Thẩm phán Tòa án Tối cao Hoa Kỳ: Khó vào, khó ra
Theo thống kê, cứ 22 tháng là lại có một vị thẩm phán mới xuất hiện tại
Tòa án Tối cao Hoa Kỳ. Trong những thập niên gần đây, các đề cử vào Tòa
án Tối cao đã trở thành những sự kiện chính trị quan trọng ở
Washington. Điều này lý giải bằng sự gia tăng ảnh hưởng của cơ quan tư
pháp này - các quyết định của Tòa án Tối cao càng có ý nghĩa lớn thì giá
trị của những đề cử đó càng có giá. Để trở thành thẩm pháp Tòa
án Tối cao Hoa Kỳ không nhất thiết phải là luật gia, thậm chí cũng
không cần phải có bằng đại học nữa. Tuy nhiên, các ứng cử viên vào cương
vị này phải trải qua một quá trình kiểm tra cực kỳ ngặt nghèo - tất cả
những phẩm chất chuyên môn và cá nhân đều được phân tích kỹ lưỡng và các
cơ quan an ninh ra sức "bới lông tìm vết" trong quá khứ của họ.
Hiến pháp Hoa Kỳ ghi rõ những yêu cầu về độ tuổi, nơi cư trú và quốc
tịch của các ứng cử viên Tổng thống và các nghị sĩ. Tuy nhiên, đối với
các thẩm phán của Tòa án Tối cao thì Hiến pháp lại không có những yêu
cầu tương tự, ngoại trừ quy định: ứng cử viên nào cũng phải được Tổng
thống đề cử và được đa số trong Thượng viện phê chuẩn. Kinh nghiệm xét
xử, trình độ chuyên môn và thậm chí cả học vấn tư pháp về mặt hình thức
cũng không phải là yêu cầu bắt buộc đối với các ứng cử viên (tuy thế,
các ứng cử viên vào Tòa án Tối cao Hoa Kỳ luôn luôn là những luật gia).
Trong đại đa số các trường hợp, các Tổng thống Mỹ đều đề cử vào Tòa án
Tối cao những người cùng đảng với mình hay những luật gia tán đồng quan
điểm của ông chủ Nhà Trắng trong các vấn đề chủ chốt. Nhiều ứng cử viên
tự bản thân họ cũng là những nhân vật chính trị có sức nặng.
Thí dụ, năm 1921, Tổng thống Warren Harding đã đề cử cựu Tổng thống
William Taft làm Chánh án Tòa án Tối cao. Trong số các thẩm phán cũng có
khá nhiều các cựu Thống đốc, cựu nghị sĩ và những nhà hoạt động xã hội
danh giá. Trong những năm 60 của thế kỷ trước, đã từng diễn ra những
cuộc thảo luận nghiêm túc về khả năng đề cử nhà báo lừng lẫy vào loại
hàng đầu nước Mỹ Walter Lippmann làm thẩm pháp Tòa án Tối cao. Chính nhà
báo này đã đưa thuật ngữ "stereotype" (khuôn sáo) vào đời sống báo
chí... Trong khoảng nửa thế kỷ gần đây không có các
nhân vật chính trị nổi bật trong thành phần Tòa án Tối cao Hoa Kỳ - cơ
quan này theo thông lệ thường thâu nạp chủ yếu là các luật gia nổi
tiếng, từng có kinh nghiệm xét xử. Tuy nhiên, các con số thống kê lại
cho thấy, trong suốt thời gian tồn tại của mình, chỉ có khoảng một nửa
số thành viên Tòa án Tối cao là luật gia. Hơn nữa, "luật gia",
đó là một khái niệm rất rộng rãi. Trở thành thẩm phán của Tòa án Tối cao
đã là những vị thẩm phán ở các cấp tòa án thấp hơn, các luật sư, các
công tố viên và các học giả luật học... Còn đội hình hiện nay của Tòa án
Tối cao Hoa Kỳ toàn là những thẩm phán mà trước khi được vào đây cũng
đã là những thẩm phán ở các cấp tòa án thấp hơn. Vai trò quan
trọng trong kiểm tra nhân thân các ứng cử viên thuộc về các tổ chức xã
hội và các phương tiện thông tin đại chúng. Các phóng viên Mỹ rất giỏi
trong chuyện "đào bới" các tình tiết tế nhị trong đời sống của các chính
trị gia. Năm 1987, ứng cử viên Douglas Ginsburg đã phải trở thành nạn
nhân của sự thóc mách trong giới báo chí. Các phóng viên đã xác định
được rằng, thời trẻ, ứng cử viên Douglas Ginsburg từng hút cần sa - sau
phát giác này, ông Ginsburg đã phải xin rút khỏi cuộc chạy vào Tòa án
Tối cao. Cục Điều tra Liên bang (FBI) có nhiệm vụ phân tích các
mối quan hệ của các ứng cử viên trong gia đình, với xóm giềng, với các
đồng nghiệp (để làm việc này phải tiến hành các cuộc tiếp xúc và trò
chuyện với họ; quá khứ chính trị và nghề nghiệp... FBI được phép kiểm
tra tài khoản và bảng kê khai thuế của các ứng cử viên. Đánh giá của FBI
dựa trên 4 nguyên tắc: "tính cách" (sự trung thực và đáng tin cậy của
ứng cử viên); "cộng sự" (ứng cử viên kết bạn với những ai và quen biết
những ai); "uy tín" (giữa giới chuyên môn và rộng rãi trong xã hội) và
lòng trung thành (thái độ của ứng cử viên đối với chế độ xã hội đang tồn
tại ở Mỹ). Bà Sonia Sotomayor mà Tổng thống Barack Obama đề cử
vào ghế Thẩm phán Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, cũng đã bị kiểm tra như thế.
Cuộc kiểm tra này được ghi nhận bằng một vụ tai tiếng: trong quá khứ có
lần bà Sotomayor đã buột miệng nói ra một câu là "thẩm phán là phụ nữ
gốc châu Mỹ La tinh có khả năng đưa ra những quyết định anh minh hơn
thẩm phán là đàn ông da trắng". Những người Cộng hòa đã ngay lập tức lên
tiếng buộc cho bà Sotomayor tội phân biệt chủng tộc và tội đã theo quan
niệm rằng có thể diễn giải luật pháp theo những cái nhìn cá nhân của
các thẩm phán. Mặc dầu thế ngày 6/8 vừa qua, Thượng viện Mỹ vẫn phê
chuẩn bà Sotomayor làm Thẩm phán Tòa án Tối cao với 68 phiếu thuận và 31
phiếu chống. Đồng thời với những cuộc kiểm tra nói trên, các
ứng cử viên vào ghế Thẩm phán Tòa án Tối cao Hoa Kỳ còn phải chịu sự
sàng lọc của Ủy ban Tư pháp Thượng viện Mỹ. Ủy ban này xem xét tiểu sử,
những bài báo đã in, những mối quan hệ với giới doanh gia và chính trị
gia (để loại trừ cái gọi là "mâu thuẫn các lợi ích") . Ủy ban cũng chú ý
tới những ý tưởng mà trước đó ứng cử viên Thẩm phán Tòa án Tối cao từng
thể hiện. Năm 1969 chính Ủy ban Tư pháp Thượng viện Mỹ đã khai tử cơ
hội của ứng cử viên Clement Haynsworth với lý do là trước đó hai thập
niên, có một lần ông này đã lỡ lời khẳng định sự hơn hẳn của người da
trắng trước các sắc tộc khác. Đồng thời với những thủ tục trên,
Hiệp hội Thẩm phán Hoa Kỳ cũng cử ra một ủy ban gồm 15 tình nguyện viên
để phân tích các bản án mà ứng cử viên Thẩm phán Tòa án Tối cao từng
đưa ra và bằng cách này, xác định chất lượng hoạt động chuyên môn của
ứng cử viên. Thường thì Hiệp hội đưa ra ba mức đánh giá: "đã được chuẩn
bị tốt cho công việc đang xem xét", "đã được chuẩn bị" và "được chuẩn bị
chưa đủ". Ảnh hưởng của Hiệp hội Thẩm phán Hoa Kỳ tới quá
trình phê chuẩn các ứng cử viên Thẩm phán Tòa án Tối cao hiện nay không
được cao như trong quá khứ. Vấn đề là ở chỗ: năm 1987 ý kiến của các
thành viên ủy ban đã bị phân liệt rất lớn: 11 người tuyên bố rằng ứng cử
viên Robert Bork "đã được chuẩn bị tốt cho công việc đang xem xét", còn
4 người lại chọn phương án "được chuẩn bị chưa đủ". Bốn thành viên có ý
kiến khác đó đã bị phê phán về tội đã đưa ra một quyết định mang tính
chính trị. Ông Bork đã không thể trở thành thẩm phán nhưng do những lý
do khác chứ không phải vì "được chuẩn bị chưa đủ". Từ năm 2001,
Hiệp hội Thẩm phán Hoa Kỳ hay biết tên họ ứng cử viên Thẩm phán Tòa án
Tối cao cùng lúc với mọi người dân Mỹ khác. Tuy nhiên, ý kiến của các
chuyên gia tư pháp vẫn tiếp tục có vai trò quan trọng trong số phận của
các ứng cử viên. Các số liệu thống kê lịch sử cho thấy, trong
số 158 ứng cử viên được các Tổng thống Mỹ đề cử vào ghế Thẩm phán Tòa án
Tối cao Hoa Kỳ, chỉ có 28 người không cầu được ước thấy - một số người
đã tự bỏ cuộc trước khi có phiên họp phê chuẩn của Thượng viện. Trong
toàn bộ lịch sử nước Mỹ đã có 110 người được ngồi ở ghế Thẩm phán Tòa án
Tối cao. Để có được một Thẩm phán mới cho Tòa án Tối cao,
những người ủng hộ ứng cử viên phải tạo ra được một đa số trong Thượng
viện (có tất cả là 100 thượng nghị sĩ nên ứng cử viên cần nhận được ít
nhất là 51 phiếu ủng hộ thì mới đạt được mục đích). Hiến pháp
Mỹ không đặt ra những tiêu chí ủng hộ hay bác bỏ các ứng cử viên Tòa án
Tối cao đối với các thượng nghị sĩ. Vì thế, họ được quyền bỏ phiếu theo
quan điểm cá nhân của họ. Trong quá khứ đã không chỉ một lần Thượng viện
Mỹ bác bỏ sự đề cử của các Tổng thống Mỹ. Nạn nhân đầu tiên là
John Rutledge: năm 1795, ông này đã bị Thượng viện không phê chuẩn vào
ghế Thẩm phán Tòa án Tối cao. Lý do là vì năm 1794, ông Rutledge đã phê
phán dữ dội hòa ước đã ký với nước Anh. Người giữ kỷ lục về các
thất bại trong những nỗ lực đưa ứng cử viên của mình trở thành Thẩm
phán Tòa án Tối cao là Tổng thống John Tyler: trong hai năm 1844-1845,
ông này đã đưa ra 6 ứng cử viên nhưng chỉ có độc một người được Thượng
viện phê chuẩn. Lý do của những lần bác bỏ rất khác nhau: đó có thể là
sự hoài nghi của các thượng nghị sĩ đối với các phẩm chất chuyên môn của
các ứng cử viên hay các quan điểm của họ. Thêm vào đó, vai trò quan
trọng còn thuộc về tình hình chính trị cụ thể ở thời điểm đó và cán cân
lực lượng trong thượng tầng chính quyền Mỹ. Thủ tục xem xét các
ứng cử viên vào ghế Thẩm phán Tòa án Tối cao Hoa Kỳ thường xuyên bị
thay đổi để rồi những thay đổi đó trở thành truyền thống ở Washington.
Năm 1873, Thượng viện Mỹ lần đầu tiên tiến hành điều tra về quá khứ của
ứng cử viên Thẩm phán. Năm 1916 lần đầu tiên tiến hành các cuộc điều
trần công khai ở Thượng viện. Năm 1925, ứng cử viên vào ghế Thẩm phán
Tòa án Tối cao Hoa Kỳ lần đầu tiên phải ra mắt Ủy ban Tư pháp Thượng
viện Mỹ. Năm 1930, Thượng viện lần đầu tiên cho phép các tổ chức xã hội
có quan tâm được tham dự các cuộc điều trần. Từ năm 1956, các ứng cử
viên bắt đầu phải chịu những cuộc kiểm tra của Hiệp hội Thẩm phán Hoa
Kỳ. Từ năm 1981, các cuộc điều trần bắt đầu được truyền hình trực tiếp.
Theo Hiến pháp Hoa Kỳ, các thẩm phán Tòa án Tối cao sẽ được phục vụ
trọn đời cho tới khi chết nếu "ứng xử hoàn mỹ". Thông thường, họ đạt
được vị thế này ở tuổi không còn trẻ nữa - người trẻ nhất ở thời điểm
được phê chuẩn là Joseph Story (năm 1811), ở tuổi 39. Tính trung bình,
một thẩm phán làm việc ở Tòa án Tối cao khoảng 15 năm. Thẩm
phán Oliver Douglas đã có thời gian ngồi trên ghế này ở mức kỷ lục - 36
năm 6 tháng (từ năm 1939 tới năm 1975). Năm 1932, vị thẩm phán cao niên
nhất Oliver Holmes đã nghỉ hưu khi ông ở tuổi 90. Không ai rõ những thẩm
phán cao tuổi như thế với không ít những đau ốm có thể thực thi chức
trách của mình hiệu quả đến đâu. Điều này rất quan trọng vì Tòa án Tối
cao chỉ làm việc với thành phần đầy đủ. Bởi thế, nếu có một ai đó trong
số các thẩm phán lâm bệnh thì mặc nhiên sẽ làm đình trệ hoạt động của
toàn bộ Tòa án Tối cao. Về mặt nguyên tắc, có thể đình chỉ chức
vụ Thẩm phán Tòa án Tối cao nhưng trong thực tế, việc này mới chỉ được
tiến hành một lần mà lại không đạt kết quả. Chuyện xảy ra vào năm 1805,
khi một thẩm phán bị đứng trước nguy cơ mất ghế theo những nguyên nhân
chính trị. Thế nhưng, trong lúc bỏ phiếu ở Thượng viện, các đối thủ
chính trị của vị thẩm phán trên đã bị thất bại vì trong số những người
ủng hộ vị thẩm phán đó có cả các đồng chí của nhóm đối thủ trên bởi họ
cho rằng, sự độc lập của các thẩm phán còn quan trọng hơn cả lợi ích
đảng phái. Trong giai đoạn từ năm 1933 tới năm 1936, Tòa án Tối
cao Hoa Kỳ đã tuyên bố rằng nhiều đạo luật quan trọng mà Tổng thống
Franklin Roosevelt khởi xướng trong giai đoạn Đại suy thoái kinh tế là
không hợp hiến. Năm 1936, ông Roosevelt tái đắc cử Tổng thống và những
người ủng hộ ông đã chiếm đa số tại cả hai viện của Quốc hội Mỹ. Ông
Roosevelt định giải quyết vấn đề Tòa án Tối cao một cách “gọn ghẽ” bằng
việc đưa thêm vào thành phần của nó 6 thành viên mới có thể giúp làm
nghiêng cán cân về phía có lợi cho ông. Để đạt được mục đích này, chỉ
cần đưa thêm một số thay đổi vào đạo luật về Tòa án Tối cao. Tuy nhiên,
kế hoạch đó đã bị cả Quốc hội lẫn dư luận xã hội Mỹ bác bỏ. Bất chấp
việc chính sách kinh tế của Tổng thống Roosevelt rất được đồng tình,
nhưng việc bảo vệ sự độc lập của Tòa án Tối cao vẫn được công nhận là
quan trọng hơn cả việc xử lý mau lẹ các cuộc khủng hoảng Hưng Vượng BÀI VIẾT MỚI HƠN : Chế định Bồi thẩm đoàn Hoa Kỳ - 22.12 Những nội dung mới của Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 - 22.12 Chủ nghĩa hợp hiến và sửa đổi Hiến pháp ở Việt Nam - 25.02 BÀI VIẾT TRƯỚC ĐÓ : Chế định chủ tịch nước ở việt nam qua các bản hiến pháp - 29.11 Để thực thi quyền sáng kiến pháp luật của Đại biểu Quốc hội - 29.11 Mối quan hệ giữa chính phủ với quốc hội trong công tác xây dựng pháp luật. - 29.11 Phân loại hiến pháp - Trịnh Thị Bích Diệp - 29.11 Xử lý ý kiến khác nhau giữa Chính phủ và Quốc hội - 29.11 “Giải thích pháp luật”: Tòa án tối cao với tư cách là cơ quan thẩm định tính hợp hiến.
Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã ban hành nguyên tắc của chế độ bảo hiến –
quyền quyết định tính hợp hiến trong các đạo luật – ngay trong một trong
những phán quyết đầu tiên của Tòa. Một chuyên gia pháp lý nổi tiếng đề
cập tới việc thực hiện chế độ bảo hiến của Tòa trong suốt 220 năm lịch
sử của Tòa, trong đó có nhiều ví dụ từ thế kỷ XIX tới nay. Dù Tòa có
nhiều phán quyết trong các vụ án cụ thể, song tác giả kết luận rằng “Vai
trò đảm bảo chế độ pháp trị của Tòa đòi hỏi phải có sự nhất trí rộng
rãi của người dân Hoa Kỳ”. A.E. Dick Howard là Giáo sư Luật và
Hành chính tại White Burkett Miller kiêm Giáo sư Luật tại Trung tâm
Nghiên cứu Roy L. và Rosamond Woodruff Morgan, Đại học Virginia tại
Charlottesville. Ông là chuyên gia trong lĩnh vực luật hiến pháp và Tòa
án Tối cao. Từ năm 1985 đến 1992, ông là chủ tịch Hội đồng 200 năm Hiến
pháp Hoa Kỳ tại Đại học Virginia. Những người soạn thảo Hiến
pháp Hoa Kỳ đã tuyên bố rõ ràng rằng văn bản này sẽ được coi là luật của
các loại luật. Điều VI quy định Hiến pháp và các đạo luật “được ban
hành theo Hiến pháp này” (cũng như các điều ước) sẽ là “Luật tối cao của
quốc gia”. Các nhà soạn thảo Hiến pháp cũng trao quyền, tại Điều III,
cho một Tòa án Tối cao và các tòa án cấp dưới mà Quốc hội có thể thiết
lập. Liệu hai điều khoản này, cùng được viện dẫn, có tạo điều kiện cho
Tòa án Tối cao quyền hạn bác bỏ các văn bản luật, trong đó có các đạo
luật của Quốc hội, được coi là mâu thuẫn với Hiến pháp hay không?
Nếu như các nhà soạn thảo Hiến pháp đã có chủ trương rõ ràng tại Hội
nghị lập hiến năm 1787 tại Thành phố Philadelphia, bang Pennsylvania
rằng chính quyền liên bang mới cần phải có một ngành tư pháp thì họ lại
dành rất ít thời gian để cân nhắc “quyền tư pháp” sẽ có phạm vi đến
chừng mực nào. Họ dành thời gian nhiều hơn để tranh luận về quyền hạn mà
chính quyền liên bang mới có thể có, cơ cấu của Quốc hội liên bang,
việc cân bằng quyền lực giữa tiểu bang và liên bang và bản chất của cơ
quan hành pháp liên bang mới. Khi Hiến pháp dự thảo được chuyển tới một
số tiểu bang để thông qua thì các cuộc tranh luận về phê chuẩn lại tập
trung chủ yếu vào các mối quan tâm về quyền lực của liên bang nói chung –
và về việc thiếu một tuyên ngôn nhân quyền. CHẾ ĐỘ XEM XÉT LẠI BẢN ÁN
Ở cấp tiểu bang, chế độ xem xét lại bản án – quyền của một tòa án tuyên
bố một đạo luật là không hợp hiến – chỉ xuất hiện trong những năm đầu
tiên mới thiết lập chế độ cộng hòa. Tư tưởng dân chủ thì nhấn mạnh tới
vai trò của các cơ quan lập pháp là thể chế đại diện cho ý chí, nguyện
vọng của nhân dân. Nhưng người Mỹ đã sớm phát hiện thấy các cơ quan lập
pháp của họ, cũng giống như những ông hoàng hoặc quốc hội, có thể sẽ đe
dọa quyền con người và quyền tự do của họ. Vì lẽ đó, cùng với tư tưởng
tam quyền phân lập và nguyên tắc kiểm soát và cân bằng, chế độ bảo hiến
đã trở thành trụ cột đảm bảo tính tối thượng của hiến pháp. Ở
cấp độ liên bang, chính Chánh án John Marshall là người đã tuyên bố công
khai quyền xem xét lại theo thủ tục tư pháp của Tòa qua vụ Marbury kiện
Madison (1803). Bằng ngôn từ nổi tiếng – sau này thường được viện dẫn
trong các vụ án – Marshall đã tuyên bố “Trách nhiệm và bổn phận chính
của cơ quan tư pháp là giải thích luật”. Và ông kết luận rằng bổn phận
đó thậm chí bao hàm quyền của các tòa án được bác bỏ các đạo luật của
Quốc hội nếu những đạo luật này bị phát hiện trái với Hiến pháp.
Mãi tới khi nổ ra cuộc Nội chiến Mỹ (1861-1865), tư tưởng hiến pháp của
Tòa án Tối cao phần lớn tập trung vào các vấn đề xây dựng liên bang.
Tuyên ngôn Nhân quyền, bổ sung vào Hiến pháp 1791, chỉ áp dụng với các
đạo luật của liên bang chứ không phải của tiểu bang. Tuy nhiên, sau nội
chiến, việc thông qua điều bổ sung sửa đổi thứ 14 đã buộc các bang không
được tước bỏ quyền của bất cứ người nào được xét xử hoặc bảo vệ bình
đẳng trước pháp luật. Theo thời gian, các quy định này đã trở thành nền
tảng cho nhiều hoạt động lớn của Quốc hội (chẳng hạn Tuyên ngôn Dân
quyền năm 1964) và là nền tảng pháp lý của ngành tư pháp (trong đó có
phán quyết năm 1954 trong vụ Brown kiện Hội đồng Giáo dục tuyên bố phân
biệt chúng tộc trong các trường công là vi phạm hiến pháp).
Trong các thập niên đầu thế kỷ XX, Tòa án Tối cao thường được coi là cơ
quan bảo vệ tài sản và các doanh nghiệp trước các đạo luật cấp tiến.
Chẳng hạn vào năm 1905, Tòa đã bác bỏ một đạo luật của tiểu bang New
York giới hạn số giờ làm việc của những người làm bánh mì trong một ngày
và tuyên bố những quy định như vậy là “sự can thiệp trắng trợn” vào
quyền của các cá nhân. Cách nhìn nhận như vậy của ngành tư pháp đã khiến
cho Tòa án Tối cao lâm vào thế mâu thuẫn với chương trình Phát triển
kinh tế mới của Tổng thống Franklin Roosevelt trong những năm 1930.
Trước nguy cơ “Tòa bị siết chặt thêm” – đề án tăng thêm số lượng thẩm
phán tại Tòa – các thẩm phán đã đổi hướng và tôn trọng hơn các đạo luật
cải cách kinh tế và xã hội của tiểu bang và liên bang. Ngày
nay, Tòa án Tối cao xem xét một số lượng lớn các vấn đề khác nhau. Đôi
khi người ta còn gọi Hoa Kỳ là “xã hội nhiều kiện tụng”. Tất nhiên người
Mỹ dường như đã khéo léo biến những tranh chấp thành các cuộc đua tài
trước tòa – một đặc điểm mà Alexis de Tocqueville, người quan sát tài
tình những đặc thù của Hoa Kỳ, đã bình luận ngay từ thế kỷ XIX. Trong
thập niên 1960 khi Earl Warren là Chánh án, Tòa án Tối cao đã theo đuổi
một chương trình nghị sự đầy tham vọng. Tòa đã phán quyết mỗi người một
phiếu bầu (đảm bảo tới mức cao nhất mỗi khu vực cử tri có số dân bằng
nhau) là nguyên tắc trong bầu cử các thành viên của cơ quan lập pháp.
Tòa cũng áp dụng hầu hết thủ tục tố tụng đảm bảo Tuyên ngôn Nhân quyền
tại tất cả các tiểu bang, ủng hộ phong trào dân quyền và mở đường cho
việc thực hiện quyền riêng tư và tự quyết đã quy định trong Hiến pháp.
Cho dù một số thẩm phán do các Tổng thống thuộc Đảng Cộng hòa bổ nhiệm
chủ trương “hạn chế ngành tư pháp” song Tòa án Tối cao vẫn tự tin giải
quyết nhiều vấn đề đại sự quốc gia. Vậy Tòa án Tối cao có vai
trò gì trong cuộc sống của người dân Hoa Kỳ? Một trong những nhiệm vụ
chủ chốt của Tòa là đóng vai trò phân xử trong hệ thống liên bang. Chưa
có vấn đề nào thu hút sự quan tâm của các nhà soạn thảo Hiến pháp tại
Philadelphia nhiều bằng việc trao quyền hạn tương xứng cho chính phủ
liên bang trong khi vẫn bảo vệ lợi ích của các tiểu bang. Do đó, Tòa án
Tối cao thường xuyên được yêu cầu quyết định xem một đạo luật hay quy
định của liên bang có cản trở hoạt động của tiểu bang hay không. Tương
tự như vậy, người ta cũng thường yêu cầu Tòa phân xử liệu một đạo luật
của tiểu bang, nếu không hợp lệ, có ảnh hưởng tới một số lợi ích quốc
gia như tự do thương mại hay không. Chẳng hạn, khi tiểu bang Bắc
Carolina thông qua một đạo luật, mặc dù bề ngoài mang tính trung lập,
song đã phân biệt đối xử với mặt hàng táo từ tiểu bang Washington để tạo
lợi thế cho những người trồng táo của họ, Tòa đã phát hiện hành vi bảo
hộ và vô hiệu hóa đạo luật đó của tiểu bang Bắc Carolina. Tòa
án Tối cao cũng đóng vai trò chủ yếu trong việc đảm bảo các quyền con
người và quyền tự do cá nhân. James Madison đã từng tỏ ra lo ngại Tuyên
ngôn Nhân quyền có thể sẽ chỉ là một “quy định trên giấy tờ”. Tuy nhiên,
trong thời gian qua Tòa đã tích cực thực hiện các quy định đã nêu trong
Tuyên ngôn không chỉ chống lại chính quyền liên bang (mục đích ban đầu
của họ) mà còn cả các chính quyền tiểu bang. Việc Tòa diễn giải những
quyền đã được Hiến pháp bảo vệ thường rất ngay thẳng và mạnh mẽ. Chẳng
hạn, năm 1963, Tòa đã phán rằng quyền được tư vấn pháp lý tại điều bổ
sung sửa đổi số VI không chỉ bao hàm quyền được sự giúp đỡ của luật sư
tại tòa mà còn là quyền được có luật sư do tiểu bang chỉ định và thanh
toán nếu bị cáo nghèo tới mức không thể thuê nổi luật sư. Các thẩm phán
cũng đặc biệt quan tâm tới quyền tự do ngôn luận. Do vậy, vào năm 1964,
Tòa đã tuyên bố một “quan chức” khởi kiện về tội bôi nhọ phải tuân thủ
một quy định rất khắt khe – “ác tâm có chủ ý” – tức là phải chứng minh
được rằng người bôi nhọ biết rõ lời lẽ của anh ta là sai hoặc cố tình
không đoái hoài tới tính chân thực trong lời nói của mình.
Chúng ta đã được chứng kiến cuộc tranh luận sôi nổi về việc liệu Hiến
pháp có nên được coi là một văn bản “trường tồn” hay không. Một số người
lập luận rằng các thẩm phán nên tìm hiểu “nghĩa gốc” của Hiến pháp –
tức là, ý nghĩa đã được các nhà soạn thảo Hiến pháp chuyển tải và có lẽ
được củng cố thêm qua thông lệ và các tiền lệ. Một số người khác thì coi
Hiến pháp có tính định hướng nhiều hơn. Do đó, trong các vụ án phát
sinh trong khuôn khổ quy định cấm áp dụng những hình phạt dã man và khác
thường nêu trong Điều bổ sung sửa đổi số VIII, Tòa án Tối cao đã đưa ra
khái niệm “áp dụng chuẩn tắc theo thời gian”, cho phép Tòa tuyên bố, ví
dụ vào năm 2005, quy định tử hình các phạm nhân trẻ tuổi là trái Hiến
pháp. Rõ ràng là Tòa đã vượt khỏi phạm vi những ngôn từ nêu
trong bản Hiến pháp khi thừa nhận và bảo vệ những quyền cụ thể. Một ví
dụ điển hình là quyền riêng tư và tự quyết. Chiểu theo quy định đảm bảo
quy trình xét xử do luật định trong Điều bổ sung sửa đổi số V và XIV,
Tòa đã xác định và mở rộng quyền đó để đảm bảo các lợi ích khác như
quyền tránh thai, quyền của phụ nữ được quyết định nạo phá thai và vào
năm 2003, quyền không bị tiểu bang trừng phạt vì hành vi đồng tính. Có
thể hầu như tất cả các vụ án đưa ra xét xử tại Tòa án Tối cao đều đòi
hỏi phải giải thích luật, song những phán quyết của Tòa, nhất là về
quyền quyết định nạo phá thai và không bị trừng phạt vì đồng tính nêu
trên, lại gây nhiều tranh cãi. Vì không có các quy định cụ thể trong
hiến pháp về quyền riêng tư nên họ phải chủ yếu dựa vào lập luận và giải
thích của tòa. Song cho dù các thẩm phán sẽ hành động như thế nào đi
chăng nữa trong các vụ xét xử trong tương lai, cũng thật khó có thể
tưởng tượng Tòa án Tối cao với thiết chế như hiện nay lại tuyên bố rằng
nhìn chung không có cơ sở hiến pháp cho khái niệm quyền riêng tư cá
nhân. Theo Hiến pháp, các thẩm phán của Tòa án Tối cao đương
nhiệm suốt đời với “tư cách đạo đức tốt”. Chưa từng có một thẩm phán nào
bị phế truất. Tuy nhiên, việc bổ nhiệm vào Tòa án Tối cao trong những
thập niên gần đây lại trở thành những sự kiện mang tính chính trị cao.
Các quyết định của Tòa càng có phạm vi rộng bao nhiêu thì sự cạnh tranh
càng cao bấy nhiêu khi xuất hiện một vị trí cần bổ nhiệm. Nếu vậy thì
các phán quyết của Tòa phản ánh đến mức độ nào chính kiến và dư luận của
xã hội hiện thời? Những người hoài nghi thì cho rằng các thẩm phán phải
nên “đọc báo” để có thể tính tới dư luận xã hội khi định hình chính
kiến của họ. Nhưng hầu như không có cơ sở cho quan điểm này. Về lâu dài,
một phán xử công bằng hơn sẽ có nghĩa là Tòa có xu hướng phản ánh luồng
dư luận chủ đạo trong xã hội. Vì vậy mà Tòa án Tối cao dưới thời Chánh
án Warren trong thập kỷ 1960 lại tỏ ra đồng tình đối với những giải pháp
của số đông người dân trước những vấn đề quốc gia đại sự. Tòa án Tối
cao thời Chánh án Rehnquist hiện nay, xét từ một góc độ nào đó, mang
tính bảo thủ nhiều hơn, đề cao vai trò của tiểu bang nhiều hơn trong thể
chế liên bang. Các phán quyết của Tòa đặt ra một câu hỏi quan
trọng: Ngành tư pháp không thông qua bầu cử có vị trí gì trong một nền
dân chủ? Vốn từ lâu đã có sự giằng xé giữa hai nguyên tắc cơ bản trong
một nền dân chủ tự do lập hiến – một chính phủ có trách nhiệm được đa số
bầu ra một cách dân chủ lãnh đạo và thực thi Hiến pháp thậm chí nếu cần
bác bỏ các đạo luật do phe đa số đó hậu thuẫn. Chế độ bảo hiến là cực
kỳ quan trọng vì nó củng cố các nguyên tắc dân chủ, chẳng hạn mỗi người
dân, một phiếu bầu; tiến hành bầu cử tự do và công bằng; tự do ngôn luận
và tự do báo chí. Chế độ pháp trị – đúng theo tư tưởng của Hiến pháp –
yêu cầu Hiến pháp phải được thực thi với tư cách là đạo luật tối cao của
quốc gia. Tòa án Tối cao có thể phạm sai lầm trong một số vụ xét xử cụ
thể nào đó. Song vai trò đảm bảo chế độ pháp quyền của Tòa đòi hỏi phải
có sự nhất trí rộng rãi của người dân Hoa Kỳ. A.E. DICK HOWARD Nguồn: vietnamese.vietnam.usembassy.gov Tối Cao Pháp Viện : Diễn giải và áp dụng hiến pháp
Khi thi hành hiến pháp, Tối Cao Pháp Viện có quyền phán quyết tối hậu
trong các vụ cần dẫn chiếu từ hiến pháp để xét lại tính chất phù hợp
hiến định của vụ án. Như vậy Tối Cao Pháp Viện lấy quyền hạn đó từ đâu
để thẩm định hợp hiến hay vi hiến? Quyền hạn này cực kỳ quan trọng vì
dựa vào đó Tối Cao Pháp Viện có quyền phá án ngược lại kết quả ở tòa
dưới và ra phán quyết chung thẩm. Các tòa án liên bang hay tiểu bang đều
có quyền xử theo luật hiến pháp, nhưng bao giờ Tối Cao Pháp Viện cũng
có quyền xử lại. Án lệ Marbury v. Madison năm 1803 là một vụ án nổi
tiếng trong lịch sử tư pháp Hoa Kỳ về quyền hạn của Tối Cao Pháp Viện
trong việc xét lại những phán quyết dựa theo luật hiến pháp.
Vào cuối nhiệm kỳ của Tổng Thống George Washington thì ảnh hưởng chính
trị tại tân Liên Bang Hoa Kỳ do hai đảng cầm đầu: Ðảng Liên Bang
(Federalist Party, tiền thân của đảng Cộng Hòa) đã bầu Tổng Thống Adams
và chiếm đa số quốc hội từ 1796 đến 1800. Ðối lập là đảng Dân Chủ Cộng
Hòa (Democratic Republic Party, tiền thân của đảng Dân Chủ) tiếp đó bầu
lên Tổng Thống Thomas Jefferson nhiệm kỳ kế tiếp năm 1800 đồng thời cũng
lấy được đa số ở quốc hội. Biết chắc Ðảng Liên Bang sắp mất thế lực ở
Hành Pháp và Lập Pháp nên Tổng Thống Adams cố giành ngành Tư Pháp, ông
chỉ định ngay Bộ Trưởng John Marshall làm Chánh Án Tối Cao. Quốc Hội lúc
đó còn do đảng Liên Bang nắm vài ngày chót trước khi bàn giao liền
thông qua ngay một đạo luật cho tăng số thẩm phán liên bang tại các tòa
dưới và giảm bớt số thẩm phán ở Tòa Tối Cao ngăn không cho đảng viên Dân
Chủ Cộng Hòa trám vào các ghế trống, đồng thời bổ nhiệm thêm cho thủ đô
Washington D.C. bốn mươi hai tân Thẩm Phán Trị An (Justice of the
Peace, tương đương với chức chánh án tòa thượng thẩm). Vào ngày
cuối cùng nhiệm kỳ, Tổng Thống Adams làm lễ cho các đảng viên Liên Bang
mới được chỉ định tuyên thệ nhậm chức dưới sự nhìn nhận của Quốc Hội
cũ. Ngay đêm trước khi Tổng Thống Jefferson thụ phong, John Marshall lúc
ấy vẫn còn là Bộ Trưởng trong nội các cũ, theo truyền thống đã thi hành
thủ tục đóng quốc ấn Hoa Kỳ vào các sắc lệnh bổ nhiệm chính thức hóa
cho các tân thẩm phán đáo nhậm. Do sự bất cẩn không gởi kịp thời nên một
số tân thẩm phán không nhận được sắc lệnh bổ nhiệm trong đêm đó. Sáng
hôm sau tân Tổng Thống Jefferson ra lệnh cho tân Bộ Trưởng James Madison
bãi bỏ các sắc lệnh bổ nhiệm chưa kịp giao đến tay các tân Thẩm Phán
Trị An trong số đó có một vị tên là William Marbury. Marburry
bèn kiện lên Tối Cao Pháp Viện xin tòa ra trát bắt buộc (writ of
mandamus, là trát tòa ra lệnh cho viên chức chính phủ phải thi hành lệnh
tòa). Mặc dù ông ta kiện năm 1801, nhưng quốc hội mới do đảng Dân Chủ
Cộng Hòa nắm quyền đã bãi bỏ nhiệm kỳ 1801 đến 1802 của Tối Cao Pháp
Viện, nên vụ này phải đợi đến 1803 mới đem ra xử. Cuối cùng Chánh Án Tối
Cao John Marshall ra phán quyết rằng những chức vụ được chỉ định thời
trước mặc nhiên có hiệu lực ngay từ thời điểm ký sắc lệnh bổ nhiệm và
phải được tôn trọng. Khi xử vụ này Tối Cao Pháp Viện lâm vào tình thế
lưỡng nan vì nếu không xử Marbury được thắng có nghĩa là Marshall đương
nhiên công nhận hành pháp do nội các mới có quyền xóa bỏ lệnh bổ nhiệm
trước làm mất mặt đảng Liên Bang, đồng thời lấn át cả Tư Pháp. Nhưng lúc
đó Tối Cao Pháp Viện chưa được xác định quyền hạn rõ ràng, nếu Marshall
ra lệnh đòi hành pháp bắt buộc thi hành phục hồi chức vụ cho Marbury mà
bị Jefferson và Madison từ chối thì còn gây thêm hiềm khích nặng nề và
xáo trộn chính trị trầm trọng hơn. Dù đã xử như trên nhưng Marshall rất
khôn khéo né ra khỏi cuộc tranh chấp quyền hành chính trị bằng cách dựa
vào quyền tái thẩm của tòa án để tìm cách khước từ việc can thiệp đòi
phục hồi chức vụ cho Marbury. Marshall trước nhất phán rằng
việc bổ nhiệm chức vụ cho Marbury được kể là đã hoàn tất ngay khi cựu
Tổng Thống Adams ký sắc lệnh vì lẽ vào đúng thời điểm đó việc đóng dấu
quốc ấn và tống đạt sắc lệnh đến đương sự chỉ là thủ tục hành chánh mà
thôi, cho nên dù công tác chuyển giao không hoàn tất thì tình trạng chức
vụ của Marbury cũng không thay đổi. Thứ đến là Marbury coi như đã được
chức vụ mới nên việc đền bù là trách nhiệm thi hành của tân Bộ Trưởng
Madison. Nhưng Marshall đưa ra vấn đề quan trọng là Tối Cao Pháp Viện có
thẩm quyền tài phán (jurisdiction) trong vụ này để xử khiếu nại của
Marbury không? Marshall dẫn chứng Ðiều III Hiến Pháp quả có ấn
định cho Tối Cao Pháp Viện quyền tài phán tiên quyết, nghĩa là quyền
được xử những vụ kiện thẳng đến tòa này nếu đương đơn là một nhân viên
ngoại giao ngoại quốc hoặc là một tiểu bang đứng kiện, còn tất cả các
trường hợp khác thì không được xử thẳng mà chỉ được xử lại những vụ
kháng án sau khi đã có phán quyết ở tòa dưới. Marbury vin vào bộ Luật Tư
Pháp (Judiciary Act) năm 1789 theo đó Tối Cao Pháp Viện có quyền tài
phán tiên quyết và có quyền ra trát mandamus bắt buộc các viên chức hành
pháp thi hành. Chánh Án Marshall bác bỏ lập luận này viện lý do vì giới
hạn trong tổ chức phân quyền chính phủ nên Tối Cao Pháp Viện không áp
dụng được Ðiều III Hiến Pháp. Vì lý do ấy tòa không có quyền
tài phán tiên quyết trong vụ này vì Marbury không thuộc thành phần ngoại
giao ngoại quốc hoặc là một tiểu bang nên tòa không có quyền can thiệp
vào việc phục chức của đương đơn. Phán quyết này dĩ nhiên thỏa mãn ngay
phe Dân Chủ Cộng Hòa, nhưng điều chính yếu rút từ vụ này là việc tự thừa
nhận quyền tài phán tối hậu của Tối Cao Pháp Viện là hợp hiến dù chiếu
theo Bộ Luật Tư Pháp 1789 hay theo các sắc luật khác của Quốc Hội. Như
vậy phán quyết của Marshall vừa khéo léo nhượng bộ hành pháp đồng thời
cũng bảo toàn được quyền hạn của Tối Cao Pháp Viện, chỉ có đương sự
Marbury đau khổ vì ức lòng mà thôi. Ðối với Marshall việc tìm
xem Tối Cao Pháp Viện có quyền khảo xét tình trạng hợp hiến của các luật
do lập pháp thông qua thì quá dễ dàng. Toàn dân đã lập ra hiến pháp để
trở thành luật căn bản, tối thượng và tồn tại vĩnh viễn. Khuynh hướng
của hiến pháp là hạn chế chỉ ban cho chính phủ liên bang quyền hành vừa
đủ, vì thế hành pháp chỉ được sử dụng những quyền đã ấn định trong hiến
pháp mà thôi, ngược lại tất cả mọi đạo luật trái với tinh thần hiến pháp
đều bị hủy bỏ và vô hiệu hóa. Marshall quả đã khôn khéo dựa vào hiến
pháp kết thúc vấn đề bằng một tam đoạn luận như sau: hiến pháp là luật,
tòa án diễn giải luật, do đó có nghĩa là tòa án diễn giải hiến pháp.
Nhưng thực ra những gì giải thích theo lối của Marshall thì lại không
đồng quan điểm với nhiều người khác vì luật thường áp dụng ở tòa án và
luật hiến pháp có nhiều khác biệt. Nếu hiến pháp là luật căn bản thì
không nên coi như luật thường. Nói một cách rõ ràng hơn, hiến pháp là
nền tảng của luật nên việc diễn giải ý nghĩa hiến pháp nếu để cho các
ngành khác trong chính quyền sẽ gây khó khăn, ví dụ như quốc hội không
xác định được một đạo luật có hợp hiến hay không trước khi ban hành.
Do đó sau khi Chánh Án Marshall mãn nhiệm kỳ vào năm 1834, án lệ
Marbury v. Madison đã trở thành nền tảng của quyền lực Tối Cao Pháp Viện
trong việc xử lại tình trạng hợp hiến của các đạo luật của liên bang và
tiểu bang. Dĩ nhiên các ngành lập pháp và hành pháp không thích Tối Cao
Pháp Viện nắm quyền này nhưng đến ngày nay đã trở thành thông lệ vững
chắc. Sau vụ Brown v. Board of Education xử cấm kỳ thị chủng tộc ở học
đường, Tối Cao Pháp Viện đã gặp nhiều chống đối chính thức cũng như
không chính thức của một số thành phần thủ cựu cực đoan ở nhiều tiểu
bang miền nam, thí dụ như quốc hội của vài tiểu bang ban hành nghị quyết
không thừa nhận án quyết của Tối Cao Pháp Viện, cắt bỏ ngân sách tài
trợ cho những trường học không chịu phân chia đen trắng, nhưng cuối cùng
Tối Cao Pháp Viện đã cứng rắn bắt hết tiểu bang này đến tiểu bang nọ
phải tuân hành nghiêm chỉnh. Về sau qua nhiều án lệ điển hình khác, Tối
Cao Pháp Viện xác định lập trường vững chắc rằng ‘tổ chức tư pháp liên
bang là cơ quan tối thượng trong việc diễn giải luật Hiến Pháp với những
nguyên tắc của hệ thống luật hiến định bất di bất dịch theo đó toàn dân
tuyệt đối phải tôn trọng vĩnh viễn không một ngoại lệ’. Thời
Watergate, Tối Cao Pháp Viện đã trải qua nhiều thử thách trong việc điều
tra những hành động bất hợp pháp của Tổng Thống Nixon qua vụ án United
States v. Nixon (1974), theo đó tòa phán rằng tòa án chứ không phải tổng
thống, có quyền xác định sự hợp lệ của những bằng chứng trong vụ
Watergate do công tố viên đặc biệt tìm ra mặc dù gặp đối kháng của hành
pháp. Việc tra xét những bằng chứng này là phần vụ của tư pháp chiếu
theo Ðiều III Hiến pháp có quyền xử tổng thống. Ðiểm đáng kể là phán
quyết này của Tối Cao Pháp Viện đã khiến Tổng Thống Nixon phải chịu thừa
nhận dù rằng hậu quả đưa đến việc từ chức buồn thảm của ông. Ðiều này
đã chứng tỏ quyền lực của nền Tư Pháp Hoa Kỳ, mà ngay cả đến tổng thống
cũng không tránh khỏi bị Tối Cao Pháp Viện xét xử. Tuần tới
chúng tôi trình bày tìm hiểu về những quyền hiến định đầu tiên của người
dân ở Hoa Kỳ được bảo vệ dưới hiến pháp. Cũng như thường lệ, người viết
xin xác nhận nội dung của những loạt bài tìm hiểu luật pháp này chỉ
hoàn toàn được sử dụng với tính cách thông tin (information) để giúp quí
độc giả một vài kiến thức tổng quát căn bản về luật pháp Hoa Kỳ mà
thôi, và không thể coi như sự liên hệ của luật sư với thân chủ
(attorney-client relationship). Do đó nếu có vấn đề liên hệ đến luật,
quí độc giả vẫn cần phải thảo luận với một luật sư chuyên môn về trường
hợp của quí vị. Nếu cần tham khảo riêng xin liên lạc với Luật
Sư LyLy Nguyễn tại văn phòng ở 2009 N. Broadway, Santa Ana, CA 92706.
ÐT: (714) 531-7080. Ðề: Tối Cao Pháp Viện : Diễn giải và áp dụng hiến pháp
Trong lịch sử của luật hiến pháp Hoa Kỳ có hai án lệ với phán quyết của
Tối Cao Pháp Viện đưa ra cách nhau gần hai mươi năm đã thay đổi hẳn bối
cảnh chính trị cận đại. Năm 1954 trong vụ án Brown v. Board of
Education tòa đã phán rằng kỳ thị màu da tại học đường là vi hiến, phạm
đến quyền mọi người được bảo vệ công bằng. Sau đó vào năm 1973 trong vụ
Roe v. Wade, tòa ra phán quyết hạn chế tiểu bang quyền kiểm soát hoặc
ngăn cấm phá thai, cho là vi hiến vì vi phạm dân quyền. Kết quả của hai
vụ án này đã khơi mào gây nhiều kiện tụng cùng biểu tình phản kháng tạo
bao sóng gió cho đời sau. Bài này trình bày đường lối Tối Cao Pháp Viện
diễn giải hiến pháp trước những vấn đề có ảnh hưởng lớn đến công chúng
như hai thí dụ trên. Tại sao cần đến luật hiến pháp? Câu trả
lời rất giản dị là để tổ chức chính quyền và bảo vệ dân quyền. Cho dù
chúng ta có cần luật hiến pháp hay không thì luật này cũng đã hiện hữu
và là văn kiện diễn giải nền tảng hệ thống chính trị Hoa Kỳ vì dựa vào
hiến pháp. Có những điều người dân muốn làm nhưng không thực hiện được
một mình mà phải nhờ đến chính quyền vì chỉ chính phủ mới có khả năng
tập trung tất cả các nguồn tài nguyên để tạo công ích chung cho toàn dân
hưởng, thí dụ như mở trường, mướn thầy dậy cho con trẻ, bảo vệ cho dân
chúng sống yên lành trong một xã hội trật tự công bằng. Vì vậy
chính phủ phải mạnh, có quyền thâu thuế toàn dân để lập công quĩ chi phí
cho mọi công ích. Nhưng chính vì chính phủ được quá nhiều quyền hạn nên
tự đó đã là vấn đề, làm thế nào để dân tin chắc rằng chính phủ không
lạm quyền như ở các nước cộng sản hay các nước thiếu dân chủ thường đánh
thuế quá mức hay đặt ra nhiều luật lệ rắc rối làm khổ dân, hoặc bắt bớ
tù đầy những kẻ vô tội và dùng quân đội để đàn áp đối lập? Vì vậy ở Hoa
Kỳ dân chúng có quyền kiểm soát quyền hạn của chính phủ bằng cách lập ra
một chính quyền dân chủ không phạm những điều dân không muốn hay đi
ngược lại nguyện vọng của dân; nên luật hiến pháp được đặt ra để điều
hòa quyền hành chính phủ, hạn chế không cho phép đi quá quyền hạn ấn
định. Luật hiến pháp được coi như phương tiện để tạo tiếng dân
và là môi trường thảo luận những vấn đề thiết yếu bắt nguồn từ bản hiến
pháp rồi lập thành các án lệ tham chiếu cho các trường hợp về sau. Những
vấn đề xã hội và chính trị căn bản thường được lồng khung với các từ
ngữ quen thuộc như chế độ phân quyền, chế độ liên bang, tự do ngôn
luận... nên nhiều luật gia tưởng đó là những danh từ chỉ dùng cho chuyên
môn, thực ra đây chính là những từ ngữ thông dụng dùng rất nhiều không
những ở tòa án hay các văn phòng luật sư, mà còn ở các cơ quan công
quyền, hay nhiều nhóm tư nhân trong dân gian. Mặc dù luật hiến
pháp được hiểu theo nhiều lối khác nhau nhưng hiến pháp đã ấn định cho
Tối Cao Pháp Viện là cơ quan chính thức có quyền diễn giải và phân xử
các tranh luận về vấn đề hợp hiến. Tuy Tối Cao Pháp Viện khó tránh khỏi
bị ảnh hưởng chính trị, nhưng dù sao tòa này cũng khá cách biệt khỏi ảnh
hưởng của hành pháp cấp giữa. Các thẩm phán Tối Cao Pháp Viện được chỉ
định nhiệm kỳ trọn đời nên nhiệm vụ của họ rất hạn hẹp không phải lúc
nào cũng xử thỏa đáng mọi vụ kiện. Những vấn đề đã đem ra tranh cãi ở
tòa cùng phán quyết các vụ án liên hệ đến hiến pháp đều được dùng dẫn
chiếu làm căn bản cho các phân tích và quyết định trong nhiều vụ án quan
trọng sau này. Chúng ta hãy thử xét vài án lệ ở Tối Cao Pháp
Viện về vấn đề kỳ thị chủng tộc ở Hoa Kỳ như vụ Scott v. Sanford sau
đây: Trước cuộc nội chiến (Civil War) có một người nô lệ da đen tên là
Dred Scott đi kiện ở một tòa án liên bang xin được phóng thích vì lý do
anh đã ở với chủ ở Illinois trước khi theo chủ về Missouri. Chiếu theo
Hòa ước Missouri ký năm 1820 thì Illinois là đất tự do thuộc lãnh địa
Lousiana, chế độ nô lệ bị cấm chỉ kể từ phía Bắc vĩ tuyến 36 độ 30.
Scott lập luận rằng một khi anh đã đặt chân lên đất tự do nơi đã phóng
thích anh hợp pháp, thì khi về đến Missouri là một đất nô lệ anh cũng
được hưởng quyền tự do. Lúc đó vấn đề nô lệ tối quan trọng trước ảnh
hưởng chính trị, đạo đức, và kinh tế ở Hoa Kỳ nên nội vụ được đem ra xử
chiếu theo hiến pháp. Vào năm 1857, Thẩm Phán Roger Taney phán
rằng những dân da đen như Scott không có quyền công dân như đã ấn định
trong điều III Hiến Pháp Hoa Kỳ, do đó không có quyền đi thưa ở tòa án
liên bang, và Hòa ước Missouri bị coi như bất hợp hiến và không có hiệu
lực. Theo quan điểm của Taney tất cả dân da đen là sắc dân hạ đẳng, sinh
ra chỉ để làm nô lệ mà thôi nên không được áp dụng bản Tuyên Ngôn Ðộc
Lập (Declaration of Independence) theo đó định rằng tất cả mọi người
sinh ra đều bình đẳng. Vì lẽ đó dân da đen không được kể là công dân để
có quyền kiện thưa tại tòa án liên bang. Hơn thế nữa quốc hội lúc đó còn
liệt Hòa ước Missouri vào loạt văn kiện chính trị lập ra cốt để giảng
hòa phe Nam và Bắc Mỹ, coi như vượt quyền hiến pháp ấn định nên không có
hiệu lực. Vụ án Scott đã cho thấy bản chất giới hạn của luật
hiến pháp. Cuộc tranh cãi về ý nghĩa của hiến pháp đã bung ra khỏi tòa
án. Thời đó có hai nhân vật đối nghịch nhau nổi tiếng là Abraham Lincoln
và Stephen Douglas đã tranh biện nẩy lửa về vụ Scott. Douglas khăng
khăng biện luận rằng phán quyết của Taney ở tòa án liên bang là đúng,
phải được tôn trọng coi như chung kết không được cãi vã gì nữa. Ðối lại
Lincoln cho rằng ngoài tòa án ra các ngành khác của chính quyền là hành
pháp và lập pháp đều có quyền diễn giải hiến pháp theo lập luận riêng.
Ông nói: “Nếu tôi là dân biểu Quốc Hội bỏ phiếu để bãi bỏ nô lệ bất kể
vụ Scott bị xử thua, tôi sẽ bỏ phiếu tán thành ngay.” Cuộc tranh luận
này được đề nghị đưa lên Tối Cao Pháp Viện phân xử vì là thẩm quyền
chung cuộc để diễn giải hiến pháp. Nửa thế kỷ trước vụ Scott,
Tối Cao Pháp Viện tuy đã giải nghĩa từng chữ của bản hiến pháp nhưng vẫn
mặc nhiên công nhận lối phán đoán thiên vị của Taney và vụ Scott cho
thấy rõ vai trò rất hạn chế của tòa án trước ảnh hưởng chính trị. Chánh
Án Taney hy vọng rằng với phán quyết vụ Scott sẽ vĩnh viễn giải quyết êm
được toàn bộ vấn đề nô lệ trong toàn quốc. Nhưng dù rằng phe cấp tiến
không đạt được hiệu lực của Hòa ước Missouri và Hòa ước 1850, thì trái
lại phe bảo thủ cũng không đạt được ý muốn duy trì chế độ nô lệ theo kết
quả vụ Scott, ngược lại còn châm dầu thêm vào các bất đồng ý kiến để
sau này dẫn đến bùng nổ cuộc nội chiến tương tàn, giải quyết mâu thuẫn
bằng chiến tranh máu đổ thịt rơi thê thảm. Mặc dù sau thất bại
của Tối Cao Pháp Viện trong việc giải quyết chuyện nô lệ bằng cách dùng
hiến pháp để lập luận, vấn đề bãi bỏ nô lệ vẫn được coi như hợp hiến sau
cuộc nội chiến. Những điều khoản tu chính mới, Tu chính thứ Mười Ba,
Mười Bốn, và Mười Lăm (Thirteen, Fourteen, Fifteen Amendments) được coi
như những động cơ chấm dứt chế độ nô lệ, ngăn cấm kỳ thị chủng tộc và
chấp nhận cho dân da đen tham gia chính trị. Ðiều Tu Chính thứ Mười Bốn
đặc biệt rất quan trọng đã theo quan niệm của hiến pháp nguyên thủy và
bản Dân Quyền bảo đảm quyền hạn cho dân nô lệ mới được giải phóng.
Việc diễn giảng các tu chính hiến pháp trong những thế kỷ sau không
được đồng nhất từ nguyên tắc tới kết quả. Thí dụ như trong hai án lệ nổi
tiếng Plessy v. Ferguson năm 1896 tòa án thoạt tiên cho phân chia hành
khách khu trắng đen riêng biệt trên xe lửa, nhưng về sau trong vụ Brown
v. Board of Education năm 1954 tòa đã xử ngược lại cấm không được phân
chia lớp riêng cho học trò trắng và đen tại học đường. Vì vậy vấn đề kỳ
thị chủng tộc như vụ Scott qua bao thế kỷ vẫn gây tranh luận không những
ở tòa án mà còn trong công chúng, họ thường lấy hiến pháp ra để trợ
lực. Luật hiến pháp từ đó đã được dùng để cung cấp những từ ngữ và
phương thức giải quyết những vấn đề hệ trọng, nhưng không những chỉ vì
từ ngữ hay phương thức, luật hiến pháp đã trở thành mẫu mực cần thiết và
quen thuộc trong suốt hơn hai trăm năm qua trong việc giải quyết vấn đề
vi hiến hay hợp hiến. Trả Lời Với Trích Dẫn 23-12-2010, 14:06 #5 luathoc I'm a Robot Tham gia ngày Jan 2011 Bài viết 103 Thích 0 Được thích 1 lần / 1 bài Ðề: Tối Cao Pháp Viện : Diễn giải và áp dụng hiến pháp
Tuần qua, thẩm phán David Souter vừa tuyên bố quyết định về hưu, sau
hơn 19 năm giữ chức vụ thẩm phán tại Tối Cao Pháp Viện Liên Bang Hoa Kỳ.
Ở Mỹ, mỗi tiểu bang có hệ thống pháp lý riêng, và Tối Cao Pháp Viện của
tiểu bang là cơ quan tư pháp cao nhất. Trên bình diện quốc gia, Mỹ có
hệ thống tư pháp của liên bang, và Tối Cao Pháp Viện Liên Bang là cơ
quan tư pháp quyền lực nhất trên toàn lãnh thổ. Theo cơ chế
chính trị của Mỹ, quyền làm luật được giao cho cơ quan lập pháp các cấp
từ địa phương đến trung ương. Luật ban hành không được đi ngược lại tinh
thần của bản Hiến Pháp, đạo luật tối cao của quốc gia. Khi luật được
ban hành, hoặc khi luật được mang ra áp dụng, thường có những tranh cãi
về tính hợp hiến của luật. Những tranh cãi này thường được đưa ra tòa án
phân xử, và nếu được thượng tố, vấn đề sẽ lên đến tòa trên. Như đã nói,
Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ (TCPV) là tòa án cao nhất và quyết định của
tòa này là quyết định sau cùng, sẽ trở thành luật trên toàn lãnh thổ.
Những phán quyết của TCPV ảnh hưởng đến đời sống văn hóa chính trị của
toàn nước Mỹ bao gồm những vấn đề như quyền chọn lựa phá thai, quyền sở
hữu súng, lênh chống kỳ thị vv TCPV bao gồm 9 vị thẩm phán do Tổng thống
Hoa Kỳ đề cử, và thượng viện bỏ phiếu chuẩn nhận theo nguyên tắc đa số.
Sau khi được bổ nhiệm, nhiệm kỳ của một thẩm phán là suốt đời. Chính vì
vai trò quan trọng của TCPV nên việc bổ nhiệm một thẩm phán vào TCPV
đòi hỏi sự chọn lựa kỹ lưỡng. Trong số 9 vị thẩm phán đương nhiệm, chỉ
có 1 thẩm phán da đen và 1 thẩm phán phụ nữ. Người ta tin rằng lần này,
để thay thế thẩm phán Souter, tổng thống Obama sẽ bổ nhiệm một nữ thẩm
phán thuộc nhóm sắc tộc Mỹ Latin, để TCPV có thêm đại diện phản ảnh cho
các thành phần dân số đa dạng của Mỹ. TCPV như chúng ta được
biết ngày hôm nay là một cơ quan có pháp quyền tối thượng vững chắc,
ngay cả vị Tổng Thống của Hoa Kỳ cũng phải tôn trọng. Nhưng từ thuở lập
quốc đến nay, TCPV cũng đã đôi lần trải qua những thử thách về quyền lực
với phía hành pháp. Vì không trực tiếp chỉ huy quân đội hay cảnh sát,
TCPV chỉ ra phán quyết nhưng không nghiêm chấp được phán quyết của chính
mình, mà việc thi hành quyết định của tòa phải nhờ vào các lực lượng vũ
trang dưới quyền chỉ huy của tổng thống, của ngành hành pháp. Lần chống
lại lệnh tòa đầu tiên xảy ra năm 1832, khi tổng thống Andrew Jackson
không đồng ý với phán quyết của TCPV trong vụ Worcester v. Georgia.
Trong vụ này, có lời đồn rằng tổng thống Jackson tuyên bố: “Thẩm phán
Marshall đã ra quyết định; vậy thì để ông ấy nghiêm chấp án lệnh của
ông.” Tuy nhiên, nhiều sử gia đã lên tiếng bác bỏ lời đồn về câu tuyên
bố này. Lần thứ hai có sự chống đối là sau khi TCPV ra phán quyết xóa bỏ
phân biệt màu da trong các trường công lập (Brown v. Board of
Education), các nhóm dân quân da trắng địa phương đã đứng lên chống đối.
Gần đây nhất, trong vụ United States v. Nixon năm 1974, nhiều người lo
ngại tổng thống Nixon sẽ cưỡng lại lệnh tòa và không chịu giao những
cuốn băng thu mật trong vụ Watergate. Tuy nhiên, sau cùng Tổng Thống
Nixon cũng tuân lệnh tòa và giao lại những cuốn băng ấy, dẫn đến việc từ
chức của ông. Sau mỗi lần có sự thách thức, quyền lực của TCPV lại được
củng cố thêm; và tính độc lập của TCPV đối với chính phủ và quốc hội
khiến TCPV là một đảm bảo cho nguyên tắc cân bằng quyền lực của Mỹ.
Lược qua lịch sử của nền dân chủ Mỹ và của TCPV nói riêng, chúng ta mới
trân trọng tinh thần thượng tôn luật pháp của từng người lãnh đạo và
từng người dân của Mỹ. Tham, sân, si hiện diện trong mọi người, mọi nơi;
nếu những vị tổng thống tiên khởi của Mỹ cũng trở thành những Lenine,
Staline, Hitler hay Mao Trạch Đông, chắc nước Mỹ cũng sẽ trải qua những
xáo trộn đẫm máu mỗi lần thay đổi chính quyền. Nhưng cái may mắn của
nước Mỹ là những anh hùng lập quốc là những người vì quốc gia, vì mọi
người, mà không trở nên độc tài, tham quyền cố vị. Sau khi những người
đi trước đã xây đắp một nền móng dân chủ vững chắc, những kẻ đi sau như
Jackson, Nixon … sẽ không có cơ sở để lạm quyền, độc tài, bởi vì họ
không thể ra lệnh cho cấp chỉ huy quân đội hay cảnh sát vô cớ đàn áp
người dân. Thỉnh thoảng chúng ta cũng sẽ gặp những cá nhân ngoan cố như
cựu thống đốc Blagojavich của Illinois mới đây, nhưng hệ thống dân chủ
của Hoa Kỳ sẽ dễ dàng đào thải những mầm mống bại hoại như thế. Đa số
người dân và lãnh đạo Hoa Kỳ ngày nay tự nguyện tôn trọng bảo vệ luật
pháp, hiến pháp, và các cơ chế chính quyền của họ. Ở Mỹ, không ai tuân
lênh một tổng thống để bắn giết dân theo kiểu Nga Sô, Trung Quốc.
Những nước giàu mạnh hàng đầu thế giới ngày nay như Nhật, Đức, cũng đã
có thời trải qua những chế độ độc tài kiểu Hitler hay Hirohito, nhưng
sau cuộc chiến tranh, nhân dân các nước ấy đã vùng lên và không còn tin
vào lãnh đạo kiểu thiên hoàng hay quốc trưởng. Đức và Nhật ngày nay đang
hưởng một nền dân chủ tiến bộ, làm nền tảng cho sự lớn mạnh kỳ diệu về
kinh tế.
0 comments:
Post a Comment