Mùa thu năm 1010, Lý Thái Tổ dời
kinh đô từ Hoa Lư ra thành Đại La và đặt tên cho kinh đô mới là Thăng Long. Từ
đó Thăng Long trở thành trung tâm kinh tế- chính trị và văn hóa của cả nước.
Lịch sử phát triển của Thăng Long - Hà Nội cho thấy những nét đặc trưng của
kinh đô - đô thị Việt Nam nói riêng và phương Đông nói chung.
Đến đầu thế kỷ XX, dưới tác động
của chương trình khai thác thuộc địa của Pháp, Hà Nội từ một thành thị phong
kiến trung đại ngày càng mang dáng dấp một đô thị hiện đại, trung tâm kinh tế,
chính trị và văn hóa, là “thủ đô của Bắc Kỳ” và đặc biệt, với việc đặt Phủ Toàn
quyền ở Hà Nội, Hà Nội đã thực sự trở thành “Thủ đô của Liên bang Đông Dương”.
Vì vậy, người Hà Nội, phụ nữ Hà Nội không chỉ mang đầy đủ những
đặc tính cơ bản của người Việt Nam nói chung và của phụ nữ Việt Nam nói riêng
mà còn thể hiện rõ những dấu ấn lịch sử, văn hóa do vị thế trung tâm văn hóa,
chính trị của Thăng Long - Hà Nội mang lại, đồng thời chịu ảnh hưởng trực tiếp
mọi biến động của thời cuộc. Bài viết này của chúng tôi muốn đi vào tìm
hiểu quá trình đi từ truyền thống đến cách tân của phụ nữ Hà Nội trong những
năm nửa đầu thế kỷ XX.
1. Hình ảnh người phụ nữ Thăng Long - Hà Nội truyền thống
1.1. Những ảnh hưởng của Nho giáo
trong bối cảnh Thăng Long - Hà Nội là kinh đô của các triều đại phong kiến.
Nho giáo là một học thuyết chính
trị xuất hiện ở Trung Quốc từ thời Xuân Thu (722-481TCN) và được du nhập vào Việt
Nam dưới thời Bắc thuộc từ thế kỷ I đến thế kỷ X. Những quy định về đạo đức
theo quan điểm Nho giáo đối với phụ nữ cũng được truyền bá vào Việt Nam cùng
với vị thế ngày càng được củng cố và đề cao của nhà nước phong kiến đối với Nho
giáo. Các triều đại phong kiến, đặc biệt từ triều Lê thế kỷ XV, trong khi xây
dựng một thể chế quân chủ Nho giáo đã cụ thể hóa những quy định của Nho giáo
thành những điều luật nhằm
củng cố gia đình, tông tộc, xóm thôn theo giáo lý đạo Nho với lễ, nghĩa, hiếu,
trung, “tam tòng”, “tứ đức”…
Những quy định về chuẩn mực đạo đức của người phụ
nữ theo tinh thần Nho giáo còn được các trí thức phong kiến thể hiện trong Gia
Huấn Ca,
trong hương ước các làng xã.
Những bản hương ước này không chỉ quy định chặt chẽ những vấn đề liên quan tới
cuộc sống của cộng đồng làng xã mà còn quy định về cách ứng xử của người phụ nữ
trong gia đình và ngoài xã hội. Hương ước cũng quy định phụ nữ không được tham
gia vào các hoạt động chung của cộng đồng làng xã, không được vào giáp, vào họ…
Trong những sinh hoạt tại đình làng, phụ nữ chỉ là những người đứng bên ngoài…
Như vậy, theo những quy định của
Nho giáo thì một người phụ nữ mẫu mực phải là người chịu sống phụ thuộc vào một
người đàn ông là cha, chồng và con trai trong suốt cuộc đời họ. Họ không có tư
cách riêng của mình, cũng như không bao giờ được khuyến khích thể hiện năng lực
cá nhân, không được tham gia vào các sinh hoạt chính trị có liên quan tới cuộc
sống của họ.
 |
(Ảnh một nhóm thiếu nữ Hà nội đầu thế kỷ XX) |
Tuy nhiên, trong khi Việt Nam
được các nhà nghiên cứu xếp vào khu vực các nước chịu ảnh hưởng Nho giáo, thì
xu thế chung hiện nay ngày càng có nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao vị trí của
người phụ nữ trong gia đình và xã hội nhờ những đóng góp to lớn của họ trong
lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Ảnh hưởng của Nho giáo đối với phụ nữ chủ yếu ở các tầng lớp trên, trong giới
quan lại và Nho sĩ. Thăng Long - Hà Nội với vị trí là kinh đô của nhiều triều
đại phong kiến, là trung tâm văn hóa, nơi đào tạo và tổ chức các kì thi Nho
giáo trong nhiều thế kỷ, trở thành nơi tập trung đông đảo giới quan liêu và Nho
sĩ nhất trong cả nước. Do đó, phụ nữ trong các gia đình quan lại, nho sĩ, một
bộ phận dân cư quan trọng của Thăng Long – Hà Nội cũng chính là những người
chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo trong xã hội Việt Nam truyền thống.
1.2. Ảnh hưởng của những điều kiện
tự nhiên và xã hội cũng như vai trò trung tâm kinh tế của Thăng Long- Hà
Nội
Do những điều kiện tự nhiên và xã
hội đặc biệt, mà người phụ nữ Việt Nam trở thành những người có vai trò chính
trong hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hóa. Có thể nói phụ nữ Việt Nam là
những người làm nên bộ mặt của kinh tế hàng hóa Việt Nam. Điều này không chỉ
phản ánh trong ca dao tục ngữ cổ Việt Nam mà
còn được các giáo sĩ, nhà buôn người nước ngoài đến Việt Nam trong các thế kỷ
17-18 ghi nhận. Nghiên
cứu của Nguyễn Quang Ngọc “Về một số làng buôn ở đồng bằng Bắc bộ thế kỷ 17-18” và
của Nguyễn Thừa Hỷ “Thăng Long –Hà Nội thế kỷ XVII-XVIII- XIX” đã
cho thấy vai trò của phụ nữ trong sản xuất hàng hóa và các hoạt động buôn bán ở
các làng quê cũng như vai trò của họ trong việc tạo nên diện mạo khu vực thị
của Thăng Long Hà Nội.
 |
(Ảnh: Những người phụ nữ là những người làm nên bộ mặt của kinh tế hàng hóa VN) |
Theo Nguyễn Quang Ngọc, phụ nữ là
những người có vai trò chính trong mạng lưới các chợ làng ở nông thôn. Họ sản
xuất hàng hóa và trực tiếp bán sản phẩm của mình tại các chợ làng, hoặc mang
sản phẩm đến những vùng xa xôi hơn. Nhiều người thợ thủ công kiêm tiểu thương
sau khi có được số vốn lớn đã mở cửa hàng ở các đô thị. Khi đã làm ăn phát đạt
ở Thăng Long, họ đưa gia đình và người làng lên lập nghiệp ở đây, đôi khi họ ở
thành cả một phố. Nguyễn
Thừa Hỷ cho biết, hầu hết thương nhân và thợ thủ công ở Thăng Long là những
người dân ở các làng ven Thăng Long.
 |
(Ảnh chụp các cửa hàng ở Hà nội, đầu thế kỷ XX) |
Những người thợ thủ công này vừa
làm nghề vừa trực tiếp bán sản phẩm. Những cửa hàng ở Thăng Long thường cũng là
những cửa hàng bán những sản phẩm do chính họ sản xuất. Andre’ Masson trong
cuốn “Hà Nội giai đoạn 1873-1888” đã mô tả quang cảnh Hà Nội trong những ngày
phiên chợ: “Cứ sáu ngày lại có một phiên chợ Hà Nội. Lái buôn và thợ thủ công
đủ các loại từ các làng mạc xung quanh kéo tới. Những người bán tơ lụa tới phố
Hàng Đào, những người làm cuốc xẻng tới phố Hàng Đồng, những người làm mũ tới
phố hàng Mũ, tóm lại thì thợ gì tới phố dành cho thợ ấy. Thành phố biến thành
cái chợ mênh mông…”.
 |
(Ảnh chụp một giờ học thể dục của một trường nữ sinh) |
William Dampier trong “Một chuyến
du hành đến Đàng Ngoài năm 1688” cũng cho biết sự giỏi giang khéo léo của phụ
nữ trong buôn bán đã được các thương nhân ngoại quốc lợi dụng để kiếm lời: “Nhiều thương nhân ngoại quốc đã kiếm được
bộn tiền bằng cách giao cho những bà vợ Đàng Ngoài tiền và hàng hóa…Họ mua tơ
sống vào mùa nhàn rỗi trong năm và thuê đám thợ nghèo làm trong lúc nông nhàn.
Theo cách này mà họ có được những thứ vải dệt tốt hơn trong khi chi phí lại
thấp hơn nhiều so với thời điểm tầu cập bến…Bằng cách làm như vậy, họ có được
hàng hóa sẵn sàng trước khi tàu tới và trước khi mùa đặt hàng bắt đầu…”.
William Dampier cũng đánh giá cao
khả năng buôn bán của người phụ nữ Thăng Long- Hà Nội trong nghề đổi tiền: “Đổi tiền là một nghề quan trọng ở đây. Làm
nghề này là phụ nữ- những người khéo léo và khôn ngoan đặc biệt về nghề này. Họ
thực hiện công việc về đêm và biết cách sinh lời giỏi chẳng kém các nhà buôn cổ
phần tinh khôn nhất ở Luân đôn”,
những cô bán hàng trong các “cửa hàng tơ
lụa ở phố Hàng Đào, lộng lẫy rực rỡ như chốn hang động của Alibaba”.
Như vậy người phụ nữ Thăng Long –
Hà Nội cũng là những người lao động cần cù, năng động, giỏi kinh doanh và thực
sự là người nắm giữ tài sản, tiền bạc trong gia đình. Đây sẽ là cơ sở tạo nên
sự tự chủ của phụ nữ Hà Nội trong các phong trào dân chủ và yêu nước trong thời
kỳ vận động cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
1.3. Những tác động do vị thế trung tâm văn hóa của Thăng Long-Hà Nội
Trong nhiều thế kỷ, Thăng Long đã
là một trung tâm văn hóa, nơi tổ chức những kỳ thi Hội, thi Đình. Ở Thăng Long
còn có trường Quốc Tử Giám (sau là trường Thái học) do nhà nước tổ chức, theo
chế độ lưu trú, và nhiều các trường, lớp tư nhân của các vị đại khoa. Tư liệu
lịch sử cho biết mỗi đợt thi có từ hàng ngàn đến hàng chục ngàn sĩ tử từ mọi
địa phương trong nước tập trung về Thăng Long. Những thí sinh này sau khi đỗ sẽ
gia nhập đẳng cấp quan liêu, nhiều người qua hôn nhân đã trở thành thành viên
của các gia đình buôn bán giàu có tại kinh đô. Chính điều này đã tạo nên nền
tảng trí thức cho phụ nữ Thăng Long-Hà Nội.
Thăng Long - Hà Nội cũng được coi
là kinh đô của văn học - nghệ thuật, nơi hội tụ và giao lưu của giới nghệ sĩ, tài
tử giai nhân, những gương mặt văn hoá lớn như: Nguyễn Trãi, Đoàn Thị Điểm, Phạm
Đình Hổ, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du…
Với tư cách là một trung tâm
chính trị, kinh tế, Thăng Long-Hà Nội còn là nơi giao lưu, hội tụ, kết tinh,
lan toả các đặc trưng văn hoá, nơi thu hút các nhân vật, gương mặt văn hoá của
các địa phương trong cả nước. Vì vậy, ở phụ nữ Thăng Long còn có sự tập trung,
pha trộn nhiều tính cách đặc trưng của các vùng- miền: Sự hào hoa thanh lịch
vốn có của Kinh Kỳ, phẩm chất cần cù chịu đựng gian khổ của miền Trung, cũng
như nét phóng khoáng nghĩa hiệp của miền Nam… Ngoài ra, với vị thế là kinh đô,
trung tâm chính trị-kinh tế, người Thăng Long-Hà Nội còn sớm có quan hệ giao
lưu với người nước ngoài, tiếp nhận và tiếp biến các giá trị văn hóa của các nền
văn minh khác trên thế giới.
Sự có mặt của những người nước
ngoài đến cư trú, sinh sống ở Thăng Long - Hà Nội và những quan hệ, tiếp xúc
của họ với người dân đô thị bản địa đã có những ảnh hưởng nhất định đến sinh
hoạt, lối sống, tâm lý của một bộ phận cư dân. Người Thăng Long trở nên năng
động, cởi mở trong các quan hệ xã hội. Ở giữa khu vực trung tâm, nơi giao lưu
hội tụ các đặc trưng văn hóa vùng miền trong nước cũng như quốc tế, phụ nữ
Thăng Long-Hà Nội trở thành sứ giả bắc cầu nối giao lưu, tiếp nhận và tiếp biến
các giá trị văn hoá mới trong mọi mặt đời sống như trang phục, tập quán sinh
hoạt, lễ hội, ẩm thực...làm phong phú thêm nền văn hoá và tính cách của con
người Thăng Long-Hà Nội...
2. Hình ảnh người phụ nữ Hà Nội mới trong bối cảnh tiếp xúc văn hóa
Đông Tây nửa đầu thế kỷ XX.
Cuối thế kỷ XIX, Việt Nam trở
thành thuộc địa của Pháp. Từ năm 1897 Pháp bắt đầu thực hiện chương trình khai
thác thuộc địa ở Việt Nam. Cũng trong thời kỳ này Hà Nội dần dần chuyển mình từ
cơ sở hạ tầng cho đến
các hoạt động kinh tế,
văn hóa...
từ kết cấu dân cư cho tới những biến chuyển về mặt tư tưởng… để trở thành một
đô thị hiện đại. Về mặt cư dân, bên cạnh tầng lớp quan lại phong kiến, Hà Nội
còn có các công chức làm việc cho chính quyền thuộc địa, các chủ doanh nghiệp,
nhà thầu khoán, chủ hiệu buôn, học sinh, sinh viên, công nhân và thợ thủ công…
Sự chuyển biến của bộ mặt thành thị cùng với các sách Tân Thư đã làm thay đổi
nhãn quan chính trị của tầng lớp trí thức đô thị. Qua “Tân thư”, những tư tưởng
dân chủ tư sản của Rousseau, Voltaire, Montesquieu, Khang Hữu Vi và Lương Khải
Siêu… đã làm dấy lên phong trào đòi Duy Tân, cải cách đầu thế kỷ XX. Cùng với
những tư tưởng dân chủ tư sản, tư tưởng về nữ quyền cũng được truyền bá vào
Việt Nam và làm đảo lộn nhận thức về vai trò và địa vị của người phụ nữ trong
xã hội, ý thức về giá trị cá nhân, về quyền con người: quyền học tập, quyền mưu
cầu hạnh phúc và khẳng định năng lực bản thân và quan trọng hơn là quyền được
tự định đoạt vận mệnh mình. Tất cả những tư tưởng mới mẻ này hoàn toàn mâu
thuẫn với những chuẩn mực đạo đức được giai cấp phong kiến duy trì và bảo vệ,
nhưng với truyền thống đảm đang tháo vát và khả năng nhạy bén được cọ sát trong
một môi trường văn hóa đa dạng, phụ nữ Hà Nội đã có sự chuyển biến không chỉ
trong nhận thức mà trong cả hành động thực tế.
2.1. Nắm lấy cơ hội giáo dục,
tham gia lĩnh vực truyền thông nhằm thay đổi nhận thức về vai trò và địa vị của
phụ nữ trong gia đình và xã hội, bày tỏ nguyện vọng của giới mình
Nho giáo quan niệm “phụ nhân nan hóa”/ (phụ nữ khó dạy) và
hệ thống quyền lực theo mô hình quân chủ Nho giáo quan liêu chỉ chấp nhận đàn
ông nên mặc dù trong lịch sử Việt Nam đã từng có Nguyên phi Ỷ Lan giỏi giang
thông thái thay Vua trị nước, có Nguyễn Thị Lộ, Ngô Chi Lan thông minh, hay chữ
được tuyển vào cung vua để dạy cho các hoàng tử và công chúa, có Nguyễn Thị
Duệ, người phụ nữ giả nam giới đi thi và đậu tiến sĩ dưới triều Mạc, có Đoàn
Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan Nguyễn Thị Hinh… đã để lại cho đời
sau nhiều tác phẩm văn học, những áng thơ văn bất hủ…thì hầu hết phụ nữ Việt
Nam vẫn không được đến trường học tập. Họ không được đi thi và vì vậy cũng
không được tham dự vào bộ máy quyền lực ở bất kỳ cấp nào.
 |
(Ảnh chụp một trường Tiểu học ở Nam Định năm 1908) |
Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ XX, do
ảnh hưởng của những tư tưởng dân chủ, giới trí thức tiến bộ của Việt Nam đã đề
nghị chính quyền thuộc địa mở trường học cho phụ nữ vì “nữ giới sẽ là những bổ
trợ tuyệt vời trong việc giáo dục trẻ thơ”, “dạy học sẽ nâng cao tinh thần và
và trình độ đạo đức cho nữ giới, tăng sự đánh giá và tôn trọng cần thiết đối
với họ”.
Một loạt các trường tiểu học được mở tại các làng xã và nhiều trường bắt đầu
nhận nữ sinh.
Tại Hà Nội, trong bối cảnh của
phong trào Duy Tân do các sĩ phu phong kiến tư sản hóa phát động, nhằm “khai
dân trí, chấn dân khí”, các trường Nghĩa thục được thành lập vào năm 1907, tiêu biểu nhất là trường Đông Kinh Nghĩa Thục.
Đăng cổ tùng báo đã cho biết, trường không hạn chế việc thu nhận nữ sinh, và có
nhiều phụ nữ Hà Nội tham dự các buổi học, các buổi bình văn, thậm chí tham gia
giảng dạy tại trường.

Năm 1908, trường Brieu (Trường
Hàng Cót) là trường nữ học đầu tiên ở Bắc Kỳ, cũng là trường nữ học đầu tiên
trên toàn Đông Dương dạy theo chương trình Pháp-Việt khai giảng ngày 6/1. Theo
số liệu thống kê của Nha học chính Bắc kỳ, số học sinh ban đầu của trường này
là 178 người,
năm 1922-1923, số nữ sinh của trường trung học Hà Nội là 129 người chưa kể số
học sinh nữ học tại các trường tư và trong các trường học chung cả nam lẫn nữ.
Năm 1931-1932, số học sinh nữ ở Bắc Kỳ là 8.218 người, đến năm 1941-1942, tổng
số nữ sinh ở Bắc kỳ là 24.658 người… Trong các trường dạy nghề, trường cao đẳng
và đại học, số nữ sinh cũng ngày càng tăng. …Tiêu biểu trong số nữ sinh Hà Nội
phải nhắc đến Hoàng Thị Nga, là người phụ nữ đầu tiên của Việt Nam giành học vị
Tiến sĩ Khoa học (Docteures es scienes) của Pháp.
 |
(Giờ Hóa học của một trường nữ sinh) |
Nhiều nữ sinh theo học ngành sư
phạm, hộ sinh. Cho đến năm 1941-1942, tổng số nữ giáo viên toàn Đông Dương là
883 người, trong số đó có 147 nữ giáo viên ở Bắc Kỳ. Mặc
dù nữ sinh chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ so với dân số, thậm chí ngay cả so với số người
được đi học (năm1920, chiếm khoảng 7%, năm 1941-1942 khoảng 10%
tổng số học sinh) nhưng cũng đã có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của xã
hội.
Với tư cách là “người thày đầu
tiên” của trẻ em, việc nữ giới được học tập, có tri thức góp phần quan trọng
vào việc giáo dục thế hệ trẻ, tạo cơ sở cho những thay đổi căn bản về văn hóa,
xã hội trong tương lai. Quan trọng hơn, đội ngũ nữ trí thức này qua báo chí đã
có đóng góp quan trọng trong việc truyền bá những tư tưởng mới, nhằm thay đổi
nhận thức không chỉ của nữ giới mà của cả xã hội về vai trò và địa vị của phụ
nữ trong xã hội. Họ tham gia làm báo trước hết là để tạo cơ hội cho phụ nữ bày
tỏ nguyện vọng của mình.
Các tờ báo phụ nữ đều ghi rõ tôn chỉ là : “Viết cho phụ nữ đọc và do phụ nữ
viêt” ( Báo Việt nữ), “Là cơ quan hành động và hành động theo một chủ nghĩa
tân tiến có lợi ích trực tiếp cho chị em chúng ta” (Báo Phụ nữ)…Họ cũng đã
nhanh chóng nhận thấy báo chí là một lợi khí để đấu tranh. Họ viết báo, thảo
luận về các vấn đề phụ nữ
trên các tờ báo phụ nữ và các trang phụ nữ trên các tờ nhật báo khác. Có thể
nói việc nhận thức đúng đắn về vai trò và địa vị của phụ nữ trong gia đình và
xã hội là một cuộc cách mạng về tư tưởng, là nền tảng cơ bản để phụ nữ ý thức
về quyền của mình trong xã hội. Đây chính là một sự cách tân- một bước tiến lớn
của phụ nữ Hà Nội nói riêng và phụ nữ Việt Nam nói chung - từ chỗ chưa bao giờ
có tiếng nói trong đời sống cộng đồng, nay qua báo chí, họ đã có thể bày tỏ khát
vọng của mình cũng như khẳng định quyền được giáo dục, được làm việc, được sống
hạnh phúc và tự quyết định vận mệnh mình với tư cách một con người bình đẳng
với nam giới và đấu tranh để thực hiện những quyền đó.
2.2. Đấu tranh giải phóng phụ nữ: Khẳng định quyền tự do cá nhân, quyền
được thể hiện năng lực bản thân
Quan niệm đạo đức Nho giáo đòi
hỏi phụ nữ sống phụ thuộc vào nam giới theo đạo “tam tòng” và trau dồi “tứ
đức”: công, dung, ngôn, hạnh. Mức độ vừa phải “phụ đức không cần phải có tài
năng gì khác người”, “phụ ngôn thì không cần mồm mép lanh lợi”, “phụ dung thì
không cần nhan sắc xinh đẹp”, “phụ công thì không cần khéo léo hơn người”
rõ ràng nhất quán với chủ trương giữ người phụ nữ trong gia đình làm người nội
trợ của Nho giáo, bất chấp vai trò quan trọng của họ trong nền sản xuất xã hội
và kinh tế gia đình. Đến đầu thế kỷ XX, chương trình giáo dục lấy tiếng Pháp là
ngôn ngữ sử dụng chính trong nhà trường và số nữ simh biết tiếng Pháp ngày càng
tăng là cơ sở để người phụ nữ Hà Nội tiếp cận với văn hóa và văn minh phương
Tây. Bên cạnh đó cũng phải kể đến vai trò của báo chí, nhất là những tờ báo như
báo Nam phong, Đông Dương tạp chí… luôn giới thiệu các học thuyết chính trị,
các hệ tư tưởng dân chủ tư sản, kể cả chủ nghĩa nữ quyền, phong trào phụ nữ
trên thế giới. Đặc biệt từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tư tưởng nữ
quyền qua sách báo đã được du nhập vào Việt Nam và nhanh chóng được phụ nữ Việt
Nam tiếp nhận.
Những nội dung cơ bản của chủ
nghĩa nữ quyền phương Tây thời kỳ này như: đấu tranh đòi quyền được giáo dục,
quyền được làm việc và quyền chính trị, xét trên thực tiễn Việt Nam đã gây ra
nhiều cuộc tranh luận. Quyền được học tập là vấn đề giành được sự ủng hộ của
hầu hết mọi người, nhưng quyền làm việc và có nghề nghiệp đã vấp phải một sự
thật là phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay đều tham gia vào mọi lĩnh vực sản xuất
và lưu thông hàng hóa, do đó vấn đề mới đặt ra đối với phụ nữ trong bối cảnh
của nền kinh tế thuộc địa là đấu tranh để khẳng định giá trị lao động của phụ
nữ và những đóng góp của họ phải được công nhận.
Phụ nữ Hà Nội đã đấu tranh để đòi
được hưởng lương ngang bằng nam giới khi đảm nhiệm cùng công việc, phụ nữ phải
được tuyển dụng vào các công sở làm việc theo đúng nghề được đào tạo như nam
giới, được bảo hộ khi thai sản và ngày làm 8 tiếng. Trong phong trào Đông Dương
Đại hội những năm 1936-1939, phụ nữ Hà Nội đã kết thành một đoàn thể riêng tham
gia vào các cuộc mit tinh tuần hành chung của nhân dân thành phố với những yêu
cầu riêng của mình.
Sự xuất hiện các cô “gái mới”
trong thời kỳ này không chỉ là biểu hiện của ảnh hưởng văn hóa và lối sống
phương Tây mà còn là sự thách thức những giá trị cũ, khẳng định nhu cầu được
thể hiện giá trị cá nhân. Hình ảnh một cô gái tân thời ở Hà Nội được báo Phụ nữ
thời đàm mô tả là “ăn mặc và trang sức theo kiểu mới. Quần trắng áo màu, giày
cao gót…để răng trắng, rẽ đường ngôi lệch… nói chuyện với đàn ông bằng tiếng
Pháp, thỉnh thoảng viết bài đăng nhật trình, trên danh thiếp có đề chữ nữ sĩ…”
Tuy nhiên bài báo cũng nhấn mạnh “gái tân thời phải có học thức mới, tư tưởng
mới, giỏi ra nữa phải có cách sinh hoạt mới: như thế mới là “tân” (Phụ nữ thủ đô ngày 29/10/1933).

Ăn mặc đẹp, thời trang cũng là
một cách thể hiện mình- một sự cách tân. Phụ nữ Hà Nội đã mạnh dạn lên tiếng
bảo vệ nhu cầu làm đẹp chính đáng của mình trước những lời dị nghị “Chúng em
đuổi cái đuôi gà để rẽ lệch tóc, thay bộ răng ngà trắng muốt vào chỗ bộ răng
đen ngòm, mượn cây son môi để làm việc của miếng trầu toe toét kia… chúng em ưa
chiếc quần lụa bạch êm mát hơn cái quần sồi dày cồm cộp, trên đó người ta không
phân biệt được những giống bẩn thỉu gì, nhưng các cụ bảo sạch vì nó đen…” ( Báo
Phong hóa).
Bộ mặt phố phường Hà Nội cũng có
nhiều thay đổi với những cô gái hoặc duyên dáng trong chiếc áo dài tân thời
nhiều màu sắc, sự kết hợp tuyệt vời giữa y phục truyền thống với phong cách
thời trang Paris,
tôn vẻ mềm mại quyến rũ của người phụ nữ, hoặc khoẻ mạnh trong bộ quần sooc
trắng đạp xe đạp trên đường phố… Phụ nữ Hà Nội cũng không còn tuân theo đòi hỏi
khắt khe của Nho giáo “nam nữ thụ thụ bất thân” mà đã dám sánh vai cùng bạn
trai tới các rạp chiếu phim, rạp hát, các sàn khiêu vũ, các sân tập thể thao…
Người phụ nữ Hà Nội mới cũng hăng
hái tham gia tập thể thao. Họ viết báo, tuyên truyền, khích lệ phụ nữ chơi
tennit, đi bơi, thậm chí đi bộ đường dài…
Phong trào tập thể thao của phụ nữ Hà Nội thời kỳ này một mặt là biểu hiện của
ảnh hưởng văn hóa Phương Tây, quan niệm về cái đẹp gắn với sự khỏe mạnh, phù
hợp vớí một xã hội công nghiệp hiện đại, mặt khác còn thể hiện nhu cầu hòa nhập
cộng đồng, hoạt động tập thể, nhu cầu giao lưu và tinh thần vượt qua thử thách
của phụ nữ.
Đổi mới về mặt tư tưởng đồng
nghĩa với việc đấu tranh cho quyền tự do mưu cầu hạnh phúc, kết hôn vì tình
yêu, chống lại tập tục “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Nhiều cô gái đã dùng cái
chết của mình để gửi thông điệp đến cha mẹ và xã hội phản đối chế độ đại gia
đình và hôn nhân theo sắp đặt vốn được duy trì từ lâu trong xã hội.
Các cô gái Hà Nội trong các cuốn tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn như Mai (trong
Nửa chừng xuân của Khái Hưng), như Loan (trong Đoạn tuyệt của Nhất Linh) … đã
đấu tranh để bảo vệ danh dự và giá trị của bản thân cũng như đấu tranh cho hạnh
phúc của mình.
Cùng với sự phát triển của đô thị
và ảnh hưởng của phương Tây, một bộ môn nghệ thuật mới xuất hiện trong đời sống
văn hóa người Hà Nội đó là nghệ thuật kịch. Wynn Wilcox trong “Phụ nữ, sự
Phương Tây hóa và các nguồn gốc của kịch nghệ Việt Nam hiện đại” đã
cho rằng “Kịch nói hiện đại xuất hiện tại Việt Nam trong khung cảnh đảo lộn trí
thức và xã hội của các thập niên 1920-1930. Các vở kịch trong thời kỳ này hướng
tiêu điểm vào vị thế của phụ nữ, các hiệu ứng của sự Tây Phương hóa và sự xuất
hiện của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam”.
Cuộc thảo luận trên báo chí trước
năm 1945 cho thấy kịch nói đã nhanh chóng được nhìn nhận như một phương tiện có
hiệu quả để giáo dục và hoàn thiện nhân cách, nâng cao dân trí và quan trọng
hơn là có thể góp phần giải quyết vấn đề phụ nữ- đang là một vấn đề nóng bỏng
thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Năm 1927, các cô gái được cho là con nhà
gia giáo, có nề nếp của Hà Nội đã thành lập ban kịch “Nữ tài tử” và trình diễn
vở “Trang tử cổ bổn”. Mục đích của vở kịch như được thể hiện trước hết là dùng
luân lý để khuyên răn phụ nữ, sau là để lấy tiền ủng hộ đồng bào bị bão lụt.
Bất chấp những ý kiến cho rằng phụ nữ con nhà gia giáo, phụ nữ có giáo dục
không nên “vác bộ mặt hoa da phấn lên sân khấu múa may quay cuồng” (Hà Thành
Ngọ báo), phụ nữ Hà Nội vẫn tham gia đóng kịch, coi đó như “bổn phận đối với
bản thân mình và đối với xã hội” vì “người ta bất cứ trai hay gái đều có chức
vụ tự đào luyện cho nhân cách thực hoàn toàn đủ phát triển được hết tài năng” (Thời
báo-29-30/1/1931)
Như vậy có thể thấy người phụ nữ
mới của Hà Nội không chỉ thể hiện khát vọng tự do, khát vọng sống hạnh phúc
trong hôn nhân với người mình yêu mà còn khẳng định khát vọng được khẳng định
giá trị của bản thân, tự do phát triển tài năng. Việc những cô gái Hà Nội bước
ra khỏi ngôi nhà của mình để tham gia các hoạt động xã hội với khát vọng được
cống hiến, được khẳng định là bước chuẩn bị có ý nghĩa giúp họ bước vào cuộc
kháng chiến chống Pháp giành độc lập sau này.
2.3. Đấu tranh đòi quyền chính
trị, đòi quyền bầu cử, ứng cử là cách khẳng định quyền làm chủ vận mệnh mình
một cách thiết thực nhất
Ý thức được vai trò của mình
trong xã hội, phụ nữ Hà Nội nhận thức được rằng, để có thể làm chủ vận mệnh của
mình, người phụ nữ phải có quyền bầu cử, quyền ứng cử và quyền tham chính, vì
vậy họ sớm tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tiền đề để thực hiện
các quyền của phụ nữ.
Trong cuộc vận động đòi tự do dân
chủ thời kỳ 1936-1939, nhiều nữ trí thức đã tham gia viết bài tuyên truyền quan
điểm của Đảng về công tác vận động phụ nữ, kêu gọi phụ nữ đấu tranh, thành lập
các Ủy ban hành động, đưa ra những khẩu hiệu hướng dẫn và tập hợp phụ nữ đấu
tranh vì quyền lợi của bản thân phụ nữ như: thực hiện quyền phụ nữ phổ thông
đầu phiếu, tuyển dụng phụ nữ vào các công sở, làm việc ngang nhau, tiền lương
ngang nhau, mở trường và các nhà dạy thể dục thể thao cho chị em phụ nữ..
Ngày 24/9/1936, tại Hà Nội, 40
phụ nữ đã họp ở trụ sở hội Trí Tri phố hàng Quạt để bàn về việc thảo tập Dân
nguyện. Đoàn Thị Tâm Đan làm chủ tịch và các chị Tâm Kính (tức Trần Thị Trác)
và chị Đinh Thị Phượng làm thư ký. Hội nghị đã bàn về những vấn đề: mở trường
phổ thông riêng cho phụ nữ, không hạn chế tuổi; Phụ nữ phải có quyền bầu cử,
thành lập các tiểu ban để tập hợp nguyện vọng của phụ nữ cho sát với ngành nghề
như các ban Lao động, Thương mại, Nông giới, Công giới, Hộ sinh, công chức các
sở, giáo giới, báo giới…Trước việc có nhiều ý kiến không ủng hộ việc đòi quyền
bầu cử cho phụ nữ, Song Nga đã phát biểu trên báo Đông Pháp nhấn mạnh: Phụ nữ
cần phải có quyền bầu cử, vì đó chính là điều kiện để phụ nữ tham gia vào việc
công ích, cũng như đó chính là lợi khí bênh vực cho mình. “Bao giờ người đàn bà
cũng có quyền tự ý kén chọn người thay mặt cho mình thì mới mong thực hành
những nguyện vọng chính đáng cho mình được…” (Đông Pháp-4/10/1936)
Sau cuộc họp, ngày 4/10, báo Ngày
Nay có bài viết mỉa mai cuộc họp của phụ nữ với các biếm họa, ngay lập tức Tâm
Kính (Trần Thị Trác) có bài trả lời trên báo Tân xã hội “Báo Ngày nay thích
khôi hài, đó là việc của báo ấy. Nhưng báo ấy lợi dụng sự thấp kém về trình độ
của chị em chúng tôi để bầy trò hề mua vui độc giả là việc chúng tôi hết sức
phản đối” và chị cũng đã kêu gọi chị em“ phải quả quyết đặt mình lên trên sự
chế riễu vô ý thức ấy. Chúng ta hãy cứ sốt sắng, hăng hái làm việc của chúng
ta…”
Cuộc họp của các Ủy Ban phụ nữ để
thảo tập Dân nguyện này được báo chí đánh giá là “Lần thứ nhất ở Đông
Dương nữ giới ba kỳ biết hiệp hội để làm chính trị” (Đàn bà mới-26/10/1936)
Đỉnh cao của quyết tâm khẳng định
quyền làm chủ vận mệnh của người “phụ nữ
Hà Nội mới” được thể hiện trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
Theo lời kể của bà Lê Thi,
người đã trực tiếp tham gia nhiều hoạt động trong thời kỳ tiền khởi nghĩa cũng
như trong cuộc mit tinh tuần hành cướp chính quyền từ ngày 17-19/8 năm 1945,
thì phụ nữ Hà Nội nhiệt tình hưởng ứng cuộc vận động của Đảng cộng sản và tham
gia vô cùng đông đảo. Trong cuộc mit tinh của Tổng hội công chức của chính
quyền Trần Trọng Kim bà Nguyễn Khoa Diệu Hồng, đã “cướp diễn đàn”, giới thiệu
về Mặt trận Việt Minh, về kế hoạch tổng khởi nghĩa cướp chính quyền và thành
lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa…. Cuộc mít tinh đã nhanh chóng biến
thành cuộc biểu tình tuần hành. Bà Lê Thi nhớ lại : “ Phụ nữ chúng tôi rất
đông. Thiếu nữ Hà Nội áo dài quần trắng. Chị em tiểu thương thì mặc quần đen áo
cánh…Tôi không tả hết được cảm xúc vui sướng và hào khí cách mạng của ngày ấy.
Chỉ có thể nói là: Trước đó ở Hà Nội, chưa bao giờ phụ nữ đi bộ ngoài phố đông
như thế, lại còn vừa đi vừa vẫy cờ, vung tay hô khẩu hiệu vang trời, mà chẳng
thấy xấu hổ gì cả.”…
Cuộc Tổng khởi nghĩa của nhân dân
Hà Nội có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cuộc đấu tranh của nhân dân cả
nước, vì đây chính là thủ phủ của chính quyền thực dân ở Đông Dương. Cùng với
nhân dân Hà Nội, phụ nữ Hà Nội cũng tham gia vào việc chiếm giữ các cơ quan
công quyền như Tòa thị chính, Sở Liêm phóng, Phủ Khâm sai, nhà máy điện, nhà
máy nước, Ngân hàng Đông Dương… góp phần làm nên thành công của Cách mạng dân
tộc dân chủ của nhân dân Việt Nam, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt
Nam.
3. Kết luận
Trong nhiều thế kỷ, mặc dù có
đóng góp to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, phụ nữ Việt Nam
nói chung và phụ nữ Hà Nội nói riêng, do ảnh hưởng của Nho giáo, chưa bao giờ
được đánh giá đúng cũng như có tiếng nói trong cộng đồng và xã hội. Đầu thế kỷ
XX, dưới tác động của các chương trình khai thác thuộc địa của Pháp, sự thay
đổi trong xã hội Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX, ảnh hưởng của tư tưởng
dân chủ tư sản và phong trào nữ quyền thế giới đã làm thay đổi nhận thức của
phụ nữ. Từ chỗ suốt đời bị coi là “vị thành niên”, là người phụ thuộc, chưa bao
giờ được tham gia vào bộ máy chính quyền ở bất kỳ cấp nào, cũng như chưa bao
giờ có tiếng nói trong các cuộc bàn thảo liên quan đến cuộc sống của mình, thì
nay, phụ nữ Hà Nội đã bước một bước khá dài trong việc nhận thức vai trò và địa
vị của họ trong xã hội và từng bước khẳng định mình, đấu tranh để thực hiện
quyền tự do cá nhân, quyền được sống hạnh phúc và quyền tự quyết định vận mệnh
của mình, góp phần vào quá trình hiện đại hóa để hội nhập với thế giới của Hà
Nội như là một trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của cả nước trong thời
kỳ cận đại.
Chú thích
Trần Từ trong “Cơ cấu tổ chức làng Việt ở đồng bằng Bắc bộ”,
NXBKHXH (1984) đã đề cập đến vị trí “hai mặt” của phụ nữ Việt Nam trong gia
đình và xã hội, GS Trần Quốc Vượng cho rằng có một “nguyên lý mẹ” trong văn hóa
Việt Nam (Xem: Trần Quốc Vượng, bài viết trong Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, tháng 12/1996); GS In sun Yu chứng minh rằng
xã hội Việt Nam là một xã hội lưỡng hệ, trong đó phụ nữ và nam giới có đia vị
ngang nhau (Xem: In sun Yu, Mô hình xã hội lưỡng hệ và địa vị phụ nữ Việt Nam truyền thống,
Việt nam học – Kỷ yếu Hội thảo quốc tế lần thứ nhất, NXB Thế giới, 2001). Đặng
Thị Vân Chi (2004) trong “Ảnh hưởng của văn hóa Đông – Tây đối với địa vị phụ
nữ Việt Nam trong lịch sử” (Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 3 (64) tr 47-55) cũng phân tích những điều kiện tự nhiên và xã hội của Việt Nam đã ảnh hưởng đến vai
trò và địa vị của phụ nữ trong xã hội Việt Nam truyền thống. Đó là việc nam
giới thường xuyên vắng nhà để đi lính bảo vệ tổ quốc, đắp đê, làm thủy lợi,
người phụ nữ trở thành người lao động chính nuôi gia đình. Những đóng góp của
phụ nữ trong kinh tế gia đình và sản xuất xã hội đã làm người phụ nữ có địa vị
được tôn trọng.
Jean Koffler, một
giáo sĩ Tiệp Khắc đã viết trong "Cương yếu lịch sử xứ Đàng trong": "Người phụ nữ
do mẹ dạy dỗ nên đã làm quen với công việc từ lúc bé. Họ rất khéo trong việc
dệt vải bông và lụa. họ nhuộm những thứ này thành nhiều màu khác nhau. Họ cũng
khéo trong việc làm bánh trái và mứt kẹo… Người phụ nữ lười biếng và ngu độn thường
bị chê cười…Phụ nữ trồng thuốc lá, trồng bông. Phụ nữ buôn bán ở chợ hay ở cửa
hiệu người ngoại quốc…” John Barrow, Hội viên hội Hoàng gia Anh đến Đàng Trong
thế kỷ XVIII cũng có nhận xét: "Người phụ nữ ở đây rất hoạt động, họ trông coi
việc làm nhà, chỉ đạo lò gốm, chèo thuyền mang hang ra chợ bán, bật bông, kéo
sợi , dệt vải, may vá quần áo…Phụ nữ đi buôn bán các laoij hang hóa khá đông…” (Dẫn
lại của Trần Quốc Vượng (1972), Truyền thống phụ nữ Việt Nam, NXB Phụ nữ, tr.
17, 18).
Ví dụ dân làng Đan
Loan đã mang nghề nhuộm điều lên Thăng Long và lập ra phố Hàng Đào, dân làng
Chắm (Hải Dương) mang nghề thuộc da ra phố Hàng Giày, người Trâu Khê (Hải
Dương), Đồng Sâm (Thái Bình)… có nghề đúc bạc và đổi bạc lập ra phố Hàng Bạc,
người làng Đại Bái (Bắc Ninh) mang nghề đúc đồng ra khu vực Ngũ Xã (gần hồ Trúc
Bạch)…
Ví dụ như dân làng
Quất Động mang nghề thêu ra phố Yên Thái và Hàng Thêu (Hàng Trống), thợ thủ
công làng Hà Vĩ có nghề sơn thếp tới phố Hàng Hòm, người làng Nhị Khê mang nghề
tiện gỗ ra phố Hàng Hành, Hàng Tiện, còn thợ thủ công làng Chuyên Mỹ có nghề
khảm xà cừ lập ra phố Hàng Khay…
Andre’ Masson
(2002, Hà Nội giai đoạn 1873-1888, NCB Hải Phòng, tr.108.
Thăng Long đời Trần đã có phường Nhai Tuân tập trung
các khách thương Chà Và (Java) và Hồi Hột (người theo đạo Hồi vùng Trung Á,
theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi từ thế kỷ 15 đã có phường Đường Nhân (người
nước Đường, Trung Quốc) tập trung các Hoa kiều buôn bán. Thế kỷ thứ XVII -
XVIII, người phương Tây như Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp gồm các thương nhân
đi theo các tàu buôn và các giáo sĩ được Giáo hội cử sang truyền đạo cũng đã
đến Thăng Long. Nửa sau thế kỷ XVII, ở Thăng Long-Kẻ Chợ đã có hai thương điếm
Hà Lan và Anh được phép xây dựng và giao dịch. Một số nhà thờ Thiên chúa giáo
cũng đã được dựng ở Kẻ Chợ, với những xóm đạo đầu tiên ở ô Cầu Dền, ô Đống Mác,
Cầu Giấy và Hàng Bè (theo Nguyễn Quang Ngọc và Nguyễn Thừa Hỷ).
Buổi diễn kịch dầu tiên được tổ chức vào ngày 16/3/1885,
buổi biểu diễn này được coi là “một sự cách tân sân khấu khi xây dựng một nhà
hát kiểu Pháp ở Bắc kỳ”, Pháp cũng cho thành lập Viện hàn lâm Bắc Kỳ, các viện
nghiên cứu… mở phòng đọc sách, hiệu sách ngay từ những năm cuối thế kỷ 19 (
theo Andre’ Masson trong “ Hà Nội giai đoạn 1873-1888- sách đã dẫn) Năm 1901,
Nhà hát lớn Hà Nội được xây dựng, không chỉ là công trình mang đậm phong cách
kiến trúc Pháp mà còn là nới diễn ra các hoạt động văn hóa mới.
Trịnh Văn Thảo
(1995), L’ecole Francaise en Indochine, Paris, Kathala, tr.92,93.
Báo Đàn bà, Số xuân
1941, tr4.
Đăng cổ tùng báo
cho biết ngoài trường Đông kinh nghĩa thục, thời gian này ở Hà Nội còn có Ngọc
Xuyên Nghĩa thục và Mai Lâm nghĩa thục, là trường tư dạy chữ quốc ngữ và chữ
Hán. Báo ngày 17/10/1907 cho biết có 2 phụ nữ đại diện cho một nhóm khoảng 10
phụ nữ thông thạo tiếng Pháp, tiếng Hán và nữ công sẵn sang đến giúp trường
Đông Kinh Nghĩa thục (tr478).
Báo Đàn bà số Xuân
năm 1941, tr.4.
Trịnh Văn
Thảo(1995). L’ ecole Francaise en Indochine, Paris, Karthala Tr 148, (Bản dịch).
Ví dụ như Bà
Nguyễn Thị Đa (chủ nhiệm báo Phụ nữ thời đàm (1930-1934), Nguyễn Thị Thanh Tú
-Chủ nhiệm báo Việt nữ (1937), Nguyễn Thị Thảo - chủ nhiệm báo Phụ nữ (1938),
Lưu Thị Yến ( Thụy An)- chủ nhiệm báo Đàn bà (1939-1945), Trương Thị Nghĩa- chủ
nhiệm báo Bạn gái (1945)…
Trần Thị Trinh
Chính, Liên Hương, Thu Vân… trên Phụ nữ thời đàm, Lan Hương, Lệ Chi… trên báo
Phụ nữ, Mộng Sơn, Ngọc Lan, Thạch Lan, Việt Thanh…trên báo Việt Nữ, Phạm Ngọc
Châu, Hằng Phương, Nguyễn Hảo Ca, bà Phan Quang Định, Thu Linh… trên báo Đàn bà…
Lưu Cự Tài (2001),
Lịch sử tuyển chọn người đẹp, NXB Trẻ, tr135-136.
Nguồn gốc của
chiếc áo dài tân thời, theo báo Tân Á là do một người Việt Nam tạo ra năm 1921,
có ảnh hưởng của phong cách thời trang của nhà thiết kế thời trang nổi tiếng
người Pháp Doenillet. Đến năm 1929 mẫu áo dài này được nhà thiết kế thời trang
Chu Hương Mẫu đưa về Hà Nội và được họa sĩ Cát Tường lăng xê gọi là kiểu áo dài
Lemur. Đến năm 1933-1934 thì phụ nữ Hà Nội bắt đầu mặc nhiều và dần dần lan ra
cả nước. ( Phạm Thu (1997), Phụ nữ Việt nam với ý thức về cái đẹp và lịch sử
chiếc áo dài dân tộc” Kỷ yếu Hội nghị khoa học cán bộ nữ Đại học quốc gia Hà
Nội).
Năm 1929-1930,
Hoàng Việt Nga, một nữ sinh Hà Nội đã tổ chức cuộc đi bộ từ Hà Nội xuống Hải
Phòng,tháng 4 năm 1937, một đoàn phụ nữ Hà Nội khác cũng tổ chức cuộc đi bộ
thăm chùa Trầm. các cuộc đi bộ này đều gây tiếng vang và được báo chí đưa tin
nhiều.
Ở Hà Nội thời kỳ
này có khá nhiều vụ tự tử của các cô thiếu nữ ở Hồ Tây, Hồ Trúc Bạch mà báo chí
đã gọi là “ Nạn dịch tự tử”. Nguyên nhân của các vụ tự tử này là do bị cưỡng ép
kết hôn.
Wynn Wilcox, Women, Westernization and the Origins of
Modern Vietnamese Theatre, Journal of Southeast Asian Studies, 37 (2), các
trang 205-224, June 2006, The National University of Singapore: Singapore,
2006. (Bản dịch của Ngô Băc trên trang mạng; http://www.gio-o.com/NgoBacWWilcoxKichNghe.htm
)
Bà Lê Thi (nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu gia
đình và giới, con gái cố GS Dương Quảng Hàm). Bà là người tham gia cả hai sự
kiện lớn trong Cách mạng Tháng Tám: cuộc mít tinh 17/8 và ngày tổng khởi nghĩa
19/8 ở Hà Nội. Bà cũng là một trong hai thiếu nữ được vinh dự kéo cờ trong lễ
Độc lập 2/9/1945. (Người kia là bà Đàm Thị Loan, phu nhân Đại tướng Hoàng Văn
Thái). Theo bài trả lời phỏng vấn trên tuần Việt Nam 18.8 2006, “19/8 - cuộc
khởi nghĩa của những người tay không” do Đoan Trang thực hiện.18/08/2009 06:11.
0 comments:
Post a Comment