseau ( 1712 - 1778 ):
Bàn về Khế ước xã hội hay là các nguyên tắc của quyền chính trị ( Du
contrat social - ou principes du droit politique ) của Jean - Jacques
Rousseau là một tác phẩm mà tư tưởng của nó đã tạo ra sự chuyển biến lớn
lao trong xã hội và đã trở thành di sản trí tuệ quý báu cho nhiều thế
hệ. Trong 5 năm của cuộc Đại Cách mạng Pháp 1789-1794, Bàn về Khế ước xã
hội đã được coi như "một thứ kinh Coran của cách mạng dân chủ"(1).
Đúng như tên gọi của mình, Bàn về Khế ước xã hội trình bày một cách rất
hoàn thiện về học thuyết khế ước xã hội, mà nội dung chủ yếu của nó là
cho rằng: xã hội và nhà nước ra đời không phải do ý muốn của Chúa trời,
mà do những con người trong trạng thái tự nhiên liên kết lại với nhau
thông qua một bản khế ước. Theo khế ước, nhân dân có nghĩa vụ
phải phục tùng nhà nước, nhưng nhà nước cũng có nghĩa vụ phải chăm lo
cho nhân dân; xã hội và nhà nước chỉ có thể tồn tại nếu như mối quan hệ
hai chiều này được đáp ứng một cách thích đáng và đầy đủ. Một khi nhà
nước đã vi phạm những nguyên tắc của khế ước xã hội, lạm quyền, chà đạp
lên quyền lợi của nhân dân thì nhân dân có quyền lật đổ nhà nước ấy đi
mà thiết lập một bản khế ước mới, tạo dựng một nhà nước mới mà họ cho là
phù hợp hơn, vì lợi ích của họ hơn. Dù nội dung chủ yếu của
tác phẩm là trình bày về học thuyết khế ước xã hội, nhưng bên cạnh đó,
tác giả Rousseau cũng đã đưa ra những quan điểm rất mới mẻ và tiến bộ về
sự phân chia quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. _____________ (1) Jean - Jacques Rousseau: Bàn về Khế ước xã hội, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, năm 2006, tr. 27
Trong cả 4 quyển, 48 chương của tác phẩm, Rousseau không hề đề cập tới
việc: quyền lực nhà nước được chia quyền lập pháp, quyền hành pháp và
quyền tư pháp; hơn thế Rousseau còn cho rằng quyền lực tối cao là không
thể phân chia, ông cực lực phản đối việc chia tách các quyền: "Trong
chính trị của ta, tuy về nguyên tắc thì quyền lực tối cao là không thể
phân chia, nhưng trên thực tế người ta vẫn chia tách nó trong đối tượng.
Họ chia nó thành lực lượng và ý chí, thành quyền lực lập pháp và quyền
lực hành pháp, thành quyền quan thuế, quyền tư pháp, quyền chiến tranh,
thành cai trị đối nội và ứng phó đối ngoại; khi thì người ta trộn lẫn
các bộ phận, khi thì người ta tách rời chúng với nhau. Họ biến quyền lực
tối cao thành một thứ quái dị, ghép lại bằng nhiều mảnh, giống như họ
ghép một hình người từ nhiều cơ thể; mặt của anh này, tay của chị nọ,
chân của người kia ... sau khi tách rời các bộ phận trong cơ thể xã hội,
họ dùng uy tín tạp nham mà ghép các bộ phận ấy lại một cách tuỳ tiện,
chẳng ai hiểu ra làm sao cả"(1). Dù nêu cao tư tưởng quyền lực
là không thể phân chia, nhưng Rousseau lại cho rằng phân quyền là phương
cách tốt nhất để ngăn chặn sự lạm quyền, ông viết: "ai đã truyền lệnh
cho người thì không được truyền lệnh cho pháp luật. Và kẻ đã truyền lệnh
cho pháp luậtthì cũng không nên truyền lệnh cho người. Không như thế
thì luật pháp vốn là công cụ chế ngự tham vọng sẽ trở thành công cụ để
duy trì bất công"(2). Ông đưa ra dẫn chứng: " La Mã đến thời cực thịnh
thì bắt đầu quy vào cho một số người cả quyền lập pháp và quyền cai trị
tối cao; từ đó nảy sinh các tệ nạn độc đoán chuyên quyền và nhà nước La
Mã cổ đại bước dần vào chỗ suy vong"(3). Và ngay trong bố cục
của tác phẩm Khế ước xã hội đã toát lên rất rõ tư tưởng phân quyền. Nếu
như trong Quyển 1, ông dành để đề cập khái quát tới học thuyết khế ước
xã hội, thì Quyển 2 là để "bàn về người lập pháp" (đầu đề Chương 7) và
nghiên cứu về "các hệ thống lập pháp khác nhau" (đầu đề Chương 11);
Quyển 3 được dành trọn vẹn cả 18 chương để viết về chính phủ, hay cơ
quan hành pháp; và Quyển 4, dĩ nhiên là được dành để "bàn về cơ quan tư
pháp" và "chức quan tư pháp" (đầu đề Chương 5 và Chương 7). Sự
phân quyền của Rousseau không giống với Locke, và càng khác xa so với
Montesquieu, bởi ông vẫn luôn khẳng định một điều duy nhất rằng "những
bộ phận quyền hành được chia tách ra đều phụ thuộc vào quyền lực tối
cao" và "mỗi bộ phận đều chỉ thực hiện ý chí tối cao đó"(4) mà thôi.
Khi nói về sự phân tách quyền lập pháp và quyền hành pháp, ông viết:
"Mỗi hành động tự do đều có hai nguyên nhân tạo sinh ra nó. Một nguyên
nhân thường và một nguyên nhân vật lý. Nguyên nhân vật lý tức là cái lực
tác động thành việc làm ... Cơ thể chính trị cũng có những động lực như
thế: sức mạnh và ý chí. _____________ (1) J.J. Rousseau: Sđd, tr.81 (2)(3) J.J. Rousseau: Sđd, tr.101 (4) J.J. Rousseau: Sđd, tr.82
Một cái gọi là quyền lực lập pháp; cái kia gọi là quyền lực hành pháp.
Không có cái gì tự làm hoặc phải làm mà không dựa vào thứ quyền lực
ấy"(1). Như vậy có thể thấy, quyền lập pháp thực chất là ý chí, và quyền
hành pháp thực chất là sức mạnh của một cơ thể chính trị duy nhất, là
quyền lực tối cao. Rousseau chủ trương không phân quyền, nhưng thực chất
lại phân quyền tương đối giữa lập pháp và hành pháp. Về quyền lực lập pháp, theo Rousseau, "quyền lực lập pháp thuộc về nhân dân và chỉ có thể thuộc về nhân dân mà thôi"(2).
Ông khẳng định: "Dân chúng tuân theo luật phải là người làm ra luật.
Chỉ những người họp thành xã hội mới có quyền xử lý các điều kiện xã
hội". Nhưng ông cũng đặt ra một câu hỏi: "Làm sao mà một đám người muôn
vẻ, mù quáng, thường không biết mình muốn gì, hoạ hoằn lắm mới hiểu cái
gì là tốt cho mình, lại có thể cùng nhau thực hiện một công trình lớn
lao và khó khăn như công trình lập pháp ?"(3). "Chính vì thế mà cần phải
có một người lập pháp"(4); con người này sẽ giúp dân chúng nắm được
thời điểm, thấy được những món lợi và những mối nguy hại, giúp định
hướng cho ý chí của dân chúng luôn hướng tới một cái đích đúng đắn, vì
lợi ích chung của toàn thể. Vậy phải có một cá nhân phi thường
đứng ra vạch đường chỉ lối cho ý chí chung, và ghi chép ý chí chung ấy
thành luật. Nhưng "người lập pháp quyết không phải là một vị pháp quan
hay một quốc vương" bởi lập pháp "là một chức năng đặc biệt và cao cả,
không giống với chức năng của một con người cụ thể; bởi vì ai đã truyền
lệnh cho người thì không được truyền lệnh cho luật pháp. Và kẻ đã truyền
lệnh cho luật pháp cũng không nên truyền lệnh cho người. Không như thế
thì luật pháp vốn là công cụ chế ngự tham vọng sẽ trở thành công cụ để
duy trì bất công"(5). Đây chính là một biểu hiện cụ thể cho chủ trương
phân quyền của Rousseau. _____________ (1) J.J. Rousseau: Sđd, tr.121 (2) J.J. Rousseau: Sđd, tr.122 (3) J.J. Rousseau: Sđd, tr.97 (4) J.J. Rousseau: Sđd, tr.98 (5) J.J. Rousseau: Sđd, tr.101
Về hoạt động của con người lập pháp, như đã nói ở trên, Rousseau cho
rằng con người này chỉ đứng ra vạch đường chỉ lối cho ý chí chung, và
ghi chép lại ý chí chung ấy thành luật, chứ không có quyền quy định luật
một cách tuỳ tiện. Bởi " theo như Công ước cơ bản thì chỉ có ý chí
chung buộc các cá nhân phải theo nó. Người ta không bao giờ chắc rằng ý
chí cá nhân ( tức là ý chí của người lập pháp - nhóm NC ) tự nó phù hợp
với ý chí chung. Chỉ có thể tin như thế sau khi đã đặt ý chí cá nhân
dưới cuộc đầu phiếu tự do của dân chúng"(1). Nhưng ở đây lại
nảy sinh ra một điều là với những vấn đề không hiển nhiên, hay quá phức
tạp với ngôn ngữ bình dân thì làm sao có thể khiến những con người chỉ
thích thú những vấn đề liên quan tới quyền lợi của mình mà khó nhận ra
những điều lợi cho cộng đồng có thể nắm bắt và hiểu được ? Người lập
pháp không thể dùng sức mạnh của bạo lực cũng như lý lẽ của sức thuyết
phục được, nên họ phải dùng đến một thứ quyền uy khác, là quyền uy của
Trời. Những nhà lập pháp gắn cho Trời ý chí của chính họ, để dân chúng
phục tùng luật pháp của nhà nước y như phục tùng các quy luật tự nhiên.
Với những nhà lập pháp thông thái, luật pháp của họ có thể trở thành
những quy luật tự nhiên thực sự; nhưng với những nhà lập pháp dởm thì sự
nghiệp bịp bợm của họ sẽ tiêu tan ngay sau khi họ chết. "Mọi thứ uy tín
giả tạo chỉ làm nên những mối liên hệ tạm thời; chỉ có trí tuệ uyên bác
mới tạo nên những mối liên hệ vững bền"(2). Quyền hành pháp,
Rousseau trao cho chính phủ. "Vậy chính phủ là gì ? Chính phủ là một cơ
thể trung gian giữa các thần dân với cơ quan quyền lực tối cao, để hai
bên tương ứng với nhau, thi hành các luật, giữ gìn quyền tự do dân sự
cũng như tự do chính trị"(3). Về tổ chức của chính phủ, theo
Rouseau " quyền hành pháp không thể thuộc về cái chung như quyền lập
pháp hoặc quyền lực tối cao, bởi lẽ quyền hành pháp chỉ liên quan đến
những điều khoản cụ thể, không thuộc về thẩm quyền của luật cơ bản hoặc
của cơ quan quyền lực tối cao"(4). Bởi vậy, nó không thể trao vào tay
tập thể công dân như quyền lập pháp, mà phải thuộc về một cá nhân cụ
thể. Cá nhân ấy được gọi là pháp quan hoặc là nhà vua, tức là người cai
trị. Ở đây, tư tưởng phân quyền được thể hiện một cách gián tiếp khi ông
khẳng định quyền hành pháp không thể trao vào tay cơ quan quyền lực tối
cao - tức nhân dân, là cơ quan đã có quyền lập pháp. _____________ (1) J.J. Rousseau: Sđd, tr.102 (2) J.J. Rousseau: Sđd, tr.104 (3)(4) J.J. Rousseau: Sđd, tr.122
Về bản chất quyền lực của chính phủ, ông cho rằng nó chỉ là một cơ quan
thực hành, trong đó các viên chức thực hiện những điều mà cơ quan quyền
lực tối cao uỷ thác; cơ quan quyền lực tối cao có thể hạn chế, sửa đổi
hoặc thu hồi quyền hành của các viên chức này. Một chính phủ
dân sự hoàn hảo theo Rousseau phải là một thể trung gian giữa cơ quan
quyền lực tối cao và nhân dân; nó chấp hành các đạo luật của cơ quan
quyền lực tối cao, và có quyền ra các quyết định để lãnh đạo nhân dân.
Nhưng theo nội dung cơ bản của khế ước xã hội, toàn thể nhân dân chính
là cơ quan quyền lực tối cao, nên có thể coi Rousseau là một trong những
người tiên phong đề cập đến quyền công dân, khi cho rằng: chính phủ
lãnh đạo nhân dân, nhưng cũng đồng thời là phục vụ nhân dân. Trong một
xã hội dân sự hoàn hảo, cá nhân không phải là thần dân của chính phủ, mà
chỉ là thần dân của cả cộng đồng xã hội - chính là cơ quan quyền lực
tối cao; trong mối quan hệ với chính phủ, cá nhân là một công dân, tức
là có địa vị pháp lý ngang bằng với chính phủ, có nghĩa vụ phục tùng
chính phủ, nhưng đồng thời cũng có quyền đòi chính phủ phải phục vụ
những lợi ích công mà mình xứng đáng được hưởng. Rousseau còn
bàn về việc chính phủ lạm quyền và thoái hoá. Theo ông có hai con đường
dẫn chính phủ đến chỗ thoái hoá. Thứ nhất là chính phủ tự siết chặt mình
lại, tức là số pháp quan càng ngày càng ít, nghĩa là từ chính phủ dân
chủ với toàn thể công dân là các pháp quan, tới chính phủ quý tộc với
một số pháp quan là những công dân đặc biệt, và cuối cùng là chính phủ
quân chủ chỉ với một pháp quan duy nhất là nhà vua. Theo Rousseau đó là
con đường sa đoạ tự nhiên của chính phủ, bởi một nguyên nhân tất yếu là :
người cầm quyền luôn có xu hướng muốn nắm giữ quyền lực, và muốn lạm
dụng quyền lực trong tay mình... Con đường thứ hai dẫn đến sự thoái hoá
của chính phủ là khi chính phủ tự buông lỏng mình, nhưng theo Rousseau
việc chính phủ tự thay đổi như thế là không thể có được, nó chỉ có thể
là kết quả của một cuộc cách mạng. Chính phủ bị giải tán trong
hai trường hợp. Thứ nhất là khi người cầm đầu chính phủ không cai trị
theo luật, mà lấn át cơ quan quyền lực tối cao. Khi ấy, công ước cơ bản
của xã hội đã bị xoá bỏ; mọi công dân lại trở lại với trạng thái tự
nhiên, họ bị cưỡng bức mà phải phục tùng nhà nước chứ không phải vì
nghĩa vụ mà phục tùng. Thứ hai là khi các thành viên của chính phủ thoán
đoạt quyền hành một cách riêng rẽ, mà kết quả của nó là mỗi pháp quan
sẽ là một thủ tướng, quốc gia bị chia cắt, xé nhỏ, đồng thời với nó là
chính phủ cũng tiêu vong. Các thành viên của chính phủ - những
người được uỷ thác nắm quyền hành pháp, đơn giản chỉ là những công chức
được nhân dân bầu ra, và cũng có thể bị nhân dân bãi miễn. Người công
chức khi làm công việc của mình là đang làm nghĩa vụ của mình với quốc
gia, với cơ quan quyền lực tối cao, họ không có quyền đòi hỏi hay đặt
điều kiện gì với nhân dân. Nhưng sẽ ra sao khi người pháp quan có âm mưu
lạm quyền ? Với quyền hạn của mình, ông ta có thể ra lệnh kéo dài thời
gian triệu tập hội nghị toàn dân; và với sức mạnh hành pháp trong tay,
ông ta cũng có thể đe doạ hoặc trừng phạt những người dám lên tiếng tố
cáo, phê phán mình. Để ngăn chặn việc chính phủ chiếm đoạt
quyền lực như vậy, biện pháp đơn giản nhất và cũng là biện pháp khả thi
duy nhất là ban hành một đạo luật quy định sự nhóm họp của hội nghị công
dân một cách định kỳ, không cần đến thủ tục triệu tập chính thức. Có
như vậy, vị thủ tướng chính phủ mới không thể cấm đoán hội nghị toàn
dân, bởi nếu cấm có nghĩa là đã tự thừa nhận mình vi phạm luật, và công
khai đối nghịch với cả quốc gia. Trong các cuộc hội nghị toàn dân như
thế, ngoài việc bàn bạc các vấn đề quan trọng khác, thì có một việc mà
nhân dân không thể không làm, đó là bỏ phiếu xem có nên tiếp tục giữ
nguyên hình thức chính phủ hiện nay hay không, và nhân dân có vừa lòng
với các nhân viên của chính phủ hay không. Cách thức này hoàn toàn có
thể ngăn ngừa được việc chính phủ lạm dụng quyền hành pháp mà cướp đoạt
quyền lực tối cao. Cơ quan tư pháp được Rousseau nhắc tới trong
Bàn về Khế ước xã hội không giống hoàn toàn như cơ quan tư pháp theo
nghĩa hiểu của chúng ta ngày nay. Theo ông, đó là cơ quan "đặt mỗi bộ
phận" của nhà nước "vào đúng chỗ của nó, làm mối dây liên lạc và yếu tố
trung gian giữa chính phủ với nhân dân, hoặc giữa chính phủ với cơ quan
quyền lực tối cao, hoặc giữa cả ba vế ấy khi cần"(1). _____________ (1) J.J Rousseau: Sđd, tr.218
Dù không coi cơ quan tư pháp là một bộ phận cấu thành của nhà nước,
nhưng ông lại đặc biệt đề cao vai trò và vị trí của nó. Nhiệm vụ của nó
là bảo tồn luật và quyền lập pháp, bởi vậy mà nó được coi là "cơ quan
thiêng liêng nhất và được coi trọng nhất"(1). Điều đó được thể hiện ở
việc một nhà nước có thể chế tốt hay không phụ thuộc rất nhiều vào cơ
quan tư pháp. Một cơ quan tư pháp hoạt động thông minh sẽ là chỗ dựa
vững chắc cho một thể chế tốt: các vế cơ quan quyền lực tối cao, chính
phủ và nhân dân được giữ ổn định ở vị trí của mình, không có sự lạm
quyền cũng như sự rệu rã của các cơ quan. Một cơ quan tư pháp lạm quyền
sẽ dẫn tới sự tan rã của nhà nước, như nhà nước Sparta và nhà nước Lamã
thời cổ đại, khi các Giám chế quan ở Sparta và các Hộ dân quan ở Roma
ngày càng trở nên lộng quyền, nắm trong tay cả quyền lập pháp lẫn quyền
hành pháp thì nền cộng hoà ngày càng trở nên suy đồi, và cuối cùng là
nhà nước cũng tới chỗ suy vong. Muốn không cho cơ quan có ý
nghĩa trọng đại như cơ quan tư pháp trở nên lộng quyền thì chỉ có cách
là đừng để cho nó trở thành thường trực mãi mãi, phải quy định thời hạn
cho nó trong luật, để sự lạm quyền không thể thành thói thành nết của
các pháp quan. Hết thời hạn ấy, các pháp quan trở lại làm người dân bình
thường, và dân chúng lại tổ chức bầu cử ra các pháp quan mới. Cơ chế
bầu cử này đảm bảo cho các pháp quan được bầu ra theo luật sẽ chỉ dựa
vào luật mà làm việc chứ không bị phụ thuộc vào người khác, nếu theo cơ
chế chỉ định. Điều này tạo nên sự độc lập trong hoạt động của cơ quan tư
pháp. Về bản chất của cơ quan tư pháp, Rousseau cho rằng nó
chỉ là cơ quan nói lên lời phán xét của nhân dân, ông viết: "nó chỉ là
người công bố dư luận công cộng mà thôi. Xa rời chức năng đó thì mọi
quyết định của toà án đều là vớ vẩn và vô hiệu"(3). Dư luận của công
chúng, phán xét của nhân dân là một thứ luật, bởi chẳng phải toàn bộ
nhân dân chính là cơ quan quyền lực tối cao đó sao ? Pháp quan tư pháp
chỉ đơn giản là người bộ trưởng chấp hành điều luật đó thôi.
Trong trường hợp công chúng vẫn còn đang phân vân, chưa lựa chọn phán
xét một cách rõ ràng thì quyết định của pháp quan tư pháp là lời khẳng
định cuối cùng, nhằm ổn định dư luận nhân dân. Nhưng quyết định ấy chỉ
thực sự có hiệu lực khi nó không trái với pháp luật, với phong tục tập
quán quốc gia, và nhất là phải được công chúng chấp nhận, nếu không thì
nó hoàn toàn chỉ là một lời nói vô nghĩa, do dư luận là không thể bị
khuất phục và cưỡng chế. _____________ (1) J.J Rousseau: Sđd, tr.219 (2) J.J Rousseau: Sđd, tr.226
Trên đây là sự trình bày của Rousseau về sự cần thiết tất nhiên phải
phân chia quyền lực trong bộ máy nhà nước, nhưng ông cũng để tâm nghiên
cứu tới chế độ độc tài, khi một cá nhân nắm toàn bộ quyền lực nhà nước
trong tay. Theo ông, không phải lúc nào cơ quan quyền lực tối
cao cũng có thể nhìn thấy trước để ban hành những đạo luật, đưa ra những
quyết nghị một cách kịp thời. Mà trong những cơn khủng hoảng như thiên
tai hay chiến tranh thì việc chờ cơ quan quyền lực tối cao họp bàn là
điều không thể. Bởi vậy nên trong nhưng hoàn cảnh mà sự tồn vong của
quốc gia đang bị đe doạ, thì cần phải có một nhà độc tài. Nhà
độc tài tựa hồ như đứng trên luật pháp mà điều hành quốc gia, nhưng thực
ra không phải như thế. Mệnh lệnh của nhà độc tài mãi mãi chỉ là chỉ thị
hay quyết định, chứ không thể là luật. Nhà độc tài không thể xoá bỏ
luật pháp, hay bắt luật pháp phải nói lên ý chí của riêng mình, nhà độc
tài chỉ có thể tạm thời bắt luật pháp phải im tiếng mà thôi.
Trong chế độ độc tài, khi cơ quan quyền lực tối cao đã tạm thời bị gác
sang một bên, thì ý chí chung của nhân dân vẫn tồn tại, hơn thế, ý chí
chung này lại còn là cơ sở duy nhất và cao nhất để giữ vững chế độ độc
tài: đó là nguyện vọng nhà nước không bị tiêu diệt. Trong một
nhà nước mà tập quán đã có từ lâu đời thì người ta không sợ nhà độc tài
sẽ lạm dụng quyền uy hoặc mưu toan kéo dài chế độ độc tài quá hạn định,
trái lại, dường như ông ta chỉ cố làm cho xong nhiệm vụ của mình để hất
bỏ chức vụ ấy đi, vì quyền lực được trao vào tay ông ta quá lớn, sứ mạng
ông ta phải đảm nhiệm là quá nặng nề, và thật là nguy hiểm khi ông ta
phải đứng vào vị trí của chính pháp luật. Nói tóm lại, qua tác
phẩm Bàn về Khế ước xã hội hay là các nguyên tắc của quyền chính trị của
Rousseau, ta nhận thấy một quan điểm hết sức mới lạ về tư tưởng phân
chia quyền lực cũng như sự áp dụng của tư tưởng này trong bộ máy nhà
nước. Rousseau chủ trương nêu cao tinh thần tập quyền, tất cả quyền lực
nhà nước nằm trong tay cơ quan quyền lực tối cao tức toàn thể công dân
trong xã hội. Nhưng ông lại chỉ ra rằng phân chia quyền lực nhà nước
thành quyền lập pháp và hành pháp, giao chúng vào tay của cơ quan quyền
lực tối cao và chính phủ là cách thức hợp lý duy nhất để đảm bảo sự hoạt
động có hiệu quả của nhà nước, cũng như ngăn chặn được xu hướng lạm
quyền của cơ quan hành pháp. Ngoài ra ông còn nêu lên vai trò quan trọng
của cơ quan tư pháp trong việc đảm bảo cho sự hoạt động ổn định của nhà
nước, cũng như cho sự cân bằng giữa các vế cơ quan quyền lực tối cao,
chính phủ và nhân dân. 3. Học thuyết phân chia quyền lực trong giai đoạn hiện nay
Trên nền tảng tiếp thu những lý luận của các học giả đi trước, cũng như
từ kinh nghiệm và nhu cầu thực tiễn trong công cuộc xây dựng bộ máy nhà
nước, nội dung của tư tưởng phân chia quyền lực ngày nay đã có nhiều
thay đổi. Ngày nay, khi nhắc đến phân chia quyền lực, người ta
không còn chỉ nghĩ đến việc phân lập theo chiều ngang thành các nhánh
quyền lực, mà còn là sự phân chia quyền lực theo chiều dọc giữa chính
quyền trung ương và chính quyền địa phương trong một quốc gia. Báo cáo
về tình hình phát triển thế giới năm 1997 của Ngân hàng Thế giới khẳng
định "cơ chế lập hiến kinh điển" của ngày nay " là việc phân lập theo
chiều ngang và chiều dọc các quyền lực "(1). Như đã nói ở trên,
ngày nay, tư tưởng phân chia quyền lực không còn được chú trọng nghiên
cứu trên phương diện lý luận đơn thuần như dưới thời cách mạng tư sản
nữa, mà đã được biểu hiện cụ thể trong cách thức tổ chức bộ máy nhà
nước, được ghi nhận cụ thể trong hiến pháp của nhiều nhà nước. Bởi vậy,
khi nghiên cứu về tư tưởng phân chia quyền lực trong giai đoạn hiện nay,
ta phải xem xét qua cách thức tổ chức bộ máy nhà nước ở các nước. _____________
(1) Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi, Báo cáo về tình hình
phát triển thế giới năm 1997 của Ngân hàng Thế giới, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, năm 1998, tr.125 Phân quyền ngang: Phân
quyền ngang là cách thức phân quyền cổ điển đã có từ thời của Aristote,
và được hoàn thiện bởi Locke, bởi Montesquieu, và Rousseau. Do đã trình
bày về tư tưởng của các nhà học giả này ở phần trên, và do nội dung chủ
yếu của cách thức phân quyền này không có nhiều thay đổi trong thời đại
ngày nay, nên chúng em sẽ không trình bày nhiều về cách thức phân quyền
này, mà chỉ xin nhấn mạnh vào hai vấn đề: Thứ nhất, nội dung chủ yếu của phân quyền ngang là:
- Quyền lực nhà nước được phân chia thành các nhánh khác nhau, do các
cơ quan khác nhau nắm giữ, để không một cá nhân hay tổ chức nào nắm được
trọn vẹn quyền lực nhà nước. Cụ thể: Nghị viện nắm quyền lập pháp,
chính phủ nắm quyền hành pháp, và toà án nắm quyền tư pháp. -
Có sự chuyên môn hoá trong hoạt động của các cơ quan quyền lực công, mỗi
cơ quan chỉ hoạt động nhằm thực hiện chức năng riêng của mình, không
ảnh hưởng tới công việc của các cơ quan khác. - Giữa các cơ
quan quyền lực tồn tại thế cân bằng, các cơ quan có thể giám sát, kiểm
tra, đối trọng và chế ước lẫn nhau, để không cho một cơ quan nào có khả
năng lạm quyền. Thứ hai, ở nhiều nhà nước hiện nay, tư tưởng
phân quyền ngang có một số thay đổi, mà chủ yếu là ở số nhánh quyền lực
được phân chia ra từ quyền lực nhà nước. "Thuyết "Tam quyền phân lập" và
bộ máy nhà nước tư sản hiện đại" của Viện thông tin khoa học xã hội -
Viện khoa học xã hội Việt Nam đã trình bày khá kĩ về vấn đề này, chúng
em chỉ xin nhắc lại một số dẫn chứng cụ thể. Ở một số nước Mỹ
Latinh, quyền lực nhà nước không phải chỉ được chia thành 3 quyền là lập
pháp, hành pháp và tư pháp, mà ngoài ra còn có quyền lực thứ tư, là
quyền bầu cử. Quyền này thuộc về tổ chức bầu cử (gồm toàn bộ các công
dân đạt đến độ tuổi luật định, và đáp ứng các yêu cầu nhất định). Về tổ
chức, quyền này thuộc về Hội đồng bầu cử (ở cấp độ toàn quốc). Hội đồng
này giải quyết tranh chấp giữa các ứng cử viên, tuyên bố về các cuộc bầu
cử. Việc lập thêm quyền này và sự biểu thị về mặt tổ chức - pháp lý của
nó gắn với đặc điểm của nhóm nước thường xảy ra các cuộc đảo chính, hay
các vị tổng thống thất bại trong cuộc bầu cử ít khi tự nguyện rời bỏ vị
trí của mình. Trong Dự thảo Hiến pháp Nicaragoa năm 1986 do
Đảng Xã hội - Thiên chúa giáo đối lập đưa ra còn nhắc tới năm thứ quyền
lực, ngoài bốn quyền nói trên còn có quyền kiểm tra do Tổng thanh tra
nhà nước và bộ máy dưới quyền ông ta thực hiện. Hiến pháp năm
1976 của Angiêri quy định tới 6 loại quyền lực, đó là: quyền chính trị
thuộc về Đảng cầm quyền; quyền lập pháp thuộc về Nghị viện; quyền hành
pháp thuộc về Tổng thống và Chính phủ; quyền tư pháp thuộc về Toà án;
quyền kiểm tra thuộc về các cơ quan khác nhau của nhà nước ( không có
một hệ thống thống nhất ); và quyền tổ chức thuộc về cơ quan có chức
năng xây dựng và sửa đổi Hiến pháp. Ở một số nước khác, tuy vẫn
có sự phân công hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhưng đứng trên tất
cả lại là một cá nhân hay một cơ quan đặc thù. Như Hiến pháp Iran năm
1979 quy định toàn bộ quyền lực của nhà nước thực tế thuộc về người đứng
đầu giáo hội. Hiến pháp Zair năm 1980 quy định quyền lực nhà nước về
mặt tổ chức là thống nhất, do đảng cầm quyền có tên gọi Phong trào nhân
dân cách mạng nắm giữ. Mọi công dân trong nước đều là đảng viên của
Đảng. Các cơ quan trong nước - Hội đồng lập pháp ( Nghị viện ), Hội đồng
hành pháp ( Chính phủ ), Hội đồng Tư pháp ( hệ thống Toà án ) được coi
là các cơ quan của Đảng(1). Cách thức phân quyền ngang được áp
dụng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước các nước hiện đại
một cách rộng rãi, và được biểu hiện dưới nhiều mức độ khác nhau, mà rõ
ràng nhất là qua hình thức chính thể của các nhà nước. Có ba mức độ biểu hiện của cách thức phân quyền ngang trong bộ máy nhà nước tư sản hiện nay là:
- Phân quyền cứng rắn được áp dụng trong chính thể Cộng hoà Tổng thống,
như ở các nước Hoa Kỳ, Phillipine, ... và đặc biệt phổ biến ở các nước
Mỹ Latinh. Đặc điểm của chính thể này là Tổng thống nắm toàn quyền hành
pháp, mà các biểu hiện cụ thể là Tổng thống được bầu ra do nhân dân trực
tiếp bỏ phiếu chứ không phải do Nghị viện bầu chọn; Tổng thống có quyền
thành lập Chính phủ, và các thành viên Chính phủ chỉ chịu trách nhiệm
trước Tổng thống chứ không chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Tổng thống
có quyền phủ quyết các dự luật do Nghị viện thông qua. Khi dự luật bị
phủ quyết, Nghị viện phải thảo luận lại và dự luật chỉ được thông qua
khi có đủ từ 2/3 số nghị sĩ trở lên bỏ phiếu thuận. Sự phân quyền một
cách cứng rắn, rạch ròi trong hình thức chính thể này được thể hiện qua
việc Nghị viện không có quyền giải tán Chính phủ, cũng như Tổng thống
không có quyền giải tán Nghị viện; các Thẩm phán được cơ quan hành pháp
bổ nhiệm với nhiệm kỳ suốt đời, _____________ (1) Viện
thông tin khoa học xã hội - Viện khoa học xã hội Việt Nam: Thuyết " Tam
quyền phân lập " và bộ máy nhà nước tư sản hiện đại, Hà Nội, năm 1992
và hoạt động xét xử mang tính độc lập cao. Tổng thống có thể bị xét xử
theo thủ tục đàn hạch nếu vi phạm pháp luật ( Hạ viện là cơ quan công
tố, còn Thượng viện là cơ quan xét xử ). - Phân quyền mềm dẻo
được áp dụng trong chính thể đại nghị, như ở các nhà nước quân chủ Anh,
Nhật..., và các nhà nước cộng hoà Đức, Italia... Đặc điểm của chính thể
này là Nguyên thủ chỉ mang tính hình thức, không có bất cứ thực quyền
nào, mà các biểu hiện cụ thể là Nguyên thủ do được thừa kế ( ở các nước
quân chủ ) hoặc do được Nghị viện bầu ra ( ở các nước cộng hoà ); Nguyên
thủ thành lập Chính phủ với sự tín nhiệm của Nghị viện. Thủ tướng Chính
phủ là thủ lĩnh đảng chiếm ưu thế trong Nghị viện. Chính phủ vừa chịu
trách nhiệm trước Nguyên thủ vừa chịu trách nhiệm trước Nghị viện; Nghị
viện có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ và buộc Chính phủ phải
giải tán. Nguyên thủ quốc gia có quyền giải tán Hạ nghị viện. Hệ thống
Toà án hoạt động xét xử trên nguyên tắc độc lập cao, chỉ tuân theo pháp
luật; các Thẩm phán được chỉ định với sụ tham gia từ cả hai phía lập
pháp và hành pháp. - Phân quyền trong chính thể cộng hoà hỗn
hợp, như ở các nước Pháp, Nga, Bồ Đào Nha, Hàn Quốc, Singapore... Đặc
điểm của chính thể này là sự tham gia hạn chế của Tổng thống vào công
việc hành pháp, mà các biểu hiện cụ thể là Tổng thống do nhân dân bầu
ra; Tổng thống chỉ đứng đầu Nhà nước chứ không đứng đầu Chính phủ, nhưng
vẫn có quyền chủ toạ các phiên họp của Chính phủ (như ở Nga) hay của
Hội đồng Bộ trưởng (như ở Pháp). Tổng thống có quyền bổ nhiệm Thủ tướng
nhưng phải được sự phê chuẩn của Nghị viện; Chính phủ vừa chịu trách
nhiệm trước Tổng thống vừa chịu trách nhiệm trước Nghị viện; Nghị viện
có thể bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ, và buộc Chính phủ phải giải
tán. Tổng thống có quyền giải tán Hạ nghị viện. Toà án xét xử theo
nguyên tắc độc lập, chỉ tuân theo pháp luật; các Thẩm phán do cơ quan
hành pháp chỉ định. Phân quyền dọc: Như đã nói, phân
quyền dọc là cách thức phân quyền mới, nói mới là so với việc áp dụng nó
trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản, chứ thực ra lịch
sử của tư tưởng phân quyền dọc không hề thua kém so với cách thức phân
quyền ngang. Nhìn lại dòng lịch sử, ta có thể nhận ra chính Polybe và
Cicéron, những học giả đưa ra tư tưởng về sự cai trị hỗn hợp giữa các
dạng chính quyền của vua, của quý tộc và của nhân dân, chính là những
người đầu tiên đề ra tư tưởng phân quyền dọc. Về nội dung, tư tưởng phân quyền dọc bao hàm các ý chính như sau: - Tồn tại hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước do dân bầu ở các cấp địa phương, song song với bộ máy nhà nước trung ương.
- Có sự phân công nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn cụ thể giữa chính
quyền trung ương và chính quyền địa phương trong những lĩnh vực cụ thể;
mà chủ yếu là chính quyền trung ương sẽ giải quyết các vấn đề công, vì
lợi ích của cả cộng đồng xã hội, như vấn đề về an ninh - quốc phòng, về
chủ quyền quốc gia, về dịch vụ công... ; còn chính quyền địa phương sẽ
phụ trách các vấn đề định hướng phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá ở
địa phương, ngoài ra còn có thể chủ động tiến hành hợp tác, giao lưu với
các địa phương khác hoặc các tổ chức quốc tế trong khuôn khổ quyền hạn
của mình. - Tổ chức và hoạt động của các cấp chính quyền trong
nhiệm vụ và quyền hạn của mình là tương đối độc lập với nhau. Chính
quyền trung ương không có quyền điều hành, chỉ đạo chính quyền địa
phương, mà chỉ có quyền xây dựng chủ trương, chính sách, tạo dựng khuôn
khổ pháp lý, và kiểm tra, giám sát hoạt động của các chính quyền cấp
dưới, mọi vi phạm của chính quyền địa phương sẽ do Toà án Hành chính xét
xử độc lập. Với nội dung chủ yếu nêu trên, cách thức phân
quyền dọc còn được gọi bằng những cái tên khác như phi tập trung hoá hay
tản quyền. Không giống với cách thức phân quyền ngang là có sự
ảnh hưởng qua lại với hình thức chính thể của nhà nước, cách thức phân
quyền dọc có thể tồn tại ở gần như hầu khắp các chính thể nhà nước hiện
đại, như Philipine với chế độ Cộng hoà tổng thống, Đức với chế độ Cộng
hoà đại nghị, Pháp với chế độ Cộng hoà hỗn hợp, và New Zealand với chế
độ Quân chủ đại nghị ( mà nguyên thủ nhà nước hiện nay chính là nữ hoàng
Anh ) đều thực hiện nguyên tắc phi tập trung hoá này. Phân quyền dọc có thể thực hiện theo hai phương pháp:
Thứ nhất là phân quyền theo lãnh thổ: là cách phân quyền của chính
quyền trung ương cho chính quyền địa phương theo địa giới hành chính -
lãnh thổ, mà có các biểu hiện chính là: - Chính quyền trung
ương giao quyền tự quyết, tự quản lý cho chính quyền địa phương. Trong
phạm quyền hạn được giao, chính quyền địa phương có thể tự mình ra nghị
quyết mà không cần xin ý kiến từ cấp trên, chỉ tuân theo đúng pháp luật
và quy định của trung ương. Chính quyền trung ương chỉ thực hiện sự kiểm
tra, giám sát với các nghị quyết của địa phương, và nếu xét thấy chúng
có sai phạm thì có quyền đình chỉ, bãi bỏ, và tiến hành kỷ luật hành
chính - Chính quyền địa phương có ngân sách độc lập, được tự
quản lý việc thu chi theo khuôn khổ pháp luật; địa phương có quyền vay
tiền, phát hành công trái địa phương... - Cơ cấu tự trị yêu cầu
chính quyền địa phương phải có một cơ quan ra nghị quyết và một cơ quan
thi hành các nghị quyết đó, giống như mô hình Nghị viện và Chính phủ ở
địa phương. Thứ hai là phân quyền theo ngành chuyên môn: là cách phân quyền giữa các bộ chuyên môn với chính quyền địa phương. Ví dụ1)
Việc quản lý đất đai ở Malaysia được giao hoàn toàn cho chính quyền các
tỉnh. Chính quyền trung ương chỉ ban hành các quy định về thể chế mà
không quyết định việc việc phân phối đất đai. Các cơ quan trung ương
muốn sử dụng đất phải được chính quyền tỉnh phân phối và phải trả tiền
thuê đất cho chính quyền tỉnh. Ở New Zealand, Chính phủ không
quản lý bất kỳ một bệnh viện công nào, tất cả các bệnh viện được giao về
cho các bang. Các quan chức cao cấp của Chính phủ khi bị bệnh cũng đều
phải đến các bệnh viện ở bang. Phân quyền dọc hay Phi tập trung
hoá ở mỗi nhà nước cũng có những điểm khác biệt nhất định, tuỳ thuộc
vào đặc điểm của từng nhà nước. _____________ (1) LS Nguyễn Văn Thảo: Xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nxb Tư pháp, Hà Nội, năm 2006, tr.273
(2) ThS Nguyễn Thị Minh Hà: Phân cấp quản lý giữa chính quyền Trung
ương và chính quyền địa phương ở Philipine, Tạp chí Tổ chức nhà nước số
4/2002. Ở Philipine(2), mặc dù về mặt hành chính, bộ máy nhà
nước vẫn được chia thành năm cấp độ, là cấp Trung ương, cấp tỉnh (79 đơn
vị), cấp thành phố (115 đơn vị), cấp đô thị (1497 đơn vị) và cấp cơ sở
(tiếng Philippine là Barangay - 41.956 đơn vị), song mỗi đơn vị địa
phương có quyền tự chủ rất lớn, từ quyền thu thuế, định đoạt các công
việc, đến việc quyết định ngân sách của mình sao cho đạt hiệu quả cao
nhất. Công cuộc cải cách theo hướng phi tập trung hoá được thực
hiện từ cuối những năm 80 của thế kỷ trước, mà mục tiêu chủ yếu của nó,
theo quy định Hiến pháp và Luật Chính quyền địa phương, là: -
Trao quyền tự chủ cho chính quyền địa phương trong việc định hướng, phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở địa phương, chủ động hợp tác với các
đối tác trong và ngoài nước. - Nâng cao năng lực hoạt động của chính quyền địa phương để hoạt động có hiệu quả.
- Tạo ra sự thay đổi trong nhận thức của người lãnh đạo địa phương. Với
cơ chế phân quyền như vậy, người lãnh đạo địa phương phải đối mặt trực
tiếp với các thách thức và cũng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân. _____________
(1) Đặng Quốc Tiến: Về "phân cấp, phân quyền - cải cách hành chính và
tự quản" tại Cộng hòa liên bang Đức, Tạp chí Tổ chức nhà nước số 8/2004 Để thực hiện mục tiêu này, về tổ chức các cấp chính quyền địa phương, Luật chính quyền địa phương ( năm 1991 ) quy định:
- Cơ quan lập pháp: Hội đồng địa phương hình thành theo cơ chế dân cử,
hoạt động theo nguyên tắc độc lập cao, có thể tự mình đưa ra các quyết
định mang tính quy phạm để thực hiện nhiệm vụ và kế hoạch phát triển ở
địa phương. - Cơ quan hành pháp: Người lãnh đạo bộ máy hành
chính ở các cấp tỉnh, thành phố và đô thị là tỉnh trưởng và thị trưởng,
còn ở cấp cơ sở là chủ tịch. Giúp việc cho nhà lãnh đạo này là các văn
phòng, uỷ ban như Hội đồng phát triển địa phương, ban y tế địa phương,
ban giáo dục địa phương... Người đứng đầu các ban, ngành này được hình
thành theo cơ chế bổ nhiệm. - Cơ quan tư pháp: là hệ thống cơ quan có tổ chức và hoạt động độc lập.
Ở Đức(1), về mặt hành chính, bộ máy nhà nước được chia thành ba cấp độ:
cấp liên bang, cấp bang (16 đơn vị), và cấp cơ sở ( gồm huyện, thành
phố thuộc bang, thành phố thuộc huyện và xã ). Luật pháp quy định rất rõ
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của từng cấp, theo nguyên
tắc việc của cấp nào, cấp đó thực hiện và chịu trách nhiệm. Cơ quan hành
chính cấp trên không có quyền ra lệnh, can thiệp vào công việc cơ quan
của cấp dưới. Mỗi cấp thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của
pháp luật. Cơ quan cấp trên chỉ có quyền theo dõi, giám sát; nếu cấp
dưới thực hiên sai pháp luật thì cơ quan cấp trên đưa ra toà để Toà án
phán quyết. Ngược lại, khi cơ quan cấp dưới thấy cơ quan cấp trên can
thiệp sai vào công việc của mình thì có quyền kiện ra Toà án Hành chính
để Toà án phán quyết. Phân cấp, phân quyền trong bộ máy nhà
nước Đức có nguồn gốc lâu đời, là một giá trị truyền thống có từ thời
Trung cổ, mà nguyên tắc chủ yếu là: cơ quan cấp dưới có thể làm mọi điều
có thể làm được, những việc mà cơ quan cấp dưới không thể làm được thì
cơ quan cấp trên phải làm. Theo nguyên tắc này, mỗi cấp chính quyền ở
Đức chỉ đảm nhiệm một số loại việc nhất định, và không trùng lặp nhau.
Cơ cấu chính quyền ở mỗi địa phương bao gồm Hội đồng và Cơ quan hành
chính do Thị trưởng đứng đầu. Hội đồng là cơ quan dân cử có chức năng
lập pháp, lập quy trong khuôn khổ lãnh thổ địa phương cũng như khuôn khổ
lĩnh vực thẩm quyền của mình. Số lượng đại biểu của Hội đồng phụ thuộc
vào số dân của đơn vị đó, số dân càng lớn thì số lượng đại biểu cũng
càng nhiều. Thị trưởng, chủ tịch uỷ ban hành chính cấp xã phần lớn được
dân cư bầu trực tiếp, một số nơi thì do Hội đồng bầu ra. Các xã nhỏ thì
thường có chủ tịch Hội đồng đồng thời là chủ tịch uỷ ban hành chính, còn
các xã rất nhỏ, có dân số khoảng 1000 - 3000 người thì vẫn có Hội đồng
riêng, nhưng một vài xã sẽ chỉ có một uỷ ban hành chính chung để điều
hành, quản lý. Nói tóm lại, phân quyền dọc hay phi tập trung
hoá ở các nước hiện nay cũng có nhiều mức độ khác nhau, từ Philippine
mới dừng lại ở mức độ tự chủ tương đối của chính quyền địa phương, tới
Đức đã thừa nhận mỗi cấp chính quyền chỉ chuyên trách một số lĩnh vực
nhất định, không có sự trùng lặp, chồng chéo quản lý giữa các cấp.
Nguyên tắc phân quyền dọc còn được thể hiện trong mối liên hệ giữa nhà
nước liên bang với các nhà nước thành viên. Có thể lấy ví dụ là nhà nước
Liên bang Thụy Sĩ (được gọi là Confoederatio Helvetica) với 23 bang
(được gọi là các canton). Điều 3 Hiến pháp Liên bang Thụy Sĩ
quy định về các bang, có ghi rõ: "Các bang được tự trị trong giới hạn mà
sự tự trị đó không vi phạm tới Hiến pháp Liên bang, được thực hiện mọi
quyền - những quyền không phải chuyển giao cho chính quyền Liên
bang"(1). Và chế định này được làm rõ trong Chương 3: Liên bang, các
Bang và các Cộng đồng dân cư. Với 94 điều, chương này quy định quyền,
nghĩa vụ cũng như giới hạn tự trị của các bang. Theo đó, mỗi bang được
phép có hiến pháp, chính phủ, nghị viện, tòa án và hệ thống pháp luật
riêng, và được hưởng một nền tự do và tự quyết rộng rãi. Việc
tổ chức chính quyền ở các bang hoàn toàn do nhân dân các bang tự quyết
định. Ở hai bang nhỏ là Appenzell Inner - Rhodes và Glarus, người dân tự
họp lại và quyết định các vấn đề quan trọng của bang; trong khi ở các
bang khác lớn hơn, thì công việc này được giao cho cơ quan đại diện dân
cử. Chính quyền bang được toàn quyền quản lý hệ thống giáo dục,
hệ thống dịch vụ công, được phép có các đơn vị cảnh sát riêng; các bang
còn được tự quyết trong việc đặt thuế trên lãnh thổ của mình. Ví dụ
theo Hiến pháp bang Fribourg, chính quyền bang có toàn quyền quyết định
về các vấn đề kinh tế, xã hội, tài chính, giao thông, năng lượng, văn
hóa, nông nghiệp, quản lý các công trình công cộng, điều tra, xét xử, và
cả vấn đề quốc phòng. Nguồn gốc của sự phân chia quyền lực nhà
nước giữa chính quyền liên bang và chính quyền bang nằm ở bản chất của
nhà nước liên bang. Đó là sự kết hợp của nhiều nhà nước thành một nhà
nước. Bởi vậy, quyền lực của nhà nước liên bang xuất phát từ quyền mà
các nhà nước bang đã chuyển giao cho nó, đó là quyền đối ngoại, quyền
quốc phòng - an ninh chung, ngoài ra, còn có thể có thêm các quyền về
bảo vệ môi trường, giao thông (quản lý trên phạm vi toàn liên bang),
năng lượng (quản lý trên phạm vi toàn liên bang hoặc đối với nguồn năng
lượng đặc biệt như năng lượng nguyên tử)... Do đó, có thể cho rằng phân
quyền giữa liên bang và bang là tất yếu, không tránh khỏi. Tuy nhiên, xu
hướng hiện nay ở các nhà nước liên bang là tập trung dần quyền lực vào
chính quyền liên bang. Việc tập trung dần quyền lực vào chính
quyền liên bang được thể hiện ở Thụy Sĩ thông qua việc Hiến pháp Liên
bang 1999 quy định nhóm các bang lại thành bảy khu vực, mỗi khu vực có
một thủ phủ, và có một ủy ban liên chính quyền các bang, là cơ quan tập
chung giải quyết các vấn đề chung của các bang, như văn hóa, giáo dục,
môi trường... Uỷ ban này do chính quyền các ban bầu ra, nhưng lại phải
chịu sự kiểm tra, giám sát và sự chỉ đạo mang tính định hướng từ chính
quyền liên bang. _____________ (1) Federal
Constitution of The Swiss Confederation, Adopted in the votation of
April 18, 1999, certified as accurate by decision of the Federal
Government of August 11, 1999 and based on the Federal Decree of
December 18, 1998. Tóm lại, phân quyền dọc là biểu hiện sự coi
trọng cấp chính quyền cơ sở, là biểu hiện sự thực hiện triệt để tư tưởng
dân chủ trong quản lý nhà nước, phát huy sức mạnh trực tiếp từ nhân
dân, từ cơ sở. Đây có thể coi là một cuộc cách mạng mới trong xây dựng
và tổ chức bộ máy nhà nước hiện đại theo hướng dân chủ, tiến bộ.
Phân chia quyền lực là tư tưởng chính trị - pháp lý đã xuất hiện từ rất
sớm trong lịch sử, và đã được phát triển ngày càng hoàn thiện hơn cùng
với sự tiến bộ của loài người. Ngày nay, phân chia quyền lực đã trở
thành nguyên tắc hàng đầu trong xây dựng và tổ chức bộ máy nhà nước hiện
đại, là một trong những tiêu chí quan trọng nhất để xây dựng nhà nước
pháp quyền - mô hình nhà nước mang đầy tính nhân bản, nhân văn - nhà
nước của nhân dân, do nhân dân lập ra, vì nhân dân mà phục vụ.
0 comments:
Post a Comment