>> Những đặc trưng cơ bản và mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sách chuyên khảo) - GS.TSKH Đào Trí Úc chủ biên
1- Sự hiện diện của một tổ chức công quyền và nó phải dựa trên nền tảng pháp luật để duy trì công quyền.
2- Pháp luật được công quyền thừa nhận, sử dụng như một phương thức cai trị, quản lý có giá trị phổ biến và có hiệu lực bắt buộc. Tư tưởng coi pháp luật là một phương thức cai trị đã được hình thành từ thời cổ đại. Ngày nay học thuyết về nhà nước pháp quyền đã có một nội dung rất phong phú. Nhà nước pháp quyền là một chế độ nhà nước trong đó pháp luật có vai trò thống trị là một phương thức tổ chứ và hoạt động của quyền lực chính trị và những mối quan hệ qua lại giuwax nó với các các nhân trong xã hội. Nhà nước ban hành pháp luật, song không phải nhà nước đứng trên pháp luật. Ngược lại nhà nước (Bộ máy nhà nước) phải tuân thủ pháp luật trong toàn bộ hoạt động của mình.
Một nhà nước được coi là nhà nước pháp quyền khi có đủ những tiêu chuẩn sau:
+ Có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, trong đó các đạo luật có vai trò tối cao. Mọi tổ chức, các nhaant rong xã hội phải tuân thủ pháp luạt và bình đẳng trước pháp luật, pháp luật phải công bằng, phù hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân lao động.
+ Công dân có trách nhiệm với nhà nước và ngược lại nhà nước cũng có trách nhiệm đối với công dân.
+ Trong một nhà nước mà các quyền con người, quyền tự do dân chru được pháp luật bảo đảm và bảo vệ.
+ Trong một nhà nước mà quyền lập pháp, quyền hành pháp và tư pháp được phân định rõ ràng, có mối liên hệ và kiểm tra lẫn nhau.
+ Nhà nước sống hoà thuận với cộng đồng thế giới, thực hiện tân tâm các cam kết, các nghĩa vụ xuất phát từ các điều ước quốc tế mà nhà nước đó tham gia ký kết hay gia nhập. Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý mọi mặt kinh tế - văn hoá – xã hội bằng pháp luật.
Mọi chủ thể (kể cả nhà nước) đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật. Học thuyết về nhà nước pháp quyền là thành tựu chung của nền văn minh nhân loại. Trong điều kiện hiện nay việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam phù hợp với điều kiện khách quan của xã hội Việt Nam và xu thế chung của thế giới nhằm mục đích:
+ Chuyển nền kinh tế Việt Nam snag nên kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân mở rộng và thực hiện nên dân chủ xã hội chủ nghĩa.
+ Xây dựng mối quan hệ bình đẳng qua lại giữa nhà nước và công dân.
+ Mở rộng việc giao lưu hợp tác mọi mặt với nước ngoài. Nội dung cơ bản về việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam đã được đề ra trong văn kiện Đại hội VII của Đảng cống sản Việt Nam và cá bài phát biểu của các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước đó là:
- Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam trên cơ sở tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, lấy liên minh công nông làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Tôn trọng và bảo đảm thực tế các quyền tự do cơ bản của con người
- Xây dựng một nhà nước pháp quyền trong đó nhà nước phải có mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, cửa quyền, chống tham nhũng, lãng phí, đặc quyền, đặc lợi.
- Bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thốn nhất quyền lực vào cơ quan đại diện cao nhất nhưng có sự phân công rành mạch giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Nhà nước pháp quyền Việt Nam có một nền hành pháp chính quốc gia thống nhấ đả mạnh cải cách hành chính mà trước mắt là cải cách các thủ tục hành chính nhằm tạo ra sự hoạt động bình thường của bộ máy nhà nước, ngăn ngừa vi phạm quyền công dân và tệ nạn tham nhũng.
- Nhà nước pháp quyền Việt Nam xác định rõ quy chế công chức và chế độ công vụ.
http://www.diendanphapluat.vn/4rum/show ... php?t=3215
Trong yêu sách của nhân dân An Nam gửi Hội nghị quốc tế Vác Xây năm 1919, Hồ Chí Minh đã đòi phải cải cách nền pháp lý ở Đông Dương, thay thế chế độ cai trị bằng sắc lệnh (hiện thân của nhà nước không dân chủ) bằng chế độ cai trị theo luật, người bản xứ cũng có quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu, xoá bỏ hoàn toàn các toà án đặc biệt. Trong bức thư 8 điểm gửi hội nghị Vác Xây năm 1919, Hồ Chí Minh đã thể hiện tử tưởng nhà nước pháp quyền của mình trong câu thơ:
>> Những đặc trưng cơ bản và mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sách chuyên khảo) - GS.TSKH Đào Trí Úc chủ biên
Trong tuyên ngôn độc lập của nướ Việt Nam Dân Chủ cộng hoà năm 1945, Hồ Chí Minh đã trích tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ năm 1976 “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hoá cho họ những quyền mà không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”Bảy xin hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền
Không dừng lại ở đó Người đã nâng quyền con người lên thành quyền dân tộc. Người nói:
“Suy rộng ra câu ấy có nghĩa là, tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Trong điều 7 Hiến pháp 1946 do Hồ Chí Minh soạn thảo quy định “Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình” “Pháp luật của ta là bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người, vì vậy không chỉ nhân dân mà các cơ quan nhà nước cũng phải tuân thủ pháp luật, tôn trọng tính tôi cao của pháp luạt và phải trừng trị nghiêm khắc những kẻ phạm tội”
Mặc dù coi trọng pháp luật nhưng Hồ Chí Minh không cho rằng pháp luật là độc tôn trong xã hội. Người nó rằng “nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp cũng như mọi vấn đề khác trong lúc này là vấn đề ở đời và làm người, ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại bị đau khổ và áp bức”.
Tư tưởng nhà nước pháp quyền ở Hồ Chí Minh là lấy “nhân trị” kết hợp váo “pháp trị” kết với với “đức trị”
Tư tưởng nhà nước pháp quyền của HCM thể hiện trong tổ chức bộ máy nhà nước. Nhà nước pháp quyền trước hết phải là nhà nước hợp hiến. Để đảm bảo tính hợp Hiến của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, trong phiên họp của chính phủ ngày 3/9/1945 HCM đã đề nghị chính phủ tổ chức càng sớm càng tốt cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu để nhân dân lập ra nhà nước của mình. Nhà nước Pháp quyền Việt Nam theo HCM là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Trong thư gửi Uỷ ban các Kỳ, Tỉnh, Huyện, Làng, tháng 10/1945 Người viết “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của chính phủ từ toàn quốc tới các làng đều là công bộc của nhân dân, nghĩa là để gánh vác công việc chung cho nhân dân, chứ không phải để đè đầu, cưỡi cổ nhân dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật.
HCM còn làm rõ mối quan hệ giữa xã hội dân sự và xã hội chính trị (Tức nhà nước). Trong xã hội dân sự thì con người là chính, còn nhà nước phải phục tùng và phục vụ xã hội dân sự. Nhà nước không bao trùm toàn xã hội, nhà nước phải tạo ra khoản không gian rộng rãi cho sự phát triển và khẳng định cá nhân. Nhà nước một mặt coi trọng cộng đồng, mặt khác rất coi trọng cá nhân. Trong nhà nước pháp quyền của chúng ta chủ thể duy nhất của mọi quyền lực là nhân dân. Mọi quyền lực mà nhà nước có được đều do nhân dân uỷ quyền.
Tóm lại, nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới – Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân là:
+ Nhà nước do nhân dân lập ra và thông qua tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu.
+ Quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân là thống nhất nhưng có sự phân công, phân cấp, và phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận ở tất cả các cấp.
+ Hệ thống chính quyền địa phương với tính độc lập của Hội đồng nhân dân trên cơ sở quản lý của Chính phủ.
+ Một hệ thống tài chính mạnh mẽ, sáng suốt, và tập trung
+ Một nền tư pháp với nguyên tắc độc lập xét xử của Toà án.
+ Một cơ chế kiểm soát quyền lực có hiệu quả do nhân dân thực hiện.
+ Một nhà nước của khối đại đoàn kết toàn dân.
Nguồn: http://www.diendanphapluat.vn/4rum/show ... php?t=3214
Trong thể chế nhất nguyên chỉ có một Đảng cộng sản Việt Nam duy nhất cầm quyền, không có cạnh tranh quyền lực, không có nghĩa là Đảng có quyền chính đáng muốn làm gì thì làm.
LTS: TS. Đặng Đình Tân, giảng viên cao cấp, Viện Chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng, để nâng cao vị thế lãnh đạo, uy tín và hiệu lực cầm quyền, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, thì việc xây dựng, đổi mới Đảng theo hướng nâng cao tính chính đáng trong vai trò cầm quyền của Đảng là rất quan trọng.
VietNamNet giới thiệu bài viết này.
>> Loạt bài Đóng góp ý kiến cho Đại hội Đảng XI
>> Đã đến lúc phải có luật cho Đảng cầm quyền
Trong mọi xã hội chính trị, xây dựng tính chính đáng trong vai trò cầm quyền, thực hiện quyền lực chính trị là vấn đề hệ trọng, liên quan trực tiếp đến hiệu lực thực thi quyền lực chính trị nói chung, cũng như hiệu lực thực hiện của một mệnh lệnh, chỉ thị phát ra từ một chủ thể quyền lực. Việc cầm quyền, thực hiện quyền lực chính trị một cách chính đáng là một trong những nhân tố quan trọng nhất thắt chặt mối quan hệ giữa các chủ thể và khách thể thực hiện quyền lực, thúc đẩy các hành vi chính trị của quần chúng lên tầm tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo, qua đó tạo nên sức mạnh, hiệu quả cao trong vai trò cầm quyền.
Nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh đổi mới theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, phát huy dân chủ, đồng thời với xây dựng nền kinh tế thị trường, phát triển khoa học công nghệ, đẩy mạnh hội nhập với thế giới. Do vậy, để nâng cao vị thế lãnh đạo, uy tín và hiệu lực cầm quyền, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, thì việc xây dựng, đổi mới Đảng theo hướng nâng cao tính chính đáng trong vai trò cầm quyền của Đảng là rất quan trọng.
Làm tốt, không chỉ nói hay
Để nâng cao tính chính đáng trong vai trò cầm quyền của Đảng ta, theo chúng tôi cần tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau đây:
Một là: Đảng phải giữ được vị trí tiên phong trong sự nghiệp xây dựng CNXH, đổi mới chính trị.
Mô tả ảnh.
100% đại biểu nhất trí thông qua Nghị quyết đại hội đảng bộ tỉnh Lai Châu. Ảnh: Trang thông tin điện tử Đại hội XI
Sau khi Đảng lãnh đạo toàn dân thực hiện cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân đánh đổ đế quốc, phong kiến và bè lũ tay sai, Đảng ta trở thành đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước, xã hội. Điều đó là chính đáng, bởi trong cuộc đấu tranh đó, Đảng ta đã tỏ rõ là vị trí tiên phong lãnh đạo về đường lối, chiến lược, sách lược và về nghệ thuật tập hợp lực lượng cách mạng, Đảng đã giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh quyết liệt với nhiều lực lượng, nhiều xu hướng chính trị khác nhau.
Nhưng không phải cứ ngồi trên vị trí cầm quyền rồi thì Đảng sẽ có vị thế chính đáng quyền cầm quyền mãi mãi. Gramsci, một nhà tư tưởng chính trị đã nhấn mạnh rằng, để một lực lượng nào đó vươn tới nắm quyền lực (chính quyền) thì bắt buộc lực lượng đó phải nắm được vị trí “tiên phong” trước khi chiếm được chính quyền. Nhóm này sau đó sẽ trở thành nhóm cầm quyền. Nhưng ngay cả khi nắm vững quyền lực trong tay, nhóm này vẫn bắt buộc phải tiếp tục vai trò tiên phong của mình, nếu không có thể sẽ mất quyền.
Hai là: Đảng phải được dân tin, dân yêu, dân ủng hộ trong thực hiện các phương thức cầm quyền.
Trong thể chế nhất nguyên chỉ có một Đảng cộng sản Việt Nam duy nhất cầm quyền, không có cạnh tranh quyền lực, không có nghĩa là Đảng có quyền chính đáng muốn làm gì thì làm.
Đảng hướng tới dân chủ, nhưng dân chủ trong bầu cử cũng mới chỉ là tiêu chí tối thiểu của dân chủ, trong khi bầu cử ở Việt Nam chưa thật sự dân chủ. Một tiêu chí góp phần để có dân chủ đầy đủ là Đảng phải có phương thức cầm quyền đúng, có chính sách đúng, hợp lòng dân, hợp quy luật, thúc đẩy phát triển. Sức mạnh của Đảng không chỉ dựa vào sức mạnh của bạo lực. Nhưng ngay khi dựa vào sức mạnh bạo lực, thì "cách sử dụng sức mạnh hiệu quả nhất khi dùng vũ lực chính đáng chứ không phải dùng sức mạnh mà không cần quan tâm chính đáng hay không".
Đảng có giữ được vai trò cầm quyền lâu dài hay không, giờ đây tùy thuộc vào sự tín nhiệm của nhân dân đối với Đảng trong các cuộc bầu cử các cơ quan quyền lực công, vào tính đúng đắn của chính sách công. Có làm cho dân tin mới giành được sự tin cậy của dân. Điều này lại tùy thuộc vào việc nâng cao năng lực, phẩm chất, sức chiến đấu của Đảng.
Năng lực cầm quyền của Đảng còn phải thể hiện ở năng lực thuyết phục, tạo uy tín, lòng tin trong xã hội. Để tiếp tục khẳng định vai trò cầm quyền chính đáng của mình, Đảng phải giữ được vị trí tiền phong trong một hoàn cảnh lịch sử mới: thời kỳ Đảng thực hiện lời hứa của mình trước toàn dân tộc là đưa đất nước ta trở thành một nước dân giàu, nước mạnh, thực hiện công bằng, xã hội dân chủ và văn minh. Dân cần ở Đảng, ở mỗi đảng viên là làm tốt, chứ không chỉ nói hay. Toàn Đảng và mỗi đảng viên phải sống mãi trong lòng nhân dân. Đảng phải được dân tin, dân yêu, dân ủng hộ. Sức mạnh của Đảng giờ đây thể hiện ở chỗ là khả năng thuyết phục, tập hợp nhân dân xung quanh Đảng.
Muốn vậy, trong mỗi chủ trương, mỗi hành động, đảng phải hướng đến dân; ngoài lợi ích của dân tộc và nhân dân, Đảng không còn lợi ích nào khác. Mỗi tổ chức đảng và mỗi đảng viên phải là những người tiên phong, đi đầu, làm gương trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự là người đầy tớ trung thành của nhân dân, tất cả vì dân; gian khổ, hy sinh phải trước thiên hạ; hưởng thụ, sung sướng phải sau thiên hạ. Đảng viên không thể là cha mẹ dân. Không thể khi Đảng được dân giao quyền rồi sử dụng quyền ấy để hành dân. Nguồn gốc của quyền lực và không thể có quyền lực chính đáng nếu quyền lực đó được xây dựng không dựa trên lòng dân, nếu quyền lực đó là vô trách nhiệm.
Trong thực hiện quyền lực, Đảng phải chính danh, không lấn vào các công việc của nhà nước. Vì dù là Đảng cầm quyền, Đảng vẫn chỉ là tổ chức chính trị, lãnh đạo chính trị, chứ không phải là cơ quan công quyền. Những vấn đề quan trọng này phải thấm vào máu thịt trong mỗi tổ chức đảng và đảng viên.
Quyền lực phải được kiểm soát
Mời bạn đọc gửi góp ý cho các dự thảo văn kiện của Đảng về địa chỉ banchinhtri@vietnamnet.vn
Thứ ba: Đảng cầm quyền nhưng Đảng phải tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền Việt Nam, các quyết sách của Đảng phải đưa đất nước phát triển. Nói khác đi, Đảng cầm quyền chính đáng là Đảng phải đảm bảo quyền lực của dân, không vi phạm dân chủ, nói đi đôi với làm và phải mang lại hiệu quả.
Muốn vậy, quyền lực của Đảng cầm quyền cũng phải được kiểm soát. Đảng không thể đứng ngoài sự kiểm soát. Sự cầm quyền không phải bao giờ cũng nằm trong khôn khổ, chuẩn mực của luật pháp. Thực tế, có nhiều biểu hiện tổ chức đảng và nhất là đảng viên vượt ngoài chuẩn mực pháp luật. Trong điều kiện hệ thống một đảng, điều này luôn có khả năng xảy ra, và đã xảy ra. Do đó, cần kiểm soát quyền lực đảng từ nhiều phía: kiểm soát bằng quyền lực nhà nước thông qua hệ thống pháp luật và gắn với nó, cần có cả cơ chế để chế tài; kiểm soát xã hội đối với Đảng, thông qua thực hiện hoạt động giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, đồng thời Đảng phải đẩy mạnh quá trình tự kiểm soát thông qua công tác kiểm tra của Đảng.
Nâng cao tính chính đáng của Đảng cầm quyền là vấn đề lớn, cần quán triệt trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng và cần được coi là một nội dung đổi mới, xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ tới.
Nguồn: http://vietnamnet.vn/chinhtri/201010...-quyen-942235/
Gần đây chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng có đặt ra vấn đề sửa đổi Hiến pháp như một nhu cầu cấp bách[1]. Tôi cho rằng, nhu cầu này là có thật, nhưng thay vì sửa đổi nhỏ lẻ, tại sao chúng ta không tính đến một chiến lược lâu dài hơn là hoàn thiện một Hiến pháp tích hợp được cả những điểm tiến bộ của các bản Hiến pháp trước đó của dân tộc, vừa phải tích hợp được những tinh hoa của nền lập hiến các nước trên thế giới.
Bản Hiến pháp thành văn đầu tiên trong lịch sử nhân loại và cũng là bản Hiến pháp tồn tại lâu nhất cho đến nay trên thế giới, đấy chính là bản Hiến pháp của Mỹ năm 1787. Xã hội luôn vận động và phát triển không ngừng, nhiều vấn đề có thể hôm nay đúng, nhưng ngày mai chưa chắc vẫn còn đúng, vậy đâu là những giá trị trường tồn có khả năng thích ứng với đổi thay của xã hội trong bản Hiến pháp này?
Cách đây không lâu tôi có dịp trao đổi với GS.TS. John Attanasio, Chủ nhiệm Khoa Luật, đến từ Đại học Dedmann của Hoa Kỳ về Hiến pháp so sánh. Chúng tôi đã cùng chia sẻ nhiều vấn đề về Hiến pháp.
Ông đã đặt một câu hỏi mà tôi cho rằng rất thú vị đó là: “Bạn thử nghĩ xem Hiến pháp Mỹ qui định cho đối tượng nào?”
Tôi biết ông đặt câu hỏi như vậy là có ý muốn chia sẻ và so sánh một điều gì đó nên tôi trả lời để lắng nghe ông giải thích: “Phải chăng cho hai chủ thể là công dân và Nhà nước?”
“Thành công của Hiến pháp Mỹ đó là bản Hiến pháp này đã tạo ra đồng thời hai cơ chế giám sát hữu hiệu, đó là sự giám sát bên trong, tức là cơ chế kiểm soát và cân bằng quyền lực (check and balance) giữa các cơ quan Nhà nước, và sự giám sát bên ngoài chính là xã hội dân sự (civil society) với đầy đủ những quyền năng được Hiến pháp bảo vệ. Thiết chế này có khả năng phản biện các chính sách, buộc Nhà nước phải tuân thủ Hiến pháp, cùng thúc đẩy xã hội phát triển”.
GS.TS. John Attanasio
Ông chia sẻ:
“Lẽ thường là như vậy, nhưng những nhà lập hiến đất nước tôi khi xây dựng Hiến pháp cho rằng: Hiến pháp chỉ nên qui định hành vi của Nhà nước (ông nhấn mạnh). Vì mục đích của Hiến pháp là giới hạn quyền lực của Nhà nước, tạo lập và bảo vệ xã hội dân sự (Civil Society) một cách hợp pháp, thúc đẩy tiến bộ xã hội, ngăn chặn hành vi lạm quyền từ phía Nhà nước. Xã hội dân sự không thể tồn tại hợp pháp và phát triển được nếu quyền lực Nhà nước không bị giới hạn.”
Tôi thắc mắc:
“Vậy Tuyên ngôn nhân quyền (The Bill of Rights) của Mỹ qui định về các quyền công dân thì qui định cho đối tượng nào?”
Ông cũng trả lời ngay:
“Ðó cũng là cho Nhà nước. Thực chất tuyên ngôn nhân quyền chính là những qui định về trách nhiệm của Nhà nước phải đảm bảo các quyền công dân. Tuyên ngôn nhân quyền chính là kết quả sự đấu tranh của nhân dân buộc chính quyền phải thừa nhận và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân. Vì một khi qui định các quyền công dân mà Nhà nước không cam kết bảo vệ và tôn trọng thì những quyền đó cũng không có ý nghĩa gì”.
Thấy thú vị, tôi tiếp tục đặt câu hỏi:
“Vậy ông đánh giá cao điều gì nhất ở Hiến pháp Mỹ?”
Ông chia sẻ:
“Thành công của Hiến pháp Mỹ đó là bản Hiến pháp này đã tạo ra đồng thời hai cơ chế giám sát hữu hiệu, đó là sự giám sát bên trong, tức là cơ chế kiểm soát và cân bằng quyền lực (check and balance) giữa các cơ quan Nhà nước, và sự giám sát bên ngoài chính là xã hội dân sự (civil society) với đầy đủ những quyền năng được Hiến pháp bảo vệ. Thiết chế này có khả năng phản biện các chính sách, buộc Nhà nước phải tuân thủ Hiến pháp, cùng thúc đẩy xã hội phát triển”.
Đây chỉ là quan điểm của một nhà khoa học chuyên nghiên cứu về Hiến pháp của Mỹ, nhưng những quan điểm của ông rất đáng phải suy ngẫm.
Hiến pháp bao giờ cũng là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất ở mỗi một quốc gia, khi ra đời về nguyên lý để đảm bảo tính pháp quyền, nó còn được đặt cao hơn cả Nhà nước, để nhằm giới hạn quyền lực của Nhà nước. Tất cả việc tổ chức và hoạt động của Nhà nước phải được đặt trên cơ sở Hiến pháp. Và cũng chỉ bằng một bản Hiến pháp mà quyền lực Nhà nước bị giới hạn thực sự, thì khi đó một xã hội dân sự hợp pháp, phi chính trị, phi lợi nhuận, mới có cơ sở để hình thành. Chính xã hội dân sự đó mới là động lực phản biện đẩy Nhà nước và xã hội cùng tiến bộ.
Điều làm nên giá trị trường tồn của Hiến pháp không chỉ là những gì được qui định trong Hiến pháp, vì thực tế không có một bản Hiến pháp nào có thể qui định được cụ thể hết các điều trong đó, mà quan trọng hơn là cơ chế giải thích Hiến pháp và bảo vệ Hiến pháp. Cả hai cơ chế này đều phải được thực hiện bởi một thiết chế tài phán Hiến pháp độc lập, chính đó mới là công cụ hữu hiệu hiện thực hoá những điều đã qui định trong Hiến pháp.
Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946
Chừng nào các thuật ngữ trong Hiến pháp còn chưa được giải thích bởi thiết chế độc lập này, thì chừng đó các nhà chính trị sẽ giải thích theo cách có lợi cho họ, các nhà khoa học sẽ còn tranh luận không có điểm dừng, những văn bản qui phạm pháp luật vi hiến sẽ không có cơ sở rõ ràng để huỷ bỏ, xung đột thẩm quyền giữa các cơ quan vẫn cứ diễn ra và quan trọng hơn là quyền lợi của người dân sẽ không được bảo vệ.
Gần đây Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng có đặt ra vấn đề sửa đổi Hiến pháp như một nhu cầu cấp bách[1]. Tôi cho rằng, nhu cầu này là có thật, nhưng thay vì sửa đổi nhỏ lẻ, tại sao chúng ta không tính đến một chiến lược lâu dài hơn là hoàn thiện một cách cơ bản Hiến pháp, để những thay đổi đó có khả năng giải quyết được căn bản nhiều vấn đề của đất nước - một bản Hiến pháp mà chúng ta có thể tin tưởng về tính lâu dài, tính ổn định, và tính pháp quyền của nó?
Nếu được xây dựng, Hiến pháp trong tương lai pháp luật Việt Nam sẽ phải là Hiến pháp tích hợp được cả những điểm tiến bộ của các bản Hiến pháp trước đó của dân tộc, vừa phải tích hợp được những tinh hoa của nền lập hiến các nước trên thế giới.
Từ bản Hiến pháp đầu tiên ở Việt Nam đến nay, thì Hiến pháp năm 1946[2] vẫn được đánh giá là có nhiều qui định tiến bộ, đặc biệt là trên phương diện tổ chức quyền lực Nhà nước hơn cả. Nhiều sửa đổi của pháp luật hiện hành cũng đang theo hướng trở về với những giá trị của Hiến pháp 1946. Tuy nhiên nhiều tác giả khi nhận xét về bản Hiến pháp này đã quá nhấn mạnh, thậm chí tuyệt đối hóa, chỉ nhìn thấy những điểm tích cực của nó, tôi cho rằng nếu chỉ đánh giá như vậy là có phần phiến diện, lý thuyết. Vì xét trên phương diện thực tế, thì bản Hiến pháp này chưa được hiện thực hóa đầy đủ một ngày nào, lại càng khó khăn hơn khi thực tiễn lúc đó là trong hoàn cảnh chiến tranh, dân số chúng ta lúc đó chưa đông như hiện nay, và chưa kể đến tính chất quan hệ kinh tế, quốc tế lúc đó cũng khác rất nhiều so với thời điểm hiện nay.
Nhìn rộng ra thế giới, đành rằng hiến pháp nào cũng chỉ có thể qui định những vấn đề chung nhất, cơ bản nhất của một quốc gia, nhưng khi áp dụng nó cho những trường hợp cụ thể thì lại cần đến nhu cầu phải cụ thể hoá chúng. Khắc phục những mặt còn hạn chế của Hiến pháp hiện hành, nên xây dựng một cơ chế tài phán Hiến pháp độc lập vừa có chức năng giải thích Hiến pháp, vừa có chức năng xét xử những hành vi vi phạm Hiến pháp[3], xây dựng cơ chế giám sát bên trong giữa các cơ quan Nhà nước, bên ngoài với xã hội dân sự phù hợp.
Chừng nào Hiến pháp chưa được đặt lên trên Nhà nước, nhằm giới hạn quyền lực Nhà nước như đúng tinh thần của Hiến pháp năm 1946, chừng nào chưa sẵn sàng cho một cơ chế giám sát Hiến pháp, cơ chế giải thích Hiến pháp và tài phán Hiến pháp độc lập, thì chừng đó theo thiển ý của tôi chưa nên đặt ra vấn đề sửa đổi Hiến pháp.
[1] http://www.phapluattp.vn/news/chinh-...news_id=250285 .
[2] Hiến pháp năm 1946 gồm có 7 chương, 70 điều, là một bản Hiến pháp có nhiều giá trị tiến bộ ở thời điểm lúc đó. Do hoàn cảnh chiến tranh, bản Hiến pháp này chưa được Chủ tịch nước kí lệnh công bố.
[3] Liên hệ với Hiến pháp Việt Nam hiện hành, tương ứng với nhiều quyền năng cơ bản thường kèm theo về quy định của pháp luật” (ví dụ: Điều 57. Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật; Điều 62. Công dân có quyền xây dựng nhà ở theo quy hoạch và pháp luật; Điều 68. Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật…). Cách qui định này thực chất là cách mở ra rồi lại đóng vào. Với cách qui định như thế, thì người dân không biết nội hàm đầy đủ của quyền đó là gì, và giới hạn của quyền đó đến đâu, rồi khi bị vi phạm thì bảo vệ bằng con đường nào? vì theo qui định của pháp luật nói chung thì rất rộng, và khi đi tìm thì người dân không biết tìm cái gọi là “theo qui định của pháp luật” đó ở đâu.
Nguồn: Tạp chí Tia Sáng
Trên đất nước ta, đó là một hành trình gian truân với cái giá phải trá khá đắt. Nhưng là những bước thuận theo quy luật vận động của cuộc sống, và là sự trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó cũng là hành trình của nhận thức nhằm chứng minh thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, quy luật của cuộc sống mạnh hơn những giáo điều xơ cứng, tuy có sức trì kéo, kìm hãm nặng nề sự phát triển, nhưng không thể ngăn chặn được sự phát triển đó. Và rồi, cái gì cần đến, cũng đã đến.
Trên đất nước ta, đó là một hành trình gian truân với cái giá phải trả khá đắt. Nhưng là những bước thuận theo quy luật vận động của cuộc sống, và là sự trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó cũng là hành trình của nhận thức nhằm chứng minh thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, quy luật của cuộc sống mạnh hơn những giáo điều xơ cứng, tuy có sức trì kéo, kìm hãm nặng nề sự phát triển, nhưng không thể ngăn chặn được sự phát triển đó. Và rồi, cái gì cẩn đến, cũng đã đến.
I. Về chuyên chính vô sản
Quả thật chuyên chính vô sản là khái niệm đã chi phối hoạt động của các Đảng Cộng sản trong một thời gian rất dài nhất là khi Đảng đã nắm chính quyền. Một khái niệm có ảnh hưởng tác động đến sinh mệnh của triệu triệu con người. Khái niệm ấy gắn liền với giai cấp và đấu tranh giải cấp, được xem là động lực của phát triển. Người ta từng cho rằng đây là một khái niệm then chốt trong tư duy lý luận của học thuyết C.Mác. Tuy vậy, đã đến lúc phạt thật sự tường minh trong cách nhận định và phân tích về khái niệm quan trọng vốn có một diễn biền khá phức tạp. Làm sáng tỏ điều này là một nhu cẩu trực tiếp của việc đẩy tới sự nghiệp đổi mới một cách toàn diện và triệt để.
Vì đổi mới là nhằm vứt bỏ những công thức, những giáo điều của một thời cứ ngỡ như là "thiên kinh địa nghĩa" song đã bị cuộc sống bác bỏ hoặc vượt qua, những gì mà qua khảo nghiệm khách quan và nghiêm khắc của thực tiễn, lý luận ấy đã tỏ rõ sự bất cập, sai lầm hoặc thiếu hoàn chỉnh. Do vậy phái bổ sung sức sống mới, nhằm hình thành những luận điểm mới, phạm trù mới giúp hoàn chinh một lý luận phản ánh được thực tiễn đang vận động. Nhờ đó, làm cho lý luận gần kết được với thực tiễn, gắn với chân lý hơn, có tác động thúc đẩy sự phát triển. Quả thật là,"vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thé đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phái chứng minh chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy của mình", điều mà C.Mác đã căn dặn. Hãy vận dụng quan điểm ấy vào việc xem xét luận điểm về "chuyên chính vô sản" của chính ông.
1. Lần đầu tiên C.Mác dùng từ "chuyên chính vô sản" là năm 1848. Thật ra thì "chuyên chính vô sản” xuất hiện vào quãng 1837, là cụm từ của Ba Blanqui, một nhà cách mạng nổi tiếng của Pháp. Chuyên chính vô sản với C.Mác là một chiến lược cách mạng. cụm từ này được nhắc lại nhiều lần hơn cả trong "Đấu tranh giai cấp ớ Pháp", xuất bán năm l950. Bối cảnh ra đời của khái niệm này là giữa cuộc cách mạng Tháng 2/1848 đến tháng 6/1848 thì bị phản cách mạng bóp chết. Hoạt động cách mạng ở vào tình thế ẩn náu đợi chờ cao trào, mãi cho đến bốn năm sau mới kết luận được rằng tình thề cách mạng đã hết, chế độ tư bản đã bước qua giai đoạn khủng hoảng chu kỳ và lại bắt đầu giai đoạn phồn thịnh của nó. Từ đó, C.Mác và Ph.Ăngghen suốt 20 năm tiếp theo không dùng thuật ngữ chuyên chính vô sản nữa. Nếu xem xét thật kỹ thì, dưới ngòi bút của C.Mác kể cả trong bản nháp, bản thảo viết tay và trong các tài liệu nội bộ không nhằm công bố ra, trong các bức thư viết cho anh em, bè bạn hoặc thư góp ý cho đồng chí của mình hiện còn lưu giữ được, thi tần số xuất hiện của thuật ngữ "chuyên chính vô sản” không đến 10 lần.
Theo C.Mác, đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản và nền chuyên chính đó chỉ là sự quá độ tiến đến một xã hội không giai cấp. Chuyên chính vô sản là một chiến lược gồm hai bước. Bước một là chuyển từ chuyên chính của kẻ thù sang chuyên chính của đồng minh bao gồm giai cấp nông dân và giai cấp trung đẳng, thuật ngữ của C.Mác trong "Nội chiến ở Pháp", làm thành chuyên chính của đồng minh chiến lược. Khi đã làm được cuộc chuyển đổi liên minh ấy trở thành đa số rồi, thì bước thứ hai là dùng con đường dân chủ, tự do đầu phiếu, lập ra Chính phủ cách mạng và chế độ cách mạng. Quan điểm trên chịu ảnh hướng khá rõ của phái tả trong cách mạng tư sản Pháp 1789. Và chiến lược đó đã không thực hìện đuợc!
2. Lần thứ hai thuật ngữ chuyên chính vô sản được dùng là sau thất bại của Công xã Paris. Từ tổng kết sự thất bại đó, C.Mác nêu lên nhưng bài học về vẫn để hình thành Nhà nước kiểu mới của giai cấp vô sản, không giống với bất kỳ một hình thức Nhà nước nào đã có trước đó, một hình thái Nhà nước báo hiệu sự tiêu vong của Nhà nước. Nếu xem xét thật kỹ thì trong những nội dung này có mang màu sắc ảo tưởng, vì kinh nghiệm của Công xã Paris còn quá nghèo nàn. Cần nhớ rằng, Công xã paris chỉ tồn tại có 72 ngày (từ 18/3/1871 đến 28/5/1871). Tuy nhiên, nếu đọc kỹ "Nội chiến ở Pháp" thì sẽ hiểu rõ chuyên chính vô sản theo quan niệm của C.Mác, là một hình thức Nhà nước cách mạng đã không còn thuần túy là Nhà nước nữa, mà đã nằm trong cái logic của Nhà nước dần dần tự tiêu vong.
Thật ra, đây chỉ là một tiên đoán. Mà là một tiên đoán chưa có bao nhiêu căn cứ lý luận cũng như thực tiễn. Trong thực tiễn, thời C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ có duy nhất 53 ngày công xã trong một thành phố là Paris, ngoài ra không có thực tiễn nào khác về cách mạng vô sản thắng lợi và thiết lập chuyên chính vô sản cả. Nói nôm na thì "chưa có bột để gột nên hồ", hoặc là quá ít bột, chưa thể đủ "gột" nên bất cứ thứ "hồ" gì! Thực tế lịch sử đã chứng minh sự phân tích của C.Mác về tình thế khủng hoảng và cách mạng vào giữa thế kỷ XIX là không đúng. Và C.Mác đã sớm nhận ra điều đó.
3. Khái niệm "chuyên chính vô sản" trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã chuyển đổi và mở rộng nội dung của nó ra. Cùng với thời gian và diễn biến rất phức tạp, việc nhận cho ra đâu là tư tưởng lý luận của chính C.Mác là điều hết sức cần thiết vì nó tránh được những ngộ nhận sai lầm.
Với Lênin, ông từng xác định: "Lịch sử thế giới nhất định sẽ đi tới chuyên chính vô sán, nhưng tuyệt nhiên sẽ không phải đi theo những con đường bằng phẳng, giản đơn, thắng tắp”. Cho nên, với ông, chuyên chính vô sản là nội dung chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, nâng cao dân trí, dân quyền, dân sinh, dân chủ...cửa cả thời đại quá độ, mở rộng ra trên căn bản tư tưởng C.Mác, là đấu tranh vừa bạo lực vừa hòa bình, vừa hành chính, vừa giáo dục, tuyên truyền...
Có nghĩa là, với V.I Lênin, nội dung của chuyên chính vô sản bao quát toàn bộ các vấn đề của thời đại chứ không phái chỉ có đóng khung trong vấn đề Nhà nước. V.I Lênin cho rằng Nhà nước Chuyên chính vô sản ngay từ khi mới thành lập đã là vừa là Nhà nước, vừa không còn là Nhà nước nguyên nghĩa, đã bước ngay vào quá trình tự tiêu vong của Nhà nước. Điều này không diễn ra trong thực tế.
Vào cuối đời, những năm 1923 và 1924, V.I Lênin nhiều lần vạch rõ những lệch lạc, suy thoái của chính quyền Xô Viết, nhất là tệ quan liêu và tham nhũng. V.I Lênin đã chỉ rõ: "Trên lời nói thì bộ máy Chính quyền Xô viết là bộ máy chính quyền của tất cả quần chúng lao động, nhưng trên thực tế thì mọi người chúng ta không còn ai xa lạ rằng còn xa lạ mới được như thế". Có một sự thật hết sức có ý nghĩa là, chính vào những năm đó, Lênin đã nhận thức ra và tuyên bố rõ: quan niệm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội phải thay đổi về cơ bản! Đáng tiếc là con người với bản lĩnh sáng tạo và dám thẳng thắn chỉ ra những sai lầm và tìm cách khắc phục ấy đã chưa kịp thực hiện ý chính của mình.
4. Đến J.Stalin thì chuyên chính vô sản chỉ còn là Đảng trị, Đảng trở thành "siêu Nhà nước", Đảng mới chính là Nhà nước. Với J.Stalin, hệ thống chính trị chuyên chính vô sản gồm: Đảng là hạt nhân trưng tâm lãnh đạo toàn bộ hệ thống còn Nhà nước, Công đoàn và các đoàn thể quần chúng là những dây chuyền chuyền tải giữa Đảng và nhân dân. Và như thế là nhân dân ở ngoài hệ thống chính trị. Nhà nước chuyên chính vô sản trong nhận thức và trong hành động của J.Stalin đã mất hẳn triển vọng tự tiêu vong. Ngược lại, ngày càng tăng cường trong chế độ Đảng - Nhà nước. Mô hình chính trị, kinh tế, xã hội cua "chuyên chính vô sản” thời J.Stalin dần dần thể hiện bốn đặc điểm bản chất sau đây:
Một là Đảng lãnh đạo, mà thật ra là nhân danh Đảng mà cai trị, thực chất là sự cai trị của những người có chức có đặc quyền, đặc lợi trong Đảng và trong xã hội. Hai là, nhanh chóng thực hiện chế độ công hữu dưới hai hình thức Nhà nước và tập thể, xóa bỏ tư nhân và thị trường. Ba là, quản lý kinh tế, xã hội theo thể chế tập trung quan liêu bao cấp. Bốn là, đóng cửa với bên ngoài. Sau này khi có phe XHCN thì cỉh chủ yếu quan hệ trong phe, chiến tranh lạnh với chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Sai lầm và nguy hiểm nhất là chủ rương của J.Stalin khẳng định rằng, sau khi Liên Xô đã kết thúc thời kỳ quá độ, xây dựng thành công CHXH năm 1936, thì từ đó về sau, đấu tranh giai cấp trong xã hội Xô Viết ngày càng gay gắt. Những cuộc trấn áp và khủng bố rất tàn khốc đã diễn ra sau năm 1936.
Liên bang Xô Viết dưới thời J.Stalin đã có những thành tựu vĩ đại, những chiến công hiển hách trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, những bước dẫn đầu rất ngoạn mục về xây dựng kinh tế, phát triển khoa học và công nghệ, sáng tạo văn hoá, văn học nghệ thuật, nâng cao phúc lợi xã hội cho nhân dân, giúp đỡ rất nhiều và có hiệu quả cho nhiều nước, nhiều dân tộc, có cống hiến lớn lao cho cả loài người.
Tuy nhiên, chuyên chính vô sản thời J.Stalin đã phạm những sai lầm và cả những tội ác. Đã từng có đến 70% ủy viên và ủy viên dụ khuyết BCHTW của Đảng được bầu tại Đại hội năm 1934 bị bắt, bị bỏ tù và bắn chết, tức là 98 trên tổng số 139 ủy viên! Đã từng có những sự cưỡng bức nặng nề và cá những sự chuyên chính tàn bạo với công dân, nông dân, đặc biệt là đối với trí thức. Nhiều nhà khoa học lỗi lạc bị vô hiệu hoá, thậm chí bị tù đày, bị thủ tiêu, nhiều ngành khoa học có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của đất nước và con người như xã hội học, tâm lý học, điều khiển học, di truyền học... bị xem là những "khoa học tư sản", đồng nghĩa với việc cấm hoạt động, xây dựng, phát triển. Đây sẽ là lý do cơ bản khiến cho nền khoa học vốn một thời ở trình độ cao của thế giới dần dần trở thành lạc hậu, không bắt kịp với sự phát triển chung của loài người. Hệ lụy nặng nề nhất là sự bóp nghẹt tự do và dân chủ khiến cho đời sống tinh thần của xã hội lâm vào khủng hoăng nặng nề.
Sinh thời Stalin, rồi sau J.Stalin cho đến ngày Liên Xô sụp đổ, nguyên nhân suy thoái dần từ bên trong, tạo thuận lợi cho lực lượng thủ địch bên ngoài, dẫn đến tan rã không phải là do không nắm vững “chuyên chính vô sản", mà là đã thực hiện chuyên chính vô sản một cách cực kỳ sai lầm. Ngay cả thời kỳ hàng chục năm khi Liên Xô bỏ hẳn không dùng cụm từ "chuyên chính vô sản" và tuyên bố không thi hành "chuyên chính vô sản " nữa, thì những hệ lụy của mô hình J.Stalin tiếp diễn với những biến thái mới đặc biệt là sự thiếu dân chủ và không dân chủ, đã dần dần làm mất lòng tin của nhân dân Xô Viết và của cả 20 triệu Đảng viên Đảng cộng sản Liên Xô. Và đó chính là nguyên nhân cơ bản đẩy tới sự sụp đổ của hệ thống XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu.
Ở Trung Quốc, tuy chủ trương thực hiện nhân dân dân chủ chuyên chính của bốn giai cấp chứ không dùng "chuyên chính vô sản"nhưng sai lầm của mô hình Mao-ít với lý thuyết cũng tương tự như lý thuyết của J.Stalin đã dẫn ra ở trên, là càng đi sâu vào xây dựng CHXH thì đấu tranh giai cấp càng gay gắt, mở đường cho những cuộc trấn áp phản dân chủ rồi những cuộc đấu tố trong cái gọi là "đại cách mạng văn hóa" mà thực chất là các cuộc thanh trừng lẫn nhau trong nội bộ thế lực cầm quyền mà hậu quả là mấy chục triệu người chết, trong đó có cả những “khai quốc công thần"! Trong một Hội thảo khoa học tại Hà Nội năm 2005, một học giả Trung Quốc chỉ ra rằng: trong lịch sử Đảng cộng sản Trung Quốc đã có 14 Đại hội có những cuộc đấu như vậy. Mao từng nói: “đấu tranh với người là niềm vui lớn ". Chính lời nói này đã đem tai họa đến cho người dân Trung Quốc.
Trong phong trào cộng sản quốc tế, trong những người cộng sản, trong các nước XHCN một thời, đã có không ít ý kiến cho rằng quan niệm và thực tiễn chuyên chính vô sản chứa đựng nhiều bất ổn cần phải được nhìn nhận lại. Những ý kiến ấy đã bị lên án nặng nề, bị gạt bỏ, bị trấn áp để suốt gần nửa thế kỷ, từ năm 19/9, khi thành lập "Quốc tế cộng sản", đến cuối những năm 60 của thế kỷ XX, các Đảng cộng sản trên thế giới đểu coi chuyên chính vô sản là lý luận kinh điển và chủ trương cơ bản. Cho đến cuối thập kỷ 1960, nhiều Đảng cộng sản lớn như Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng sản Ý... rồi đến những Đảng cộng sản trung bình và nhỏ đã có chính quyền hoặc chưa nắm được chính quyền, đều lần lượt từ bỏ chuyên chính vô sản. Có Đảng lẳng lặng từ bỏ, có Đảng giải thích rằng cụm từ "chuyên chính vô sản" dễ gây phản cảm, không được tán thành bởi nhiều người tiến bộ và yêu nước.
Và rồi, cho dù bị quyết liệt ngăn chặn, cản trở bới những thế lực bảo thủ, giáo điều tìm thấy sự duy trì "chuyên chính vô sản" phù hợp với việc bảo vệ lợi ích và quyển lực đang có của họ, mô hình sai lầm ấy đã bị vứt bỏ. Cuộc sống không chấp nhận cả lý thuyết và thực tiễn "chuyên chính vô sản" kiểu "Stalinnit".
5. Thật oái oăm, khái niệm "chuyên chính vô sản" mà một thời được tiếp thu và vận dụng ở một số nước XHCN, trong đó có nước ta, lại rơi vào đúng cái nội dung kiểu "Stalinnit" ấy!
Ở ta, vấn đề "chuyên chính vô sản" quả thật đã từng giữ vị tri "then chốt” trong tư duy của Đảng cầm quyền. Những ngộ nhận về nội dung của "chuyên chính vô sản” theo quan điềm Stalin đã đầy tới những tai họa quá nặng nề có lẽ cũng không cần phái nói nhiều ở đây. Cho đến nay, tuy khái niệm đã chính thức bị đưa ra khỏi những đoạn nói về đường lối chung trong các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, những hệ lụy của nô thì vẫn len lỏi, gây ảnh hưởng trong cách hành xử của bộ máy chuyên chính như đã nói ở trên. Cũng không ít trường hợp, “dẫu lìa ngỏ ý còn vuông tơ lòng trong những người đã có sự gắn kết qủa sâu với vấn đề vốn bị ngộ nhận là then chốt nhất của học thuyết Mác.
Khắc phục cho được hệ lụy này xem ra còn phải có một cố gắng lâu dài và hết sức nhẫn nại. Vì rằng, như Lênin đã từng cảnh báo: "Đối với một người cách mạng chân chính thì mối nguy hiểm lớn nhất, thậm chí có thể là mối nguy hiểm duy nhất, là phóng đại tinh thần cách mạng, là h am những giới hạn và những điều kiện của một sự vận dụng có kết quá và thóa đáng nhữngphươngpháp cách mạng ". Cái lối "phóng đại" này, mà lại là "phóng đại tinh thần cách mạng” xem ra không chỉ có ở nước Nga thời Lênin! Nó được vận dụng rất phổ biến trong nhiều quốc gia mà nước ta cũng không thoát khỏi cái vòng “kim cô" oan nghiệt đó. Đặc biệt nguy hại là ở những nơi mà người ta cố dung tục hóa, thô thiển hóa học thuyết của C.Mác. Rõ ràng là "phóng đại tinh thần cách mạng” không phải để cách mạng, mà thực chất là để thoái lui, hoặc để lao vào những phiêu lưu cách mạng không có chút nội dung cách mạng nào. Những ví dụ dễ thấy trên đất nước ta là những lúc chịu ảnh hưởng nặng nề hoặc bị áp đặt bởi sự “phóng đại tinh thần cách mạng” có chủ ý để cố tìm cho ra “kẻ thù giai cấp” theo đúng "chuẩn" đã được đề ra một cách võ đoán, cực kỳ chủ quan cho đủ "tỷ lệ" mà các đội cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức phải thực hiện, dẫn đến chuyện "tố điêu”, "tố sai" mà hậu quả của nó thì chúng ta đã biết.
Hiểu rõ cánh báo của V.I Lênin, Hồ Chí Minh cũng đã từng nhắc nhở Đảng: "phải biết khéo lợi dụng kinh nghiệm. Nếu thấy người ta làm thế nào mình cũng một mực bắt chước làm theo thế ấy. Thí dụ: nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cánh nước mình như thế nào để làm cho đúng. Ngay từ Hội nghị thành lập Đảng năm 1930, Người đã khẳng định nếu không giải quyết được vấn để giải phóng dân tộc, không đòi hỏi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.
Đến năm 1 937, Người lại nhắc nhở "Các đồng chí trong Đảng cần phải hiểu rằng: Đảng ta chẳng những là kẻ bênh vực và lãnh đạo cho giai cấp vô sản mà thôi, mà cũng là kẻ bênh vực và lãnh đạo cho toàn thể dân chúng nữa. Đảng phải làm tròn vai trò ấy". Nhớ lại, từ 1924, Nguyễn Ái Quốc đã sớm chỉ rõ "Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước... Người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại và duy nhất của đời sống xã hội của họ. Chỉ ra điều ấy vì Hồ Chí Minh hiểu rằng ở Việt Nam, "cuộc đấu tranh giai cấp” không diễn ra giống như ở phương Tây".
Bằng tầm nhìn ấy, Hồ Chí Minh đã hạn chế đến mức thấp nhất những sai lầm trong cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức theo sự dẫn dắt của quan điểm phóng đại tinh thần cách mạng nằm trong nội dung của "chuyên chính vô sản" được tác động của đường lối kiểu "Stalinnít" hoặc "Mao ít" cố sức cường điệu và "phóng đại tinh thần cách mạng", đưa tới những hệ lụy đau đớn. Cần phải có sự nghiêm túc và sòng phẳng đối với những sai lầm và hệ lụy ấy.
6. Tóm lại, C.Mác và Ph.Ăngghen có một số ý tưởng về "chuyên chính vô sản", nhưng không có và không thể có lý luận về "chuyên chính vô sản”. Những ý tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen có điều đúng nhưng cũng có nhiều điều không đúng do đánh giá sai tình hình chủ nghĩa tư bán, và do khái quát hóa quá vội vàng từ một kinh nghiệm quá ngắn ngủi và không thành công của Công xã Paris (mà về điểm này, về sau C. Mác và nhất là Ph.Ăngghen đã có tự phê bình).
Vì thế, khẳng định rằng chuyên chính vô sản là vấn đề chú yếu, cũng như khắng định giá tri thặng dư là hòn đá tảng của học thuyết Mác là những ý kiến của những người học trò của C. Mác chứ C.Mác không hề khẳng định như vậy. Ở đây có những lý do, những động cơ rất khác nhau của sự khẳng định ấy mà trong một bài viết ngắn chưa thể nói kỹ.
Chính vì thế, ý tưởng về "làm chủ tập thể” là một cố gắng tìm tòi, bứt phá nhằm vượt ra khỏi mô hình "chuyên chính vô sản” trên hành trình trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh về “Nhà nước pháp quyền”.
II. Về “làm chủ tập thể”
1. Phạm trù làm chủ tập thể hình thành trong suy tư về vai trò lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý của Nhà nước nhằm đảm bảo cho nhân dân thực hiện được quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội của mình. Phải biết tước bỏ những cách hiểu dung tục, thô thiển để nhìn vào chiều sâu triết lý và sự vận động của lịch sử hướng tới một hình thái xã hội mới ra đời ngay trong lòng xã hội hiện tồn. Đó là khi bằng cách mạng giành lại độc lập cho dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân trong một Nhà nước dânchủ, thì không thể áp dụng hình thái "Nhà nước chuyên chính vô sản" được nữa. Hạt nhân của triết lý làm chủ tập thể chính là sự khẳng định "'quyền hành và lực lượng đều nơi dân” và đấy cũng là cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính Hồ Chí Minh là người đầu tiên nói đến quyền làm chủ của nhân dân. Trong bài "Đạo đức công dân" đăng trên báo "Nhân dân" ngày 15/01/1955, Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ”.
2. Tuy vậy, do chịu ảnh hưởng của sự áp đặt mô hình Xô Viết, nên tại Đại hội II năm 1951, trong "Bàn về cách mạng Việt Nam” của Trường Chinh, khái niệm "chuyên chính vô sản" được xác định là một hình thức Nhà nước xuyên suốt tiến trình cách mạng, thể hiện dưới dạng của "chuyên chính nhân dân" theo kiều nói của Trung Quốc đã dẫn ra ở trên. Kể từ đó, phạm trù "Nhà nước dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ “chuyên chính vô sản" được nói đến thường xuyên trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước.
Vì vậy, có thề nói, thực chất của sự hình thành luận điểm “làm chủ tập thể" của Lê Duẩn là nhằm thay thế cho lý luận về "chuyên chính vô sản " mà với cương vị là người có trách nhiệm lớn nhất với đất nước, với dân tộc, ông không đồng tình. Tư tưởng chính trị cơ bản của Lê Duẩn là nhân dân làm chủ tập thể, Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý là cốt để nhân dân làm chủ tập thể.
Mặc dù nhận thức như vậy, song vì ý thức tổ chức và kỷ luật, phục tùng một ý kiến đa số trong lãnh đạo của Đảng còn dai dẳng những năm 70 của thế kỷ XX, chứ trong tư duy, Lê Duẩn đang tìm mọi cách đề thoát ra khỏi cái mô hình áp đặt mà ông đã nhìn thấy là không ổn, là bất cập. Quả đúng như tác giả của bài viết về Lê Duẩn nhân ký niệm 50 năm "Đề cương cách mạng Miền Nam" nhận xét: “Vói vị trí Tổng Bí thư của mình, ông cũng không đột phá nổi độ dày của bảo thủ, giáo điều, đường mòn xơ cứng”. Độ dày ấy đã hằn quá sâu trong đời sống tinh thần của xã hội, trước hết là trong não trạng của những người chịu trách nhiệm về hoạt động lý luận của Đảng. Vì thế trong báo cáo chính trị đọc tại Đại hội IV có đoạn: “Muốn đưa sự nghiệp cách mạng ấy đến toàn thắng, điều kiện quyết định trước tiên là phải thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chính vô sản, thực hiện và không ngừng phát huy quyền làm chú tập thể của nhân dân lao động". Tuy nhiên, tiếp ngay câu trên, Lê Duẩn trình bày đường lối chung của Đảng, trong 16 dờng, làm nổi rõ lên tư tưởng nắm vững chuyên chính vô sản chính là thực hiện và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Tiếp đó, trong 183 dòng thuyết trình về xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, đầy đủ hơn nhiều, độ dài cũng gấp 10 lần so với mấy dòng trình bày về chuyên chính nói trên.
Lý do chính là, trong tìm tòi suy ngẫm, tư duy của Lê Duẩn không tán thành áp đặt mô hình Xô Viết với thể chế Nhà nước chuyên chính vô sản khi mà nhân dân đã bằng cuộc chiến đấu ròng rã với biết bao hy sinh của nhiều thế hệ kế tiếp nhau để giành được quyển làm chú đất nước, làm chủ xã hội. Lẽ nào lại có thể "chuyên chính" theo kiểu trấn áp tàn khốc cán bộ, đáng viên, công nhân nông dân, trí thức diễn ra ở Liên Xô dưới thời J.Stalin hay ở Trung Quốc thời Mao như đã dẫn ra ở trên. Phạm trù làm chủ tập thể hình thành vả hoàn chỉnh dần, tuy vẫn còn dang dở và còn nhiều vấn đề gây tranh cãi nhưng đã thể hiện sự bứt phá ra khỏi những giáo điều gây ra quá nhiều tai hại mà hầu hết các Đảng Cộng sần trên thế giới, các Đảng đã nắm chính quyền hoặc đang đấu tranh đều đã từ bỏ.
3. Cũng chính vì thế, tại Đại hội VI, Báo cáo chính trị chỉ có một lần dùng cụm từ "chuyên chính vô sản” trong hai câu: "Nhà nước ta là công cụ của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, do giai cấp công nhân và nhân dân lao động tổ chức thành cơ quan quyền lực chính trị. Trong thời kỳ quá độ, đó là Nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa” để " khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối chung của cách mạng XHCN và đường lối xây dựng nền kinh tế XHCN do các Đại hội lần thứ IV và lần thứ V của Đảng". Tuy một lần nhắc lại cụm từ "chuyên chính vô sản", nhưng thực tế là trong Văn kiện đại hội VI, lại quyết định nhiều chủ chương để phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Cụm từ "làm chủ tập thể” được nêu cao và nhắc đến hàng chục lần và cũng lần đầu, chủ trương "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra"được Đại hội VI đưa ra.
Tại Đại hội VII, lần đầu tiên khái niệm "chuyên chính vô sản" với tư cách là bản chất của Nhà nước XHCN đã không được nói đến nữa. Thay vào đó là khái niệm "xây dựng Nhà nước XHCN, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân". Đặc biệt, đã xác định: "là tổ chức thể hiên và thực hiên ý chí, quyền lực của nhân dân thay mặt nhân dân, Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức quản lý mọi mặt đời sống xã hội trong luật pháp". Ở đây đã thấp thoáng bóng dáng của tư duy về "Nhà nước pháp quyền".
Đến Đại hội VIII thì khái niệm Nhà nước pháp quyền được chính thức đi vào đời sống xã hội bằng sự khẳng định: "Tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền. Quản lý xã hội bằng pháp luật…". Quả thật, đây là một sự điều chỉnh muộn màng so với hầu hết các Đảng cộng sản trên thế giới. Đáng tiếc là sự muộn màng ấy lại đã thường xảy ra. Mà xảy ra trước hết lại là ở lĩnh vực hoạt động lý luận ở những nhà lý luận vốn chiếm giữ những vị trí có tác động lớn đến đời sống tinh thần của xã hội. Ở đây, cái bóng dáng của "chuyên chính vô sán" thể hiện khá rõ trong tệ độc quyền chân lý, áp đặt tư duy và tùy tiện quy kết, của cái thói chỉ quen độc thoại đề "ban phát chân lý" đã bị độc quyền chiếm dụng, mà không chịu nổi sự đối thoại bình đẳng và công khai để làm sáng tỏ chân lý khách quan, nhân danh sự đề phòng "chệch hướng" ra khỏi quỹ đạo "xã hội chú nghĩa”.
Ấy thế mà, như Phạm Văn Đồng đã từng khẳng định, các nhà sáng lập ra học thuyết Mác “chưa bao giờ đề ra một định nghĩa có tính chất hình mẫu về chủ nghĩa xã hội khoa học, chính khoa học là ở chỗ đó". Ông thường hay dẫn ra câu nói nổi tiếng của Gớt để cảnh báo các nhà lý luận: "Lý thuyết thì màu xám. Còn cây đời thì mãi mãi xanh tươi”.Và chính ông đã từng tự phê bình về việc "sao mà mình có thể quay lưng lại với biết bao sự thật hằng ngày diễn ra trước mắt mình để lao vào những sai lầm với những cái giá đắt phải trả. Rõ ràng đây là một sự thiếu sáng suốt trong nhận thức và hành động, trong lý luận và thực tiễn"
Nhận thức là có một quá trình không kém gian nan, nhất là khi tự mình phải vượt lên chính mình để tiếp cận được với sự vận động không ngừng của cuộc sống. Thậm chí, cho đến nay, vẫn có ý kiến cho rằng "các vấn đề lớn trong Văn kiện Đại hội X đều ẩn chứa nội dung và chức năng của chuyên chính vô sản… mặc dầu không nhắc đến cụm từ chuyên chính vô sản”.
"Màu xám" của lý luận đang thách thức "cây đời xanh tươi”. Và chúng ta đủ kiên nhẫn để tin rằng, cuộc sống mạnh hơn mọi giáo điều đã học thuộc lòng.
III. Về “Nhà nước pháp quyền”
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đất nền móng xây dựng "Nhá nước pháp quyền" ở Việt Nam. Hồ Chí Minh hiểu rõ mục tiêu của từng chặng đường trên con đường dẫn đến lý tưởng đúc kết khát vọng của cá loài người "Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” mà "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" thế kỷ XIX đã nêu lên.
Hồ Chí Minh không lẫn lộn mục tiêu cụ thể và trực tiếp của từng chặng với cái đích lý tưởng ở phía chân trời để tránh đi những ảo tưởng duy ý chí, dẫn đến hành động nôn nóng "đốt cháy giai đoạn", gây hậu quả ngược lại với mục tiêu Hồ Chí Minh “có sự dị ứng bẩm sinh với bệnh giáo điều, rập khuôn, bệnh công thức sáo mòn", Người đòi hỏi không được sao chép nguyên văn những gì có sẵn, điều cốt yếu là hiểu đúng tinh thần và biết vận dụng các nguyên lý sát với tình hình cụ thể" nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
2. Hồ Chí Minh đang vượt hẳn lên những người đương thời ở tầm tư duy và cái nhìn biện chứng. Bôn ba khắp năm châu bốn biển, hiểu rõ ngọn ngành những tinh hoa cũng như những khiếm khuyết mà phong trào cách mạng đã trải qua, để khi về đến Tổ quốc, hôn nắm đất quê hương đang đói nghèo, đau khổ, Người hiểu rõ cẩn phải làm gì cho nhân dân mình. Tiếp nhận tinh hoa của nền văn minh phương Tây mà Người đã có nhiều năm chiêm nghiệm, học hỏi, đề rồi gắn kết với bản lĩnh và tri thức cách mạng, Hồ Chí Minh thấy được những vấn đề mà có thể những người khác chưa thấy hoặc thấy chưa rõ.
Bằng chứng là, mãi gần 60 năm sau Tuyên ngôn Độc lập và Tổng tuyển cứ 6/01/1946, lập ra Quốc hội đầu tiên của Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ra đời Hiến pháp 1946, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền vẫn còn gặp không ít trở ngại do sự áp đặt máy móc và giáo điều của mô hình "chuyên chính vô sản” trong tư duy về Nhà nước. Có thấm thía chuyện này mới hiểu sâu ý nghĩa của việc Hồ Chí Minh đặt viên gạch đầu tiên cho nền móng của một Nhà nước pháp quyền.
3. Mở đầu cho Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh dẫn ra những câu tiêu biểu nhất trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp 1791. Những câu hay nhất thể hiện tập trung nhất khát vọng của con người, của loài người, đề từ đó, nói về những "lẽ phải không ai chối cãi được".
Từ tầm cao trí tuệ của thời đại, ngay từ nhũng ngày đầu tiên của nền độc lập vừa giành lại được, Hồ Chỉ Minh đã khẳng định: “Chúng ta phải có một hiến pháp dân chứ! Trong hoàn cảnh cực ký phức tạp của giặc ngoài, thù trong, Hồ Chí Minh vẫn kiên quyết tổ chức tổng tuyển cứ bầu ra Quốc Hội đầu tiên của nước Việt Nam mới, một nước dân chủ, trong đó dân là chủ, dân làm chủ! Hồ Chí Minh tin vào dân, hiểu rõ khát vọng dân chủ của dân.
Bằng việc thực thi quyền dân chủ trực tiếp trong cuộc phổ thông đầu phiếu bầu ra Quốc hội năm 1946, dân ta đã chứng minh với thế giới rằng, một dân tộc vừa thoát khỏi vòng nô lệ trăm năm thực dân thuộc địa, khi đã vùng lên dưới ngọn cờ của Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo đã vững bước trên hành trình dân chủ. Vậy thì, cơ sở xã hội của Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh là gì?
Là dân tộc. Với Hồ Chí Minh, dân tộc không chỉ là địa bàn ứng dụng của lý tưởng cách mạng, mà dân tộc chính là chỗ xuất phát, mảnh đất màu mỡ và cội nguồn sáng tạo của lý tưởng cách mạng đó. Cơ sở xã hội mới của Nhà nước ấy rất rộng lớn và không hề thay đổi phạm vi trong quá trình cách mạng. Đó là phạm vi các giai cấp và tầng lớp không thay đổi, chỉ tăng lên về chất lượng để thành một tập hợp mới mạnh mẽ hơn, bền chắc hơn của khối đại đoàn kết dân tộc. Trong đó, có thể có rơi rớt người này hoặc người khác, chứ không có chuyện loại bở tầng lớp này hoặc tầng lớp khác theo kiểu sứ dụng "bạn đường" có thời hạn để khi cần thì vứt bỏ. Trong tư tưởng và trong hành động, trong ứng xử với con người, với đồng bào mình, Hồ Chỉ Minh tuyệt đối không có chuyện đó. Vì biết đứng trên cái nền vững chãi ấy nên mới hình thành và xác lập được tư duy độc lập và sáng tạo, luôn gắn kết với thực tế đất nước.
4. Qua tổ chức Tổng tuyển cử vừa nhắc ở trên, thấy rõ điều ấy trong cách vận dụng, cách thức thực hiện dân chú đại diện và dân chủ trực tiếp. Khi dùng dân chủ đại diện, Hồ Chí Minh đã không hoàn toàn theo chỉ dẫn của C.Mác cũng như không theo V.Lênin về mô hình dân chủ hội đồng, tức là dân chủ Xô Viết. Qua thực tế, đã thấy rõ mô hình tháp hội đồng ấy là không ổn, vì vậy phải quay trở lại việc bầu cử theo đơn vị hành chính dân cư. Nhận ra điều đó, Hồ Chí Minh đã chủ trương ấn hành những cuộc bầu cử theo mô hình bầu cử đại điện của phương Tây có lựa chọn. Chỉ một năm sau khi giành được chính quyền, đã tổ chức được một cuộc bầu cử thật sự tự do và dân chủ đối với những người ứng cử, cũng như đối với cử tri. Nên nhớ, số người ứng cử lần ấy đông nhất trong những lần bầu cử Quốc hội ở nước ta cho đến nay.
Là một nhà cách mạng từng trải đã hiểu rõ về phong trào cách mạng với sứ mệnh cao cả cũng như những khó khăn của tiến trình thực hiện sứ mệnh ấy, Hồ Chí Minh h biết được phải làm gì với một dân tộc vừa thoát ách nô lệ và gần một trăm năm bị xóa tên trên bản đồ thế giới. Là một nhà văn hóa, Hồ Chí Minh thấm nhuần những tinh hoa của văn hóa loài người, kết tinh ở những đỉnh cao trí tuệ tiêu biểu cho trình độ văn minh mà con người đạt được vào những thời điểm lịch sử nhất định, để biết vận dụng một cách thích hợp và sáng tạo vào thực tế nước mình. Hiến pháp 1946 do Hồ Chí Minh trực tiếp làm "Trường Ban soạn thảo" nói lên rất rõ điều ấy.
Ở đây thể hiện rõ những yếu tố pháp quyền nổi lên trên nguyên tắc quyền lực và tổ chức quyền lực. Trong nội dung của Hiến pháp, nét nổi bật làm việc kiểm soát quyền lực Nhà nước chứa đựng tinh thần khoan dung của truyền thống Việt Nam. Ngay tại điều 1 của Hiến pháp đã nổi rõ lên tinh thần ấy "Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một nước dân chủ. Tất cả các quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt nòi giống, gái trai, giai cấp, tôn giáo”. Những điểm khác như Hội đồng Nhân dân cũng được xác định như một cơ quan "tự quản " của nhân dân địa phương, quyết định các vấn đề của địa phương, do nhân dân địa phương bầu chọn và chịu trách nhiệm trước họ. Ở đây đã thấp thoáng bóng dáng những đường nét tư duy về cái ngày nay ta gọi là "xã hội dân sự”. Ngay cả đuhnh chế luật sư cũng đã được đề ra.
Ở một đất nước mà Nhà nước xuất hiện từ rất sớm và mang nặng “truyền thống" quan liêu, Hồ Chí Minh đã đòi hởi xây dựng một "Nhà nước đầy tớ của dân", điều mà nhiều nhà tư tưởng lớn của loài người đã từng ấp ủ và cũng đã được nhấn mạnh trong học thuyết của C. Mác. Nhưng, vấn đề là Hồ Chí Minh đã sớm đưa ngay ý tưởng đó vào việc tổ chức Nhà nước và cố gắng thực hiện. Hồ Chí Minh đã nghiêm khắc cảnh báo ngay từ ngày chính quyền cách mạng còn trong trứng nước: "Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân chứ không phải để đè đầu dân… Dân chủ thì chp phài là đầy tớ. Làm việc ngày nay không phải để thăng quan phát tài. Nếu Chính phủ làm hại dân thì có quyền đuổi Chính phủ”.
Có thể nói, cơ cấu tổ chức quyền lực Nhà nước được thể hiện trong Hiến pháp 1946 đã đặt nền móng cho một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, trong đó các quyển tự do, bình đẳng về chính trị và xã hội của người công dân được công nhận và được bảo đảm bằng luật pháp. Hiến pháp năm 1946 thể hiện rất tập trung tư duy của Hồ Chí Minh về Nhà nước. Sáu mươi năm của hành trình dân tộc, những nền móng ban đầu của "Nhà nước pháp quyền Việt Nam" đã không được củng cố và xây đắp thành hình hài ngày một rõ nét mà lại dần dà bị chìm đi bởi sự áp đặt của mô hình "chuyên chính vô sản". Thế nhưng, sự vận động của thực tiễn đã trả về cho cái nền tảng ban đầu ấy sức thuyết phục và ý nghĩa sâu sắc của tầm cao trí tuệ và bề dày văn hóa trong tư duy về Nhà nước của Hồ Chí Minh.
Khi Đại hội X của Đảng, phát triển những thành tựu của nhận thức về Nhà nước của các Đại hội VII, VIII, IX để khẳng định rõ: "'Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN. Cần xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân…”, thì đó chính là sự trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước.
Phải bằng một chặng đường hơn nửa thế kỷ, tư duy về Nhà nước pháp quyền mới được chính thức trở thành tư tưởng chỉ đạo trong việc xây dựng Nhà nước. Hành trình gian chuân của hơn nửa thế kỷ xây dựng một Nhà nước thật sự là Nhà nước của dânk do dân và vì dân như Hồ Chí Minh đã đặt nền móng chưa thể nói là đã hoàn toàn thuận buồm xuôi gió. C.Mác đã từng cánh báo: "mỗi bước tiến mới sẽ tất yếu biểu hiện ra như là một sự xúc phạm tôi cái thiêng liêng, là một sự nổi loạn chống lại trạng thái cũ, đang suy đồi nhưng được tập quán thần thánh hóa". Tính ngoan cố của tập quán, nhất lại là tập quán đã được "thần thánh hóa” sẽ là sức ta kéo ghê gớm sự phát triển.
Thế nhưng sự vận động của lịch sử đã chứng minh, cuộc sống sẽ tự mở lấy đường đi cho nó bất chấp mọi trở lực. Đó là quy luật không sao đảo ngược được.
"Bảy xin Hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền".
(Hồ Chí Minh) Có lẽ, người Việt nam đầu tiên nói đến pháp quyền là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Năm 1919 trong Bản yêu sách gửi đến hội nghị Vecxây, yêu sách thứ 7 được Người đề ra là pháp quyền. Sau này, yêu sách đó được Bác thể hiện thành lời ca: "Bảy xin Hiến pháp ban hành/ Trăm điều phải có thần linh pháp quyền" (Yêu cầu ca, Báo Nhân dân, ngày 30/01/77). Điều dễ nhận thấy là Bác đã không đưa ra yêu sách về một "Nhà nước pháp quyền", mà chỉ về "pháp quyền". Thế thì, cái chúng ta cần là một nền pháp quyền hay là một Nhà nước pháp quyền?
Thực ra, thuật ngữ "Nhà nước pháp quyền", có thể, đã được dịch từ tiếng nước ngoài nên không thật sáng tỏ về mặt khái niệm. (Thuật ngữ tương ứng trong tiếng Nga là "pravavoe goxudarstvo"). Hiện nay, theo nhận thức của đa số người Việt chúng ta, Nhà nước pháp quyền là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. So với việc quản lý xã hội bằng mệnh lệnh hành chính, cách hiểu này là một tiến bộ to lớn trong tư duy pháp lý của người Việt. Tuy nhiên, pháp quyền là một cái gì đó vĩ đại và tốt đẹp hơn như thế rất nhiều.
Trong tiếng Anh, không có khái niệm "Nhà nước pháp quyền". Thay vào đó, các nước theo truyền thống Anh - Mỹ chỉ nói đến pháp quyền mà thôi. Hai từ "Nhà nước" thậm chí không được nhắc tới trong thuật ngữ này. Chính vì vậy, khi dịch khái niệm "Nhà nước pháp quyền" của ta sang tiếng Anh, bạn buộc lòng phải biến nó thành một thứ dài lê thê như sau: "Nhà nước bị điều chỉnh bới pháp quyền". Vấn đề cốt lõi của pháp quyền là pháp luật về quyền. Pháp luật phân định và bảo vệ các quyền: quyền của các công dân và quyền của Nhà nước, quyền của các nhánh quyền lực Nhà nước như lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong tiếng Pháp khái niệm Nhà nước pháp quyền còn được thể hiện rõ hơn thành "Nhà nước của quyền". Tư duy pháp lý bao trùm ở đây là: quan hệ xã hội được xây dựng trên cơ sở của các quyền. Quyền của chủ thể này có thể là nghĩa vụ của chủ thế khác. Pháp luật điều chỉnh và phân định các quyền này.
Như vậy, về mặt khái niệm, pháp quyền cũng như Nhà nước pháp quyền là một phương thức tổ chức và vận hành xã hội trên cơ sở của các quyền. Các quyền này được phân định và tổ chức sao cho sự lạm quyền không thể xẩy ra và quyền tự do, dân chủ của người dân được bảo vệ. Hiến pháp là các công cụ quan trọng nhất để xác lập và phân định các quyền. Vì vậy, Hiến pháp được coi là linh hồn của pháp quyền và là bản kế ước xã hội quan trọng nhất.
Pháp quyền và pháp trị là hai thứ khác nhau. Pháp quyền là pháp luật về quyền, pháp trị là cai trị bằng pháp luật. Pháp trị có từ thời phong kiến xa xưa. Người đầu tiên đề ra chủ thuyết về pháp trị là Hàn Phi Tử. Ông này dạy rằng không nên cai trị một cách tùy hứng mà phải biến ý chí của mình thành pháp luật và áp dụng thống nhất trong cả nước và trong mọi thời điểm. Điều này cho phép người dân chủ động tránh những điều pháp luật cấm và làm những điều pháp luật bắt buộc phải làm.
Pháp trị đối lập với nhân trị. Nhân trị thì chia thành hai loại: loại độc tài (do một người cai trị) và tập đoàn trị (do một tập thể cai trị). Nhân trị không đồng nghĩa với sự xấu xa. Đơn giản, đây chỉ là mô hình tổ chức xã hội có độ rủi ro cao. Lý do là trong hàng ngàn năm, vua Nghiêu, vua Thuấn (những ông vua anh minh và tốt bụng trong truyền thuyết của Trung Quốc) may ra chỉ xuất hiện một lần. Và ngay cả trong trường hợp này, một ông vua anh minh cũng khó có thể anh minh được suốt cả cuộc đời. Thời gian trôi đì, sự anh minh của ngày hôm qua có thể không còn hữu dụng cho ngày hôm nay nữa. Tệ hơn, nó còn có thể làm tê liệt khả năng phản ứng kịp thời trước một thế giới luôn luôn thay đổi.
Pháp quyền gắn với hiến pháp là nguyên nhân tại sao Bác Hồ đã đòi hỏi cho đất nước ta một bản hiến pháp. Thế nhưng tại sao Bác lại gọi là "thần linh pháp quyền"? Có lẽ, điều này đã được làm sáng tỏ trong bản Tuyên ngôn độc lập trứ danh của dân tộc ta. Bác đã mở đầu áng văn bất hủ này bằng cách trích những dòng sau đây: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Như vậy, theo Tuyên ngôn độc lập thì các quyền của con người là do tạo hoá ban cho và những quyền đó là bất khả xâm phạm. Trong lúc đó, hệ thống các nguyên tắc và thủ tục được đề ra để bảo vệ các quyền tạo hóa ban cho con người lại được gọi là pháp quyền. Vì vậy, pháp quyền gắn với "thần linh" và dẫn đến cách gọi "thần linh pháp quyền".
Trên thực tế, những quyền được nêu ra trong Bản Tuyên ngôn độc lập bao giờ cũng là phần cấu thành quan trọng nhất của luật hiến pháp. Các thiết chế bảo hiến được đề ra thực chất là để bảo đảm pháp quyền.
Tư tưởng pháp quyền nói trên là một đi sản vô giá mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại. Vấn đề là chúng ta sẽ thắp sáng nhận thức của mình như thế nào. Phải chăng, sự nghiệp khai sáng nên bắt đầu từ việc nhận thức sâu sắc pháp quyền là gì, cũng như việc ghi nhận bản Tuyên ngôn độc lập là nguồn quan trọng của luật Hiến pháp Việt Nam.
Nguồn: Tạp chí Khoa học & Tổ quốc - http://chungta.com/Desktop.aspx/Chun...ua_phap_quyen/
Đảng ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một trong những điều kiện và môi trường tiên quyết của một quốc gia tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và một xã hội phát triển tiên tiến.
Nội dung quan trọng của Nhà nước pháp quyền là khẳng định cội nguồn quyền lực nhà nước là ở nhân dân. Để bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, trong đó nhà nước là của nhân dân chứ không phải nhân dân là của nhà nước, Nhà nước pháp quyền đề cao tính hợp hiến, hợp pháp trong tổ chức và hoạt động của nhà nước, nhà nước chỉ được làm những điều pháp luật cho phép, còn nhân dân được làm tất cả những điều pháp luật không cấm, pháp luật bảo đảm cho sự phát triển tự do tối đa của nhân dân. Vai trò của pháp luật trong việc xây dựng và duy trì một xã hội trật tự ổn định, trong đó không chỉ mỗi công dân, mỗi cá nhân, mà bản thân nhà nước và những người đứng đầu chính quyền cũng phải tôn trọng pháp luật đã được khẳng định. Hai mặt dân chủ và pháp luật trong Nhà nước pháp quyền gắn bó hữu cơ, làm tiền đề tồn tại cho nhau và tạo nên bản chất của Nhà nước pháp quyền trong lịch sử nhân loại. C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin đánh giá cao giá trị nhân văn của học thuyết Nhà nước pháp quyền mà cách mạng tư sản đã cống hiến cho nhân loại.
Ở nước ta để bảo đảm phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì một trong những vấn đề chiến lược là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Do vậy, cần làm sáng tỏ về bản chất, nội dung cũng như những đặc trưng của nó, tạo thành hệ thống quan điểm lý luận định hướng cho việc hoàn thiện nhà nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hiện nay, Việt Nam đã có đủ các tiền đề về kinh tế, chính trị, xã hội để từng bước xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân, có sắc thái riêng, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, truyền thống, văn hóa của Việt Nam. Cần nhận thức rằng việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là quá trình lâu dài, phải được tiến hành từng bước, chia thành nhiều giai đoạn, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mỗi giai đoạn tương ứng với một mức độ phát triển của xã hội và của nhà nước. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cần quán triệt những vấn đề có tính nguyên tắc sau:
1 - Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là cách thức cơ bản để phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Đó là Nhà nước trong đó bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, vì thế quyền lực nhà nước là thống nhất, không tam quyền phân lập nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đó là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do dân chủ, đặc biệt là quyền tự do kinh doanh và lợi ích hợp pháp của nhân dân, ngăn ngừa mọi sự tuỳ tiện lạm quyền từ phía cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước, đồng thời ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật, thiếu kỷ cương. Đó là Nhà nước mà mọi tổ chức (kể cả tổ chức đảng), hoạt động phải dựa trên cơ sở pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước công dân về mọi hoạt động của mình. Vì vậy, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có quan hệ khăng khít với xây dựng xã hội công dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, là cách thức cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động nội lực của toàn thể nhân dân, của tất cả các thành phần kinh tế vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xã hội công dân là bộ ba hợp thành không thể tách rời, là điều kiện và tiền đề cho nhau, là bảo đảm và kết quả của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2 - Hiến pháp và pháp luật nước ta ghi nhận quyền của công dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị, đề đạt nguyện vọng, yêu cầu của mình với các cơ quan nhà nước. Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền khiếu nại, tố cáo, v.v.. Các quyền và sự tự do đó trong nhiều trường hợp là điều kiện để nhân dân kiểm tra hoạt động của Nhà nước, nhưng trước hết đó là một trong những phương thức quan trọng để thực hiện dân chủ. Vì vậy, cần chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Đổi mới cơ chế, xác định trách nhiệm của các cấp, các ngành, của cán bộ, công chức trong việc giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân.
Quyền lực nhà nước ở nước ta là quyền lực nhà nước thống nhất. Sự thống nhất đó là ở mục tiêu chung phục vụ lợi ích của nhân dân, của đất nước, của dân tộc. Xét theo cơ chế tổ chức thì quyền lực nhà nước tối cao, tức là những chức năng và thẩm quyền cao nhất thuộc về những cơ quan đại diện cho nhân dân. Ở nước ta, đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội có thẩm quyền lập hiến và lập pháp; quyền giám sát tối cao; quyền quyết định kế hoạch phát triển đất nước; quyền lập ra các cơ quan và chức vụ quốc gia cao nhất. Hội đồng nhân dân các cấp là những cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
3 - Một trong những điểm cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là quyền lực nhà nước thống nhất trên cơ sở phân công và phối hợp trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Có thể hiểu rằng, sự thống nhất là nền tảng, sự phân công và phối hợp là phương thức để đạt được sự thống nhất của quyền lực nhà nước.
Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động lập pháp đang đứng trước những nhiệm vụ mới mẻ và phức tạp của việc điều chỉnh pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Lập pháp phải bảo đảm tính khả thi của các quy định pháp luật, tính hiệu lực và hiệu quả của việc áp dụng pháp luật vào cuộc sống. Hoạt động lập pháp phải vừa bảo đảm chất lượng, vừa theo kịp yêu cầu của sự phát triển. Muốn vậy, cần tổ chức tốt hơn nữa quy trình lập pháp. Quy trình đó phải vừa bảo đảm phản ánh được sự phát triển sống động của đời sống xã hội trong các lĩnh vực, lại vừa bảo đảm tính chuyên môn pháp lý của các quy định để có sự phối hợp chặt chẽ giữa khâu làm luật với việc ban hành các văn bản dưới luật, tổ chức thực hiện pháp luật.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực đổi mới và cải cách nhưng tổ chức và hoạt động của bộ máy hành pháp của nước ta còn nhiều nhược điểm, còn nhiều mặt chưa theo kịp và đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước. Tổ chức hành pháp chưa thông suốt, còn yếu trong việc xử lý những mối liên kết dọc và ngang, thậm chí còn có hiện tượng cục bộ. Chế độ phân cấp trách nhiệm còn thiếu rành mạch, làm trầm trọng thêm tác phong làm việc quan liêu và dựa dẫm. Thẩm quyền và trách nhiệm cá nhân chưa được quy định chặt chẽ. Thái độ làm việc và trách nhiệm trước dân của đội ngũ cán bộ, công chức vẫn còn là vấn đề đáng nói hiện nay.
Trong lĩnh vực hoạt động tư pháp, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước ta trước sau như một đều khẳng định các yêu cầu về bình đẳng, công bằng, về sự độc lập của toà án khi xét xử, bảo đảm mọi vi phạm đều bị xử lý, tăng cường bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của người dân. Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động tư pháp đã trở thành một hoạt động hết sức quan trọng của Nhà nước ta, thể hiện vai trò mới, những đòi hỏi và những nhiệm vụ mới của lĩnh vực hoạt động đó. Trên cơ sở những thành tựu và kinh nghiệm đã có, cần đẩy mạnh cải cách tư pháp theo Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị (khóa IX) mà những nội dung cơ bản phải là cải cách hoạt động xét xử và cải cách các thủ tục tố tụng, nâng cao năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm chính trị - pháp lý của cán bộ tư pháp.
4 - Một trong những nội dung cơ bản của nguyên tắc phân công và phối hợp quyền lực nhà nước và cải cách hành chính là sự phân công, phân cấp giữa trung ương và địa phương. Sự phân công, phân cấp ấy phải nhằm khuyến khích và nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Việc phân công và phân cấp giữa trung ương và địa phương phải dựa trên nền tảng của một hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, có tính chuyên nghiệp cao và đủ sức giải quyết mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đây đang là một khâu yếu.
5 - Đề cao pháp luật, tăng cường pháp chế phải đi liền với việc đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo thói quen và nếp sống tôn trọng pháp luật trong cán bộ và mọi tầng lớp nhân dân. Cho nên, xây dựng pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống phải thực sự là hai mặt của một nhiệm vụ. Đổi mới và hoàn thiện pháp luật phải đi liền với đổi mới và hoàn thiện thực tiễn áp dụng pháp luật. Tăng cường hoạt động xây dựng pháp luật phải đi liền với việc khuyến khích và tạo điều kiện cho các hoạt động của các tổ chức và công dân nhằm sử dụng đầy đủ quyền và thực hiện tốt nghĩa vụ của họ, sự khuyến khích tính tích cực pháp lý phải đi liền với việc hoàn thiện các thủ tục pháp lý, đổi mới và cải cách hành chính và hệ thống tư pháp. Đồng thời, đề cao pháp luật và pháp chế còn đặt ra nhiệm vụ phải bằng mọi cách nâng cao sự hiểu biết pháp luật, đấu tranh có hiệu quả với các vi phạm và tội phạm, kiên quyết chống quan liêu và tham nhũng trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.
6 - Thực thi quyền lực và thi hành pháp luật là những hoạt động luôn luôn cần đến sự kiểm tra, giám sát đầy đủ và hữu hiệu. Các hình thức và cơ chế kiểm tra, giám sát phải thực sự được coi trọng và hoàn thiện ở mức cao nhất, bảo đảm cho quyền lực nhà nước luôn nằm trong quỹ đạo phục vụ nhân dân và đất nước, pháp luật luôn luôn được tôn trọng, pháp chế và kỷ cương được giữ vững. Đối với các cơ quan nhà nước, kiểm tra, giám sát là cách tốt nhất để các cơ quan đó thực hiện đúng chức trách và thẩm quyền của mình, đồng thời là điều kiện phối hợp các hoạt động một cách có hiệu quả. Đến lượt mình, các hoạt động, các hình thức và cơ chế kiểm tra, giám sát phải có sự phân công, phối hợp đầy đủ và hoàn thiện hơn.
7 - Nhà nước pháp quyền của chế độ ta thể hiện những tư tưởng, quan điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh mơ ước và khát vọng của nhân dân đối với công lý, tự do, bình đẳng. Trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân hiện nay, về mặt nhận thức, cần khẳng định các mối quan hệ chủ đạo giữa các nguyên tắc và yêu cầu của Nhà nước pháp quyền với hệ thống chính trị duy nhất một đảng lãnh đạo; với phương thức tổ chức nhà nước tập trung có phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; với việc tôn trọng các quyền tự do của công dân và nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân trong việc bảo đảm một xã hội trật tự, kỷ cương.
Về nguyên tắc, Nhà nước pháp quyền không mâu thuẫn với hệ thống chính trị một đảng lãnh đạo. Vấn đề là ở chỗ, bản chất của đảng cầm quyền thế nào, mục tiêu chính trị của nó có phải vì lợi ích chung của dân tộc, vì con người hay không và do đó có sẵn sàng tuân theo những quy định của pháp luật hay không; có đủ phẩm chất đạo đức để vượt qua các cám dỗ quyền lực to lớn mà một đảng cầm quyền duy nhất có nhiều khả năng gặp phải hay không và nó có đặt ra và thực hiện được những kỷ luật nghiêm khắc cho chính mình hay không, v.v..
Thực tiễn phát triển của xã hội ta, đất nước ta xác nhận và khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng. Hơn 74 năm qua, Đảng thể hiện tập trung ý chí, nguyện vọng và trí tuệ của toàn dân tộc. Đường lối của Đảng là sự thể hiện nhận thức của toàn xã hội về các quy luật khách quan của sự phát triển đất nước. Đó chính là căn cứ, là điều kiện cần thiết để chúng ta hoàn thiện pháp luật. Hiến pháp của nước ta đã ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng phù hợp với những nguyên tắc của nhà nước pháp quyền, căn cứ vào kinh nghiệm thực tiễn và yêu cầu của xã hội, cần cụ thể hóa hơn nữa mối quan hệ lãnh đạo của Đảng, mà cụ thể là các tổ chức đảng và cấp ủy các cấp, cán bộ lãnh đạo Đảng với các cơ quan nhà nước và các chức vụ nhà nước các cấp. Hoàn thiện những cơ sở pháp lý đó sẽ giúp tránh được những biểu hiện bao biện, làm thay hay can thiệp không đúng nguyên tắc của cấp ủy và cán bộ Đảng vào công việc chính quyền mà có thời kỳ nhiều nơi mắc phải.
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, mở rộng dân chủ, phát huy tối đa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và của các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng và quản lý nhà nước, trong vai trò phản biện và trong giám sát hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường không phải chỉ dựa vào quyền uy, mệnh lệnh, mà là bằng trí tuệ, năng lực lãnh đạo của Đảng, ở khả năng vạch ra đường lối chính trị đúng đắn, ở sự gắn bó với nhân dân và khả năng giáo dục, thuyết phục toàn xã hội chấp thuận, ở vai trò tiên phong của đảng viên và tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện quan trọng nhất, cơ bản nhất đối với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
* GS, TS, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển Kinh tế - Xã hội Hà Nội
** Ban Dân chủ và Pháp luật, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Tác giả: Tương Lai
Trong nội dung dân chủ của một thể chế cộng hòa, thì để cho độc lập có một ý nghĩa thiết thực trực tiếp với cuộc sống hàng ngày của mỗi người dân khi mà về danh nghĩa, họ là người chủ của đất nước thì quyền làm chủ ấy phải được thể chế hóa bằng pháp luật.
LTS: Đảng ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một trong những điều kiện và môi trường tiên quyết của một quốc gia tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và một xã hội phát triển tiên tiến. Đó là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do dân chủ, đặc biệt là quyền tự do kinh doanh và lợi ích hợp pháp của nhân dân, ngăn ngừa mọi sự tuỳ tiện lạm quyền từ phía cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước, đồng thời ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật, thiếu kỷ cương. Đó là Nhà nước mà mọi tổ chức, hoạt động phải dựa trên cơ sở pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước công dân về mọi hoạt động của mình.
Quốc khánh năm nay, đánh dấu 65 năm lập quốc, Tuần Việt Nam xin giới thiệu bài viết của GS Tương Lai vừa gửi tới có tựa đề: Để có nhà nước pháp quyền đích thực để bạn đọc cùng thảo luận.
Độc lập là điều kiện để giành Tự do, Dân chủ là tiền đề của Tự do
Tuyên Ngôn Độc lập 2.9.1945 dẫn ra câu trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Đó là khát vọng cháy bỏng ngàn đời của con người, của loài người. Và đó cũng là khát vọng cháy bỏng của Hồ Chí Minh.
Vì khát vọng đó, Hồ Chí Minh đã cống hiến toàn bộ cuộc đời cho tự do của con người, trước hết là người Việt Nam trên đất nước thân yêu của mình.
Bởi vì, với Hồ Chí Minh, "trên đời ngàn vạn điều cay đắng, cay đắng chi bằng mất tự do" [Nhật ký trong tù]. Và để có tự do, thì trước hết là phải giành lại độc lập cho Tổ quốc, giành lại quyền dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Độc lập là điều kiện để giành Tự do. Và Dân chủ là tiền đề của Tự do.
Phải từ cái logic ấy mới hiểu được, vì sao Hồ Chí Minh mở đầu cho Tuyên ngôn Độc lập 2.9.1945 bằng những "lời bất hủ"1 [từ dùng của Hồ Chí Minh] trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ, và tiếp đó là Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền. Có thể đó là một sách lược chính trị, đặt cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 với việc ra đời nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trên một quốc gia đã gần 100 năm bị xóa tên trên bản đồ thế giới vào trong bình diện quốc tế để xác lập vị thế của Việt Nam trên bình diện quốc tế đó. Quả có chuyện ấy. Song, điều lớn hơn cần phải nói rõ, chính "những quyền không ai có thể xâm phạm được" của con người mới là mục đích tối hậu mà Hồ Chí Minh hướng tới.
Là một chiến sĩ cách mạng từng trải đã bôn ba khắp năm châu bốn biển, cũng đã từng nhiều năm sống trên quê hương của Cách mạng Pháp 1791 và Công xã Paris, cũng như đã nhiều năm có mặt trên quê hương của Cách mạng Tháng Mười với nhà nước Xô Viết hùng mạnh, vốn được những người cách mạng xem là thành trì bất khả xâm phạm thậm chí là "thiên đường trên trái đất", Hồ Chí Minh đã thấy được và cảm nhận được những mặt trái của tấm huân chương mà có thể những người chưa có trải nghiệm không thể thấy được, hiểu được.
Hơn nữa, với tầm nhìn của một nhà văn hoá lớn, am hiểu sâu sắc triết lý và văn hoá phương Đông và truyền thống văn hóa dân tộc mình, lại từng tiếp thu tinh hoa của nền văn minh phương Tây mà Người đã có nhiều năm tiếp xúc, học hỏi, để rồi gắn kết với bản lĩnh và tri thức cách mạng, Hồ Chí Minh cảm nhận sâu sắc những vấn đề cơ bản nhất, thiết yếu nhất đồng thời cũng là sâu xa nhất mà cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 phải hướng tới.
Với Bác Hồ, giành độc lập cho đất nước là điều kiện tiên quyết để tiến tới thực hiện những mục tiêu của cách mạng.
Nhìn trở lại hành trình lịch sử của Hồ Chí Minh tìm đường cứu nước, quanh một vòng trái đất để trở về xúc động với nắm đất của Tổ quốc trên tay, rồi những lời "dặn lại công việc" khi bị bệnh nặng sợ khó qua khỏi trong một lán nhỏ ở Tân Trào, Việt Bắc: "lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả giải Trường sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập", cho đến khi đọc Tuyên Ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, v.v.. cuối cùng là Di chúc với "điều mong muốn cuối cùng", càng hiểu rõ tầm nhìn và khát vọng của Hồ Chí Minh.
Trước hết, phải giành cho được độc lập. Nhưng độc lập chưa phải là cái đích cuối cùng, mà mới chỉ là điều kiện tiên quyết để thực hiện những mục tiêu khác của cách mạng, mà xét đến cùng là nhằm thực hiện "những quyền không ai có thể xâm phạm được" mà Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp nêu lên.
Những vấn đề của "nhân quyền" và "dân quyền" là vấn đề chung của con người, của loài người, và "nhân quyền" cũng như "dân quyền" của Việt Nam cũng không nằm ngoài vấn đề chung đó, vì Việt Nam không phải là dân tộc ở "ngoài hành tinh" vừa nhập cuộc, Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của loài người, của thế giới mà loài người đang sống! Cho nên, ngay sau khi giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Ngày nay chúng ta đã xây dựng nên nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì"1.
Phải đấu tranh mà giành lấy!
Giành độc lập đã khó, nhưng đem lại được dân chủ đích thực, tự do thật sự, hạnh phúc cụ thể cho mỗi người dân là chuyện khó hơn rất nhiều.
Bằng sự trải nghiệm của mình từ thực tế của những năm sống trên đất nước Xô Viết dưới thời Stalin, những hiểu biết về cuộc tranh giành quyền lực trên đất nước Trung Quốc, sự hiểu biết về nhiều nước phương Tây, Hồ Chí Minh đã nhận ra rằng "cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi " cho dân tộc mình, nhân dân mình sẽ là một "cuộc chiến đấu khổng lồ". Để giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ ấy Hồ Chí Minh hiểu rõ cần "phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân"2.
Phải là cuộc chiến đấu khổng lồ bởi lẽ "những gì đã cũ kỹ, hư hỏng" sẽ chống lại quyết liệt và là lực cản ghê gớm cho sự xuất hiện "những cái mới mẻ, tốt tươi". Dân chủ và tự do không thể là ân huệ được ban phát mà là phải đấu tranh để giành lấy. Đấu tranh với ai ? Với "những gì đã cũ kỹ, hư hỏng", ở đây là căn bệnh trầm kha của quyền lực. Đó là căn bệnh của nhà nước trên toàn thế giới.
Chẳng thế mà, mở đầu cho "Khế ước xã hội" ra đời năm 1762 đánh dấu một cột mốc lớn trong tư duy của con người tự nhận thức về quyền làm người của mình, J.J Rousseau phẫn nộ tuyên bố: "Con người sinh ra đã là tự do, vậy mà ở khắp mọi nơi, con người lại đang bị cùm kẹp".
Để bẻ gãy sự cùm kẹp đó, nhân dân ta đã tiến hành cuộc Cách mạng Tháng tám 1945, tiến hành các cuộc kháng chiến trường kỳ chống lại mọi thế lực xâm lược đến từ mọi hướng, hoàn thành trọn vẹn sự nghiệp giải phóng dân tộc, tiền đề quyết định để đấu tranh cho dân chủ và tự do của con người. Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân là công cụ cực kỳ thiết yếu để thực hiện cuộc đấu tranh ấy. Vì một lẽ đơn giản: nơi nào không có pháp luật, nơi nào Hiến pháp bị coi nhẹ hoặc không được thực thi, nơi ấy không có tự do, nơi ấy "con người lại bị cùm kẹp"!
Nói cụ thể hơn, trong nội dung dân chủ của một thể chế cộng hòa, thì để cho độc lập có một ý nghĩa thiết thực trực tiếp với cuộc sống hàng ngày của mỗi người dân khi mà về danh nghĩa, họ là người chủ của đất nước thì quyền làm chủ ấy phải được thể chế hóa bằng pháp luật. Chỉ như thế thì dân mới có thể dựa vào đó để đấu tranh cho dân chủ và tự do, khiến cho nó không chỉ là những khẩu hiệu suông mà thể hiện trong thực tế, hiện diện trong cuộc sống thường nhật của họ.
Có nhận thức như vậy mới hiểu tại sao ngay trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng chính phủ ngày 3.9.1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ"!
Tập quán cai trị và thuần phục nhân dân làm sai lệch nhà nước pháp quyền
Gần hai phần ba thế kỷ, thời gian đủ để kiểm nghiệm độ chính xác và sự tường minh của một tư tưởng. Vì đó là chân lý. Mà chân lý thì luôn luôn đơn giản. Song hiểu được chân lý, đến được với chân lý thì thường lại cực kỳ gian truân. Mà gian truân nhất là phải phân biệt cho được chân lý với cái na ná như chân lý khiến đôi khi người ta ngộ nhận một cách chân thành, đầy sự sùng kính! Nguy hại của sự "na ná" ấy thật khó lường! Mặc dầu, xét đến cùng, chân lý nằm chính ngay trong quá trình nhận thức. Bởi vậy, kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt vấn đề phải có một hiến pháp dân chủ, 65 năm đã trôi qua vấn đề Hiến pháp nói riêng và nhà nước pháp quyền nói chung vẫn còn nhiều vấn đề phải đặt ra.
Như đã nhắc đến trong bài trước, mới gần đây thôi, cựu Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Văn An nhận xét rằng: "chúng ta đã sửa đổi Hiến pháp nhiều lần rồi mà vẫn chưa đạt yêu cầu. Nếu tính từ năm 1946 đến 1992 là 46 năm, ta đã sửa đổi lớn 3 lần vào các năm 1959, 1980 và 1992. Đó là chưa kể nhiều lần chúng ta sửa đổi nhỏ khác..." Mà chưa đạt yêu cầu thể hiện trên nhiều vấn đề, song có một vấn đề then chốt nhất chính là "Sửa đổi như vậy là nhiều lần rồi, song dân chưa được phúc quyết lần nào".
Ấy vậy mà, theo ông cựu Chủ tịch Quốc hội thì "bản chất của thể chế cộng hòa hay dân chủ cộng hòa là quyền lập hiến phải thuộc về nhân dân, mà trực tiếp là cử tri cả nước", điều này thì Hiến pháp năm 1946 đã ghi rõ. Thế nhưng, cũng theo ông An, "Hiến pháp 1946 quy định dân phúc quyết Hiến pháp song dân cũng chưa được phúc quyết vì chiến tranh đã xảy ra ngay sau đó".Và rồi, "Hiến pháp được sửa đổi, bổ sung sau này (1959, 1980, 1992) là theo khuôn mẫu của cộng hòa Xôviết, nó không gần với những khuôn mẫu chung của thế giới và có một số quy định cốt lõi lại xa rời với Hiến pháp năm 1946"9.
Thực trạng đó cho thấy sự lúng túng và nhất quán trong nhận thức về lý luận cũng như cách triển khai trong thực tế vấn để sửa đổi và xây dựng Hiến pháp đúng với tư tưởng Hồ Chí Minh. Chẳng hạn, một trong những vấn đề có ý nghĩa then chốt của nhà nước pháp quyền phải được thể hiện trong Hiến pháp là pháp quyền ở trên nhà nước thì vẫn chưa thật tường minh.
Một biểu hiện khác là sự trì kéo của tập quán và thói quen đã định hình trong lối sống của một xã hội quen sống bằng lệ hơn bằng luật, ưa chuộng thư tay và nghị quyết hơn là sự bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân. Chính cái đó làm trầm trọng thêm những di lụy của thói gia trưởng dẫn đến sự phán xét, ban phát tùy tiện, xem luật công như phương tiện phát huy và phục vụ cho lệ tư, lợi tư. Chính những điều ấy đẩy tới những yếu kém trong tinh thần thượng tôn pháp luật trong đời sống xã hội.
Về phía dân, người chịu sự quản lý của nhà nước, thì cùng với ý thức về kỷ cương phép nước chưa trở thành một nhu cầu tự thân là tâm lý thuần phục, đợi chờ sự ban phát từ nhà nước và dễ thỏa mãn với khuôn khổ hạn hẹp được ban phát ấy. Bối cảnh thư lại hàng ngàn năm được gia cường bằng "mô hình xa lạ với chủ nghĩa xã hội" [Phạm Văn Đồng] nhiều khuyết tật trước đây. Hai yếu tố này lại góp phần làm nên tập quán cai trị và thuần phục thần dân trong vô thức của cả phía công quyền và công dân, tạo biến tướng sai lệch trong nhận thức về nhà nước pháp quyền.
Rõ ràng là không phải dễ để nhận thức được "pháp quyền" chính là quyền và lợi của con người, ở đây là người công dân, được thể chế hoá và bảo đảm thực hiện bằng nhà nước. Nhà nước pháp quyền là một bộ máy quyền lực được nhân dân bầu chọn mà quyền lực có được là quyền lực uỷ thác chứ không phải là quyền lực của một nhà nước truyền nối hoặc tự phong! Bởi vậy, nhà nước pháp quyền cần đến một hệ thống pháp lý đặc trưng, đương nhiên cũng cần đến những con người đặc trưng, cả ở nhân sự công quyền lẫn con người công dân. Có như vậy thì mới thanh toán được tận gốc kiểu tư duy cai trị vốn đã cắm rễ rất sâu trong kết cấu hạ tầng tâm lý xã hội và trong bộ máy công quyền.
Biểu hiện dễ thấy nhất là trong không ít người nắm quyền lực không thực hiện được điều mà Bác Hồ căn dặn cán bộ là công bộc của dân. Câu nói chua chát cơ quan "hành chính"nghĩa là cơ quan "hành dân là chính" là sự phản ánh một thực tế người dân đang phải trải nghiệm. Quả là quá quen thuộc về chuyện người ta thường xuyên nói đến câu "cán bộ là người đầy tớ trung thành của nhân dân", thậm chí có nơi trang trọng đóng khung và treo lên tường nhưng không thể hiện nó trong việc làm. Về điều này thì Bác Hồ đã từng cảnh báo từ rất lâu rồi: "Khẩu hiệu cách mạng của Đảng mà hóa ra là bùa của thầy cúng!"3 .
Liệu có phải điều này có gốc gác từ tư duy lý luận của một thời chỉ nhấn mạnh bản chất giai cấp của nhà nước, đề cao chức năng chuyên chính và coi nhẹ chức năng phục vụ? Cũng như vậy là cách hiểu nhà nước hiển nhiên sở hữu toàn bộ quyền lực, mà không thấy đó là quyền lực được uỷ nhiệm! Từ đó nảy sinh thái độ ban phát, quan hệ xin - cho trong hành xử công quyền, mà không phải là sự đương nhiên thực thi các nghĩa vụ quyền lực đối với những người đã uỷ nhiệm cho mình.
Thêm vào đó, cách nói thường xuyên và phổ biến là "đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng" được hiểu chưa đầy đủ, chưa thấu đáo vô hình chung làm lu mờ tính pháp quyền đích thực của Nhà nước và đồng thời làm yếu vai trò lãnh đạo của Đảng tiền phong, mặc dầu nghị quyết của Đảng đã từng chỉ ra hết sức đúng đắn là "Đảng lãnh đạo chứ không làm thay nhà nước"!
Cùng với nó, sự phân công các thành phần quyền lực nhà nước dù đã có nhưng việc thực thi sự phân công ấy lại kém thực chất và kém hiệu quả. Khả năng, hoạt động của từng thành phần quyền lực vẫn chưa đúng và đủ tầm mức với vai trò, chức năng của nó trong nhà nước pháp quyền. Nếu dõi sâu vào ngọn nguồn thì chính là tư duy pháp lý đang dẫn dắt hoặc chi phối hoạt động của bộ máy nhà nước hiện vẫn là tính nguyên lý mặc định đối với cơ quan quyền lực và các phán truyền quyền lực.
Điều này thể hiện ở việc pháp quy thường giành lợi thế cho phía công quyền, đẩy sự thất thế về phía công chúng và đối tác khác. Một biểu hiện nữa là trong quan hệ tư pháp, các định chế tư pháp quyền lực giữ vị thế mặc nhận cao hơn các định chế tư pháp không quyền lực và các đối tượng tư pháp, trong khi các định chế tư pháp vẫn chưa đủ trưởng thành để thật sự tồn tại bình đẳng với nhau. Đến lượt nó, điều này lại làm cho các định chế ấy càng chậm trưởng thành.
Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ chưa được vận hành một cách đồng bộ. Mặt khác, chất lượng của luật chưa cao cũng tạo nên những hạn chế đối với nhà nước pháp quyền khi mà nhà nước pháp quyền cần đến một hệ thống pháp lý đặc trưng. Để vận hành hệ thống ấy, cần đến những con người đặc trưng, cả ở nhân sự công quyền lẫn con người công dân. Với sự nghiệp Đổi Mới, chất và lượng con người vận hành và tồn tại trong nhà nước pháp quyền đã có những mặt được nâng lên, nhưng vì nhận thức về nhà nước pháp quyền còn thấp nên chưa tạo nên một tiền đề vững chắc.
Căn bệnh "nhà nước gọi thêm nhà nước"
Trong điều kiện như vậy, khi chưa có được cơ chế tổ chức thật sự khoa học, các căn bệnh xuất phát từ quyền lực đã có chiều hướng phát triển, tạo nguy cơ định hình cả một thứ đạo đức chính trị phi đạo đức, một thứ văn hóa chính trị phi văn hóa; nguy cơ định hình một tầng lớp thư lại mới tự phát gắn liền với quyền lực chính trị và quyền lợi kinh tế trái ngược với những chuẩn mực pháp quyền.
Để hiểu kỹ hơn vấn đề này, xin nêu lên một nhận định mang ý nghĩa tổng kết: tổng hợp nhiều công trình nghiên cứu, các học giả phương Tây đã vạch ra 7 khuyết tật của nhà nước, trong đó đứng đầu là xu hướng tự bành trướng của nhà nước. Đó là hiện tượng phổ biến được đặt tên là "Nhà nước gọi thêm Nhà nước".
Bộ máy nhà nước của ta cũng không nằm ngoài thực trạng đó! Biên chế của bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị của ta cũng đã phình to lên mãi, vừa "biên giảm" được chỗ này lại phình ra ở chỗ khác. Quả thật đây là một dạng khá điển hình của hiện tượng "nhà nước gọi thêm nhà nước" ấy. Đây là một căn bệnh trầm kha của quyền lực và là thảm họa của người dân không chỉ riêng ở ta!
Xin kết thúc bài viết bằng lời cảnh báo của cựu tổng thống Nelson Mandela, vị anh hùng dân tộc của nhân dân Nam Phi: "Chúng ta chưa có tự do. Chúng ta mới có điều kiện để đấu tranh giành tự do"! Từ việc tạo ra điều kiện đến việc dựa vào điều kiện đã được tạo ra đó để biến khát vọng dân chủ và tự do thành hiện thực phải là một "cuộc chiến đấu khổng lồ", đòi hỏi phải "động viên, tổ chức và giáo dục toàn dân" nhằm dựa vào "lực lượng vĩ đại của toàn dân" đấu tranh chống lại "những gì đã cũ kỹ, hư hỏng" cản trở dân chủ và tự do!
Trong dịp kỷ niệm 65 năm Quốc khánh 2.9 năm nay, gợi lại những ý tưởng lớn ấy là một dịp để thấm nhuần và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó chú ý nhắc lại tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền có một ý nghĩa thiết thực từ bối cảnh mới của tình hình kinh tế và xã hội với nhiều vấn đề bức xúc đang đặt ra.
________________________
* Tiêu đề phụ do Tuần Việt Nam tự đặt
1. Hồ Chí Minh Toàn Tập. Tập 4. NXBCTQG. Hà Nội 1995, tr.56
2. Hồ Chí Minh Toàn Tập. Tập 12. NXBCTQG. Hà Nội 1995, tr 505
3. Hồ Chí Minh Toàn Tập. Tập 5. NXBCTQG. Hà Nội 1995, tr.305
* Trong bài này đã nhắc lại một số ý tôi đã viết ở Lời Giới thiệu cuốn sách của Ts Lê Tuấn huy "Triết học chính trị Montesquieu với việc xây dựng Nhà nước Pháp quyền Việt Nam" NXB Tổng hợp. TpHCM. 2006
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân
Khi mới thành lập (2-1930), Cương lĩnh của Ðảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc "Làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập", thiết lập chính quyền công nông "để đi tới xã hội cộng sản". Mục tiêu giành độc lập dân tộc và giành chính quyền về tay nhân dân thống nhất với nhau trong sự nghiệp cách mạng giải phóng giai cấp và dân tộc do Ðảng Cộng sản lãnh đạo.
Trải qua 15 năm đấu tranh đầy hy sinh, gian khổ, nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, đã tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám xóa bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Một Nhà nước cách mạng kiểu mới đã ra đời ở Việt Nam - Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo Ðảng Cộng sản Việt Nam và cũng là người sáng lập Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam, đã nêu rõ mục đích và bản chất của Nhà nước Việt Nam mới không phải là cơ quan cai trị dân, mà là để phục vụ nhân dân. Chúng ta phải hiểu rằng, "Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân". Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh.
Những năm tháng đầu tiên chính quyền Nhà nước đã tổ chức lực lượng toàn dân tham gia sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, xây dựng chế độ mới, phát triển kinh tế, văn hóa, xây dựng đời sống mới, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, vì hạnh phúc của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh ý nghĩa lớn lao của thành quả giành độc lập, giành chính quyền, nhưng "nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". Người cũng đã sớm đề ra những chủ trương để loại trừ những thói xấu, sự hư hỏng của một số cán bộ trong bộ máy chính quyền như trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo, vác mặt làm quan cách mạng làm cho dân khinh, dân ghét.
Dưới sự lãnh đạo của Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tổ chức, động viên sức mạnh toàn dân tộc, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền bắc và đưa miền bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội với những thành quả to lớn, tỏ rõ sức mạnh của chế độ và Nhà nước xã hội chủ nghĩa hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ của hậu phương lớn miền bắc đối với tiền tuyến lớn miền nam. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cùng với xây dựng, củng cố Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở miền bắc, Ðảng lãnh đạo xây dựng Mặt trận Dân tộc Giải phóng và chính quyền cách mạng ở vùng giải phóng miền nam, xây dựng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam, góp phần xứng đáng đưa cuộc kháng chiến giành độc lập, thống nhất đến toàn thắng.
Sau ngày đất nước thống nhất (30-4-1975), Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Ðảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trong đó có đổi mới chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động, quản lý của Nhà nước phù hợp cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý mới, quán triệt bài học lấy dân làm gốc.
Gần 25 năm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới do Ðảng khởi xướng và lãnh đạo, Nhà nước đã được xây dựng và củng cố vững mạnh gắn với xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống chính trị. Ngày càng làm rõ và thực hiện tốt hơn vai trò, chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội, xây dựng và thực hiện có hiệu quả chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phát triển văn hóa, chăm lo cải thiện rõ rệt đời sống của nhân dân; thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, chiến lược bảo vệ Tổ quốc và đẩy mạnh quan hệ và hội nhập kinh tế quốc tế; không ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật, tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản.
Thành quả lớn và có ý nghĩa sâu sắc trong công cuộc đổi mới là Nhà nước đã chăm lo quản lý và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ðã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội (1996), vượt qua khủng hoảng tài chính, kinh tế ở khu vực (1997-1998) và đang thành công trong khắc phục ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu từ năm 2008. Cuộc sống đã khẳng định vai trò to lớn của Nhà nước Việt Nam trong quản lý, điều hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Từ thành tựu to lớn về phát triển kinh tế, Nhà nước chú trọng thực hiện tốt hơn các chính sách xã hội. Bảo đảm an sinh xã hội là một trong những ưu tiên hàng đầu được thực hiện trong hai năm vừa qua chứng tỏ tính ưu việt của Nhà nước ta. Chúng ta đã giảm tỷ lệ hộ đói nghèo năm 1993 là 58% xuống còn 12,3% năm 2009. Nhà nước thực hiện có hiệu quả Chương trình 135 từ năm 1998, hỗ trợ hơn 1.700 xã nghèo xây dựng cơ sở hạ tầng: điện, đường, trường, trạm để phát triển kinh tế, thoát nghèo. Từ năm 2004, thực hiện Chương trình 134 hỗ trợ trực tiếp các hộ nghèo về đất canh tác, đất và nhà ở, nước sạch. Hiện nay đang thực hiện chương trình 30a xóa nghèo bền vững cho 62 huyện nghèo nhất. Liên Hợp quốc và các nước đánh giá Việt Nam là một nước xóa đói, giảm nghèo thành công, thực hiện tốt 8 mục tiêu thiên niên kỷ Liên Hợp quốc đề ra năm 2000. Các nhà nghiên cứu nước ngoài cũng nhận định rằng: Chỉ có chính quyền của dân, do dân, vì dân mới có thể xóa đói, giảm nghèo thành công như Việt Nam.
Cũng cần thấy rằng, trong bối cảnh khủng hoảng, suy thoái kinh tế toàn cầu, Nhà nước ta đã tỏ rõ bản lĩnh, năng lực tổ chức, quản lý năng động, linh hoạt nên đã giữ được tăng trưởng khá trong khi nhiều nước và nền kinh tế đang còn suy giảm; ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo tốt đời sống các tầng lớp nhân dân. Các chính sách xã hội, cứu trợ xã hội được thực hiện tốt hơn. Chính quyền các cấp phối hợp các tổ chức mặt trận, đoàn thể trong hệ thống chính trị hướng dẫn nhân dân, nhất là các hộ, các vùng, địa phương nghèo với sự hỗ trợ của Nhà nước tự vươn lên để thoát nghèo. Cứu trợ, hỗ trợ chứ không phải ban phát, làm sao để những người nghèo, hộ nghèo không thụ động, ỷ lại mà phải biết chủ động phát triển kinh tế để thoát nghèo. Biết động viên sức dân để làm lợi cho dân như chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trên cơ sở những thành tựu về xây dựng Nhà nước và những gì Nhà nước đã làm được và chưa làm được suốt 65 năm qua, Nhà nước còn phải tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện để thật sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Cần tập trung thực hiện tốt hơn nữa dân chủ xã hội chủ nghĩa. Thực hiện dân chủ từ cơ sở, mọi công việc, chính quyền cần bàn bạc với dân phát huy quyền làm chủ, trí tuệ, sáng kiến của nhân dân. Ðổi mới thể chế bầu cử để nhân dân bầu ra những đại biểu của mình thật sự có đức, có tài, thật sự vì dân, vì quê hương, đất nước. Chính quyền phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Chính sách, chủ trương, biện pháp nào mà dân cho là không đúng, không phù hợp thì cùng với nhân dân thảo luận để sửa đổi. Ðương nhiên, dân chủ phải gắn liền với kỷ cương, kỷ luật, pháp luật, với trách nhiệm, nghĩa vụ công dân; dân chủ phải có lãnh đạo, lãnh đạo bằng phương pháp dân chủ.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản, bao gồm hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước, chức năng, nhiệm vụ và đội ngũ công chức. Pháp luật là thể chế hóa Cương lĩnh, đường lối, chủ trương Nghị quyết của Ðảng, đồng thời thể hiện ý chí, lợi ích và quyền lực của nhân dân. Quốc hội là do dân bầu ra, phải thực hiện tốt hơn chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề lớn của đất nước và giám sát tối cao, vì cuộc sống của nhân dân. Chính phủ và chính quyền các cấp hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan hành pháp, đẩy mạnh cải cách nền hành chính quốc gia bao gồm thể chế hành chính, tổ chức bộ máy, đội ngũ công chức và tài chính công. Chú trọng xây dựng bộ máy tư pháp và cải cách tư pháp. Nắm vững quan điểm của Ðảng: quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan thực hiện chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp. Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước vững mạnh, đồng thời kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí và những tiêu cực khác.
Nhà nước chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại làm lực lượng nòng cốt để thực hiện nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng, an ninh, thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp đổi mới; bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân. Làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để gây mất ổn định và phá hoại sự nghiệp xây dựng đất nước và cuộc sống của nhân dân.
Nhà nước tiếp tục chăm lo nâng cao đời sống nhân dân. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, theo chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ đã có chương trình và tổ chức các chiến dịch diệt "giặc đói", "giặc dốt". Dù phải trải qua kháng chiến lâu dài, Nhà nước đã nỗ lực phấn đấu để ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Trong công cuộc đổi mới, Nhà nước đã đặc biệt coi trọng việc không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân. Ðến năm 2009, hơn 94% số người Việt Nam biết chữ và cũng tỷ lệ như vậy những người trong độ tuổi đi học được đến trường học; tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đạt 72,8 tuổi. Chất lượng cuộc sống của nhân dân chính là một thước đo hiệu lực và hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân và vì dân./.
(Theo Báo Nhân Dân) - http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/Ne...6&cn_id=385470
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN
GS. LÊ XUÂN LỰU
Chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân trong hệ thống chính trị của đất nước. Hệ thống chính trị của nước ta bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội. Mỗi thành phần trong hệ thống chính trị có vai trò riêng của mình trong sự nghiệp cách mạng.
Với tư cách là đội tiên phong của giai cấp công nhân, là đại biểu trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ thể lãnh đạo toàn bộ quá trình cách mạng Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là bộ máy quyền lực của nhân dân, có chức năng định ra luật pháp và tổ chức quản lý mọi lĩnh vực của đời sống đất nước bằng luật pháp. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tập hợp các tổ chức chính trị của nhân dân, đại diện cho lợi ích và vị trí của từng cộng đồng xã hội khác nhau, tham gia vào công việc bảo vệ lợi ích thiết thực của người lao động và động viên cộng đồng nỗ lực trong cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lấy liên minh công nông với đội ngũ trí thức làm nền tảng và là cơ sở chính trị của chính quyền nhà nước. Giữa các bộ phận của hệ thống chính trị có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, và mỗi bộ phận có vai trò riêng của mình. Vai trò đó thể hiện ở chức năng của từng bộ phận: Đảng lãnh đạo – Nhà nước quản lý – Nhân dân làm chủ.
Nhân dân là người chủ của đất nước. Nhân dân lập ra bộ máy nhà nước thay mặt mình xây dựng pháp luật và quản lý đất nước thực hiện quyền làm chủ và bảo vệ lợi ích của nhân dân. Vì vậy, Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Đảng lãnh đạo là vấn đề cốt tử để Nhà nước có thể thực hiện và phát huy chức năng quản lý xã hội của mình. Đảng không làm thay công việc cụ thể của Nhà nước trong công cuộc quản lý đất nước, quản lý xã hội. Đảng chỉ lãnh đạo Nhà nước và sự lãnh đạo đó được thực hiện thông qua đường lối, cương lĩnh, chiến lược, các định hướng… Sự lãnh đạo của Đảng không hề đối lập với việc tăng cường hiệu quả quản lý của Nhà nước và chính sự lãnh đạo đó là cội nguồn của sức mạnh và hiệu quả hoạt động quản lý của Nhà nước. Và Nhà nước ta cũng chỉ có thể làm được chức năng của mình một khi có mối liên hệ gắn bó với nhân dân, biết dựa vào dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.
Bộ máy của Nhà nước ta gồm có: Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp, Tòa án nhân dân các cấp và Viện kiểm sát nhân dân các cấp. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp, cử ra cơ quan hành pháp, tư pháp và thực hiện việc giám sát theo đúng pháp luật.
Nhà nước tư sản lấy phân chia quyền lực của ba cơ quan: nghị viện, chính phủ, tòa án – lấy tam quyền phân lập (lập pháp, hành pháp, tư pháp) làm nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước. Các lý luận gia tư sản hết lời ca tụng nguyên tắc tổ chức này và coi đó là biểu hiện ưu việt của nền dân chủ tư sản… Đây chỉ là điều bịa đặt để lừa mị quần chúng nhân dân vì thực chất cách tổ chức này là lấy quyền lực để hạn chế quyền lực nhằm chống lại quyền lực độc đoán, tùy tiện trong bộ máy nhà nước mà thực chất là để chế ngự lẫn nhau và bảo vệ quyền lợi của những phe cánh khác nhau của giai cấp tư sản trong bộ máy nhà nước.
Quan điểm của chúng ta cho rằng, vấn đề bản chất của Nhà nước là nhà nước của ai, do ai và vì ai. Và từ đó mà lựa chọn cách tổ chức. Nhà nước ta thực hiện sự thống nhất ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, và có sự phân công rành mạch giữa ba quyền đó. Cách tổ chức này bảo đảm cho việc nâng cao tính hiệu quả quản lý, tăng cường pháp quyền, xây dựng một hệ thống hành pháp và quản lý hành chính thông suốt từ Trung ương đến cơ sở có đủ năng lực và quyền lực để quản lý có hiệu quả mọi lĩnh vực của đời sống đất nước.
Nhà nước ta được xây dựng trên nguyên tắc tập trung dân chủ. Không nhận thức đúng đắn nguyên tắc này thì không thể xây dựng được Nhà nước ta. Vì vậy, để xây dựng bộ máy nhà nước và quản lý có hiệu quả công cuộc xây dựng xã hội mới cần nhận rõ mối quan hệ giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa với kỷ cương, luật pháp xã hội chủ nghĩa. Những yếu tố này chẳng những không loại trừ nhau mà còn làm tiền đề cho nhau hợp thành một chỉnh thể thống nhất và là một tất yếu khách quan của đời sống xã hội.
Không có dân chủ thì không có chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội trong đó người dân làm chủ xã hội, làm chủ đất nước. Quyền làm chủ đó được thực hiện thông qua bộ máy nhà nước do dân cử ra. Vì vậy, bộ máy này phải lấy dân làm gốc, phải biết dựa vào dân, trung thành với lợi ích của nhân dân, biết phát huy trí tuệ của nhân dân, biết tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Dân chủ là bản chất của các mối quan hệ trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời, cũng phải thấy rằng, không có kỷ cương, luật pháp thì cũng không có chủ nghĩa xã hội. Không có kỷ cương, luật pháp thì cũng không có nhà nước pháp quyền, không có xã hội ổn định, xã hội trở thành vô chính phủ. Chỉ có dân chủ mà không có luật pháp thì không sao chống được tệ quan liêu cửa quyền, độc đoán, tham nhũng và từ đó làm sao có được nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, và làm sao giải quyết được mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa con người với con người, con người với cộng đồng, giữa cấp trên và cấp dưới, giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, lợi ích xã hội và bảo vệ được tính công bằng xã hội.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phải đi đôi với luật pháp xã hội chủ nghĩa. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội được tổ chức trên cơ sở luật pháp. Pháp luật là cái thể hiện và là cái bảo đảm cho quyền làm chủ của nhân dân lao động và là công cụ để quản lý xã hội. Thiếu pháp luật sẽ không có dân chủ và một xã hội càng dân chủ bao nhiêu thì lại càng phải có luật pháp, kỷ cương và trật tự bấy nhiêu.
Rõ ràng, nguyên tắc tập trung dân chủ định hướng cho sự phát triển của Nhà nước ta và xã hội ta. Nó còn là yếu tố để hình thành nhân cách của con người xã hội chủ nghĩa, hình thành bầu không khí chính trị đạo đức xã hội chủ nghĩa là dân chủ và kỷ luật.
Trong những năm đổi mới vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và qua rèn luyện trong thực tiễn quản lý sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nhà nước ta đã trưởng thành về nhiều mặt, đã thể hiện rõ bản chất của một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Nổi bật nhất là những thành tựu về xây dựng hệ thống pháp luật để quản lý đất nước, về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhất là dân chủ ở cơ sở. Hoạt động của Nhà nước thể hiện được tư tưởng lấy dân làm gốc, biết dựa vào dân, thực hiện việc dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Nhà nước cũng đã tích cực đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, xử lý nghiêm minh những vụ việc tiêu cực, tham nhũng.
Những thành tựu, những tiến bộ trên đây đã tạo nền tảng cho công tác quản lý đất nước. Nhờ vậy, đất nước được ổn định và về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội có bước phát triển tốt, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt, định hướng xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Tuy vậy, vẫn còn hai vấn đề cơ bản sau đây cần được tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng lên một trình độ mới để đáp ứng kịp thời yêu cầu của sự phát triển của cách mạng trong tình hình mới: tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao chất lượng giáo dục và quản lý việc thực hiện pháp luật; chăm lo bồi dưỡng phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, viên chức nhà nước.
1 – Sự nghiệp cách mạng hiện nay đang đòi hỏi một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh để làm cơ sở cho sự thống nhất quản lý của nhà nước và hành vi của công dân. Việc xây dựng luật pháp vừa qua tuy đã có nhiều cố gắng nhưng luật pháp vẫn chưa bao trùm hết các lĩnh vực hoạt động của xã hội.
Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, nhiều lĩnh vực của sản xuất, kinh doanh ngày càng được chia nhỏ và toàn cầu hóa đưa lại việc mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội thì luật pháp cũng phải được mở rộng để làm cơ sở cho quá trình quản lý xã hội. Hơn thế, sự nghiệp cách mạng không ngừng biến đổi và phát triển. Những biến đổi và phát triển đó cũng đòi hỏi những sửa đổi, bổ sung những quy định của luật pháp đã bị thực tiễn vượt qua. Vì thế, bên cạnh việc tiếp tục xây dựng luật pháp thì sửa đổi, hoàn thiện luật pháp là công việc thường xuyên của Nhà nước. Điều đó đòi hỏi phải xây dựng một đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng lực thường xuyên bám sát đời sống của từng đạo luật đã ban hành trong xã hội, thường xuyên rút kinh nghiệm và đề xuất những sửa đổi, hoàn thiện pháp luật trước những biến đổi của tình hình.
Điều cơ bản nhất trong xây dựng pháp luật là, phải thể hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng, phải hướng vào việc bảo đảm cho việc thực hiện mục tiêu của cách mạng là: độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Để làm được điều đó thì luật pháp phải bảo đảm cho việc chống lại các nguy cơ mà Đảng ta đã xác định: tụt hậu xa hơn về kinh tế, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, "diễn biến hòa bình", quan liêu, tham nhũng. Ví dụ: chúng ta đang thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần nhằm phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền sản xuất xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân. Nhưng vai trò của các thành phần kinh tế lại khác nhau trong nền kinh tế quốc dân trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và là lực lượng vật chất, là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể là nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Tùy theo từng chặng đường phát triển của cách mạng mà những điều đó phải được thể hiện trong Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Hợp tác xã. Bỏ quên, xa rời điều đó thì không thể nói tới con đường xã hội chủ nghĩa.
Để luật pháp thực sự là cơ sở pháp lý cho quản lý của Nhà nước và hành vi của công dân thì phải giáo dục rộng rãi luật pháp cho toàn dân. Cần sử dụng có hiệu quả các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật cho nhân dân. Đặc biệt, cần tùy theo đối tượng mà lựa chọn luật pháp để đưa vào giáo dục trong các nhà trường, các đoàn thể chính trị, các tổ chức xã hội, các đơn vị sản xuất kinh doanh, các sinh hoạt chính trị của nhân dân.
Việc quản lý thực hiện pháp luật phải chặt, xử lý các vi phạm phải nghiêm. Chúng ta không ảo tưởng có thể xây dựng một xã hội hoàn toàn trong sạch, loại trừ hoàn toàn mọi tiêu cực một khi các điều kiện kinh tế – xã hội khách quan với tư cách là nguồn gốc sinh ra tiêu cực còn tồn tại. Tuy nhiên, việc ngăn chặn các tệ nạn xã hội kém hiệu quả lại chính là do thiếu sót chủ quan của bộ máy nhà nước. Đó là do luật pháp chưa đầy đủ, cơ chế có nhiều sơ hở, ngay cả những vấn đề đã có luật pháp nhưng quản lý việc thi hành luật pháp không chặt chẽ và xử lý những vụ vi phạm luật pháp không nghiêm, thậm chí, còn có cả tiêu cực trong việc xử lý các vi phạm luật pháp.
2 – Vấn đề cơ bản nhất để xây dựng một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân là phải ra sức xây dựng một đội ngũ cán bộ viên chức nhà nước có đầy đủ phẩm chất và năng lực.
Trong công cuộc xây dựng đất nước, chúng ta đang thực hiện một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường chứa đựng cả mặt tích cực và tiêu cực. Kinh tế thị trường thúc đẩy chủ nghĩa cá nhân phát triển, thúc đẩy xu hướng "thương mại hóa" các quan hệ xã hội, thúc đẩy con người chạy theo đồng tiền bằng mọi giá.
Chủ nghĩa cá nhân, như Hồ Chí Minh đã chỉ rõ là "bệnh mẹ" đẻ ra muôn vàn bệnh tật khác. Một khi con người rơi vào chủ nghĩa cá nhân thì đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích tập thể, cộng đồng, xa rời phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, lâm vào tham ô, hối lộ, xa dân, dối trá, lời nói không đi đôi với việc làm, phá vỡ đoàn kết, phá hoại kỷ cương của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Trong môi trường kinh tế – xã hội hiện nay, chủ nghĩa cá nhân trong hàng ngũ cán bộ, viên chức nhà nước đang có cơ hội phát triển. Tình trạng tham nhũng trong bộ máy Đảng, Nhà nước đang trở nên bức xúc. Tham nhũng đã được Đảng đánh giá là quốc nạn. Nó lại gắn liền với quan liêu cửa quyền, hách dịch, lãng phí… Nhiều hiện tượng sa sút phẩm chất, chạy theo quyền lực bằng mọi cách như xu nịnh, tạo phe cánh để ngoi lên, lừa đảo về bằng cấp, chứng chỉ, thành tích… thậm chí có cả việc đút lót, mua quan bán tước cũng đã diễn ra.
Thực trạng này đang phá hoại nghiêm trọng mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Vì nhân dân gắn bó máu thịt với Đảng không phải chỉ bằng đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng mà bằng cả tấm gương đạo đức, lối sống trong sáng hàng ngày của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Vấn đề xây dựng đạo đức đang trở thành vấn đề hàng đầu của công cuộc xây dựng bộ máy nhà nước. Trong công cuộc xây dựng này, việc chống chủ nghĩa cá nhân, xây dựng tinh thần tập thể, cộng đồng phải là phương hướng cơ bản của công tác tư tưởng. Chống chủ nghĩa cá nhân không có nghĩa là chà đạp lên cá nhân con người, phủ nhận vai trò to lớn của cá nhân trong đời sống xã hội mà là chống cái ác, cái xấu của chủ nghĩa cá nhân, làm cho cá nhân con người phát triển lành mạnh luôn luôn hành động vì lợi ích của tập thể, của cộng đồng và của bản thân. Phải hết sức coi trọng giáo dục đạo đức nhưng cũng không biến quá trình giáo dục thành một quá trình đạo đức đơn thuần mà đi đôi với giáo dục phải xử lý nghiêm minh mọi sự vi phạm luật pháp của bất cứ ai.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một việc làm mới mẻ. Mô hình cũ của chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ, mô hình mới đang được khai phá, thử nghiệm và chưa phải mọi vấn đề đã sáng tỏ.
Kẻ thù đang ra sức xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa và đang thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn lật đổ.
Sự phát triển của khoa học và công nghệ đã đưa lại sự xuất hiện kinh tế tri thức và "chính phủ điện tử". Để việc quản lý kinh tế tri thức cũng như các lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong thời đại ngày nay được nhạy bén, kịp thời và thực sự khoa học thì sự quản lý đó phải được thực hiện với năng lực, trí tuệ cao và phương tiện kỹ thuật hiện đại.
Việc thực hiện nhiệm vụ từng bước phát triển kinh tế tri thức như Đại hội IX của Đảng đã đề ra cũng như việc chống lại các nguy cơ nêu trên, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, viên chức nhà nước có một tầm cao về năng lực trí tuệ, phẩm chất tư duy và năng lực nghiệp vụ.
Chúng ta hiểu quản lý một cách khoa học công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước là sự tác động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch đối với xã hội nói chung cũng như đối với từng lĩnh vực riêng lẻ của đời sống xã hội trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan và các xu thế tiến bộ của sự phát triển xã hội vì lợi ích của quần chúng nhân dân lao động.
Từ những vấn đề trên đây của công tác quản lý cũng như những đặc điểm của tình hình đất nước và đội ngũ cán bộ, viên chức nhà nước hiện nay, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, viên chức nhà nước phải được hướng vào quán triệt các vấn đề sau: bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, kế hoạch xây dựng đất nước trên từng lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng… và quán triệt tính quy luật phổ biến của quản lý là hướng một cách tự giác sự phát triển của tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội vào quỹ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ. Đặc biệt là, phải quán triệt tính giai cấp công nhân của công tác quản lý. Công tác quản lý có hai mặt, một mặt, nó đáp ứng nhu cầu khách quan của sản xuất, của đời sống xã hội; mặt khác, nó biểu hiện lợi ích giai cấp của giai cấp đang quản lý đất nước. Điểm này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong khi học tập kinh nghiệm quản lý của các nước tư bản. Nghĩa là, phải phân định và tỉnh táo cái gì nên học và cái gì không nên học.
Công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên phải hướng vào việc chống các hiện tượng tiêu cực của bản thân người cán bộ, tiêu cực trong xã hội; phải xây dựng dân chủ và kỷ luật làm hai yếu tố cơ bản để hình thành nhân cách con người; hình thành bầu không khí chính trị đạo đức xã hội chủ nghĩa và đặc biệt là xây dựng tính gương mẫu về đạo đức của người cán bộ, viên chức nhà nước.
SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN SỐ 61 NĂM 2004 - http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2009/06/05/3020/
Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân
TS. Hoàng Đình Cúc
1. Pháp quyền và nhà nước pháp quyền
Một trong những đặc trưng của nhà nước là mối liên hệ mật thiết với pháp quyền. pháp quyền là hình thức điều tiết hành vi của con người, là tổng thể những chuẩn mực hành vi do nhà nước đặt ra và chuẩn y nhằm duy trì trật tự kinh tế, chính trị, xã hội và những trật tự khác có trong xã hội, đó là ý chí của giai cấp thống trị được nâng lên thành luật. Trong chế độ công xã nguyên thuỷ không có pháp quyền. Trật tự đời sống xã hội thời kỳ này được duy trì bằng sức mạnh của tập quán, truyền thống, uy tín, tinh thần của trưởng lão thị tộc đại diện cho lợi ích chung của các thành viên. Khi xã hội phân chia thành giai cấp, những lợi ích đối lập nhau xuất hiện, tập quán, truyền thống, uy tín không thể điều tiết được hành vi của con người, mà chỉ có pháp quyền. Xã hội có giai cấp không thể tồn tại, nếu không thể chế hoá bằng pháp quyền các mối quan hệ sở hữu, gia đình, hôn nhân và các quan hệ khác. Thông qua pháp quyền được trình bày dưới hình thức luật, nhà nước thực hiện chức năng lập pháp.
Lịch sử xã hội loài người từ trước đến nay có bốn kiểu nhà nước có liên hệ mật thiết với pháp quyền là nô lệ, phong kiến, tư sản và vô sản. nhà nước pháp quyền mà chúng ta quan niệm không phải là một kiểu nhà nước gắn liền với một giai cấp như nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản, xã hội chủ nghĩa, mà là một hình thức tổ chức nhà nước, một trình độ phát triển của nhà nước về phương diện tổ chức quyền lực để bảo đảm Hiến pháp và pháp luật giữ địa vị tối cao. nói một cách khái quát là, hệ thống các tư tưởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật.
Đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền bao gồm: Trước hết, sự đảm bảo tối cao của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội, trong đó pháp luật phải phản ánh ý chí chung của nhân dân và lợi ích chung của xã hội. Thứ hai, Nhà nước thực hiện và bảo vệ các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá của công dân. Pháp luật chỉ cấm những gì có hại cho xã hội. Công dân được tự do làm những gì pháp luật không cấm. Thứ ba, nhà nước và nhân dân bảo đảm trách nhiệm lẫn nhau, có quan hệ mật thiết và ràng buộc lẫn nhau về quyền và nghĩa vụ do pháp luật điều chỉnh. Bảo đảm đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân là trách nhiệm của Nhà nước. Nhà nước chịu trách nhiệm trước công dân về những hoạt động của mình và công dân chịu trách nhiệm trước Nhà nước về những hành vi vi phạm pháp luật của mình. Thứ tư, Nhà nước pháp quyền phải có hình thức tổ chức quyền lực thích hợp để thực hiện hữu hiệu việc xây dựng hệ thống pháp luật, giám sát sự tuân thủ pháp luật, xử lý các vi phạm pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện một cách nghiêm minh.
Hiện nay trên thế giới, dựa trên các nguyên tắc và các đặc trưng của nhà nước pháp quyền, một quốc gia, dân tộc xây dựng và phân công quyền lực nhà nước riêng của mình xuất phát từ điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, lịch sử và truyền thống dân tộc. Không thể có một “mô hình kiểu mẫu” duy nhất của nhà nước pháp quyền, bắt buộc các dân tộc phải tuân theo.
2. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập Nhà nước Cộng hoà dân chủ Việt Nam, người trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật của nước Việt Nam mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước dân chủ, trong đó pháp quyền được đề cao đã xuất hiện sớm. Trong bài “Việt Nam yêu cầu ca” đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Người đã coi trọng vai trò của pháp quyền: “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh thể hiện ở các nội dung cơ bản sau: Trước hết, nhà nước Việt Nam phải là nhà nước dân chủ triệt để. Đó là nền dân chủ đề cao nhân dân, nhân dân là chủ thể, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân, được thực hiện triệt để cả dân chủ đại diện và trực tiếp. Để bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh coi chuyên chính là cái để giữ cho quyền dân chủ đó.
Người cho rằng chế độ nào cũng có chuyên chính, vấn đề là ai chuyên chính ai, vì lợi ích của đa số hay thiểu số. Thứ hai, nhà nước pháp quyền Việt Nam là nhà nước pháp quyền hợp hiến, hợp pháp. Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 3.9.1945, Người đề ra hai nhiệm vụ liên quan tới xây dựng nhà nước pháp quyền là: tổ chức Tổng tuyển cử và Xây dựng Hiến pháp để xác lập nền tảng dân chủ và nhà nước hợp hiến, hợp pháp ở Việt Nam. Thứ ba, hệ thống pháp luật ở Việt Nam là hệ thống pháp luật dân chủ, tiến bộ, hướng tới các giá trị nhân văn. Hồ Chí Minh cho rằng pháp luật của ta là pháp luật dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do rộng rãi của nhân dân lao động. Muốn vậy, nhà nước phải thực sự của dân, chăm lo tới lợi ích của nhân dân. Thứ tư, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là công cụ bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ và phát triển quyền con người. Quyền con người của tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm quyền tự do cá nhân, quyền bình đẳng giữa các dân tộc trên thế giới, độc lập dân tộc và giải phóng con người.
Như vậy, tư tưởng nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh rất phong phú, nhất quán và những tư tưởng ấy đã được Đảng ta vận dụng, phát triển để xây dựng nhà nước pháp quyền trong quá trình đổi mới đất nước.
Tư tưởng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta khẳng định trong quá trình đổi mới có cơ sở tư tưởng dân chủ và xây dựng nhà nước pháp quyền trong lịch sử, đặc biệt là nền dân chủ tư sản và tư tưởng dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh. nhận thức về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được thể hiện qua các Văn kiện của Đảng trong công cuộc đổi mới như sau:
Đại hội lần thứ VI của Đảng đã dứt khoát từ bỏ mô hình kinh tế phi hàng hoá, phi thị trường, mô hình kinh tế tập trung bao cấp và chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Sự chuyển hướng ấy đã đặt ra yêu cầu chúng ta cần nhận thức rõ hơn vai trò của pháp luật và phải “quản lý xã hội bằng pháp luật, chứ không phải bằng đạo lý”.
Đại hội lần thứ VII của Đảng tuy chưa nêu lên khái niệm nhà nước pháp quyền nhưng đã xác định rằng “tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước theo phương hướng: Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng; tổ chức hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện thống nhất quyền lực nhưng phân công, phân cấp rành mạch; bộ máy tinh giảm, gọn nhẹ và hoạt động có chất lượng cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật quản lý”(1).
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CHXH do Đại hội VII của Đảng thông qua, đã xác định rằng: “toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”. “Nhà nước định ra các đạo luật nhằm xác định các quyền công dân và quyền con người, quyền đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm”(2).
Đến đại hội giữa nhiệm kỳ khoá VII, nhận thức mới của Đảng ta về nhà nước pháp quyền khá toàn diện và cụ thể. Hội nghị khẳng định tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam, đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Như vậy, lần đầu tiên trong văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam dùng khái niệm nhà nước pháp quyền Việt Nam, đồng thời chỉ ra những nguyên tắc, đặc trưng của nó, đánh dấu bước tiến rõ nét trên con đường nhận thức về nhà nước pháp quyền nước ta. Hội nghị Trung ương 8 khoá VII đã ra nghị quyết về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam, trọng tâm là cải cách hành chính nhà nước và đã nêu lên năm quan điểm cơ bản cần nắm vững trong quá trình xây dựng và kiện toàn nhà nước: Thứ nhất, xây dựng nhà nước XHCN của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân; Thứ hai, quyền lực của nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; Thứ ba, quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của nhà nước; Thứ tư, tăng cường pháp chế XHCN, quản lý xã hội bằng pháp luật đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức XHCN; Thứ năm, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước(3).
Đó là năm quan điểm cơ bản đã được khẳng định trong Văn kiện Đại hội VII. Hội nghị Trung ương 3 khoá VIII (6.1997) có nhận xét rằng, trong quá trình đổi mới, Đảng ta “đã từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do dân, vì dân”. Đồng thời khi phân tích nguyên nhân những yếu kém, hội nghị đã nêu lên một số vấn đề có tính phương pháp luận: “Việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của chúng ta còn ít, có nhiều việc phải vừa làm, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm”. Nghị quyết khẳng định tiếp tục thực hiện nghị quyết Trung ương 8 khoá VII và nhấn mạnh ba yêu cầu là tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.
Đại hội IX chỉ rõ: Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp(4).
Từ thực tiễn nhận thức và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, ta có thể rút ra những đặc trưng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam như sau:
- Thứ nhất, nhà nước pháp quyền là nhà nước phải có hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, chất lượng cao, thể hiện được ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội, trong đó Hiến pháp và các đạo luật phải giữ địa vị tối cao. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước và mọi thành viên trong xã hội phải tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
- Thứ hai, nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua hình thức dân chủ đại diện (do cơ quan nhà nước do mình bầu ra) và hình thức dân chủ trực tiếp.
- Thứ ba, nhà nước pháp quyền là nhà nước thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế trong xã hội, xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật, bảo đảm thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do và lợi ích chính đáng, hợp pháp của công dân, chịu trách nhiệm trước công dân về mọi hoạt động của mình. Nhà nước tôn trọng và thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã cam kết:
- Thứ tư, nhà nước pháp quyền là nhà nước tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, và tư pháp, nhằm hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền, xâm hại tới lợi ích hợp pháp của công dân từ phía nhà nước.
- Thứ năm, nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đồng thời đảm bảo sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.
Bản chất nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hành đều ở nơi dân, mọi quyền lực nhà nước có được đều do nhân dân uỷ quyền. Bản chất này được quy định một cách khách quan từ cơ sở kinh tế và chế độ chính trị của CNXH. Sự khác biệt về bản chất ấy so với các nhà nước bóc lột biểu hiện bản chất giai cấp, tính dân tộc, tính nhân dân của nhà nước, chúng hoà quyện vào nhau.
Xuất phát từ lý luận duy vật lịch sử và thực tiễn, ai cũng có thể nhận thấy rằng bất kỳ nhà nước nào cũng là nền chuyên chính của giai cấp thống trị. Giai cấp nắm quyền thống trị về kinh tế sẽ nắm quyền thống trị về chính trị thông qua bộ máy nhà nước của mình. Trong chế độ ta, giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo xã hội. Vì vậy, nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân, được thể hiện ở toàn bộ hoạt động của nhà nước từ pháp luật, cơ chế, chính sách, đến nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước, nhằm từng bước thực hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phục vụ lợi ích giai cấp, nhân dân lao động và cả dân tộc.
Lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc là thống nhất. Sự thống nhất ấy bắt nguồn từ bản chất của cách mạng XHCN do giai cấp công nhân lãnh đạo. Vì vậy, nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân, đồng thời cũng gắn bó chặt chẽ với tính dân tộc, tính nhân dân. Bản chất giai cấp công nhân, tính dân tộc và tính nhân dân hoà quyện vào nhau, được quán triệt, cụ thể hoá, thể chế hoá trên mọi lĩnh vực, mọi tổ chức, mọi hoạt động của nhà nước. Và cũng chỉ có nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo mới đại biểu cho lợi ích chung của nhân dân lao động, của dân tộc. Tính nhân dân thể hiện ở chỗ nhà nước là của dân, quyền lực thực sự ở nơi dân, chính quyền do dân lập nên và tham gia quản lý; nhà nước thể hiện ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân; cán bộ công chức nhà nước là công bộc của dân. Tính dân tộc của nhà nước được thể hiện ở chỗ, tổ chức và hoạt động của nhà nước ta kế thừa và phát huy những truyền thống, bản sắc tốt đẹp của dân tộc và con người Việt Nam. Nhà nước có chính sách dân tộc đúng đắn, chăm lo lợi ích mọi mặt cho các dân tộc trong cộng đồng người Việt Nam và thực hiện đoàn kết dân tộc, coi “đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân là đường lối chiến lược và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ tổ quốc; giữ vững quan điểm của Đảng về độc lập, tự chủ trong quan hệ đối ngoại; kết hợp đúng đắn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân”.
3. Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam theo tinh thần Đại hội Đảng lần thứ X
Phương hướng tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân đã được Đại hội Đảng lần thứ X chỉ rõ: “Xây dựng cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực của nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”(5).
Nhiệm vụ và giải pháp hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong những năm tới:
Trước hết, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, tính hợp hiến và hợp pháp trong hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội:
- Hoàn thiện cơ chế bầu cử để nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội; tăng hợp lý đại biểu Quốc hội chuyên trách, phát huy tốt hơn vai trò của đại biểu và đoàn đại biểu Quốc hội.
- Tổ chức lại một số uỷ ban của Quốc hội; nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội.
- Đổi mới hơn nữa quy trình xây dựng luật, giảm mạnh ban hành pháp lệnh.
- Thực hiện tốt hơn các nhiệm vụ quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao của Quốc hội.
Thứ ba, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ:
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại.
- Luật hoá cơ cấu tổ chức của Chính phủ; tổ chức bộ máy quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bảo đảm hiệu lực, tinh gọn và hợp lý.
Cơ cấu lại bộ máy Chính phủ theo hướng giảm mạnh các đầu mối phù hợp với yêu cầu đổi mới chức năng, nhiệm vụ.
Cơ cấu lại các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước các cấp theo hướng giảm cấp phó, bỏ cấp trung gian, chuyển các bộ phận phục vụ sang hình thức hợp đồng dịch vụ, phân cấp mạnh cho cấp dưới và gắn với thực hiện có hiệu quả thanh tra, kiểm tra của cấp trên. Tăng cường quyền chủ động, tự chịu trách nhiệm về hoạt động, tổ chức, nhân sự, tài chính, bổ nhiệm chức danh người đứng đầu cấp dưới. Tách hoạt động hành chính với hoạt động sự nghiệp, các hoạt động công quyền với hoạt động dịch vụ. Thực hiện đầy đủ nguyên tắc công khai, dân chủ và phục vụ nhân dân đối với các cơ quan và công chức nhà nước. Thực hiện nghiêm ngặt chế độ công vụ trong các cơ quan nhà nước.
- Nghiên cứu việc thành lập các cơ quan tài phán hành chính để giải quyết các khiếu kiện hành chính.
- Thực hiện phân cấp mạnh, hợp lý cho chính quyền địa phương, nhất là trong việc quyết định ngân sách, tài chính, đầu tư, nguồn nhân lực, thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Trung ương. Thứ tư, đối với hệ thống các cơ quan tư pháp:
- Xây dựng hệ thống các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người.
- Đẩy mạnh chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ; lấy cải cách hoạt động xét xử làm trung tâm; thực hiện cơ chế công bố gắn với hoạt động điều tra.
- Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
Thứ năm, về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp.
- Phát huy vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân.
- Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân định lại thẩm quyền đối với chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo.
Thứ sáu, về tổ chức bộ máy hành chính và hoạt động của cơ quan hành chính, cán bộ, công chức.
- Thực hiện các giải pháp nhằm chấn chỉnh bộ máy và quy chế hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức.
Ban hành và thực hiện luật công chức, công vụ; xác định rõ cơ quan, công chức nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Xây dựng đạo đức nghề nghiệp cho từng loại cán bộ, công chức và hệ thống tiêu chuẩn đánh giá, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức.
- Cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức và đào tạo, bồi dưỡng theo yêu cầu nâng cao chất lượng cả về năng lực và phẩm chất đạo đức.
- Có cơ chế đưa ra khỏi bộ máy nhà nước những người kém phẩm chất và năng lực. Tăng cường kiểm tra, giám sát các hoạt động của bộ máy nhà nước, hành vi của các công chức. Trừng trị nghiêm khắc những hành vi phạm pháp, phạm tội, bất cứ ở cương vị, chức vụ nào.
- Thực hiện chế độ trách nhiệm trong đề cử, bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo theo hướng cấp trưởng giới thiệu cấp phó, cấp sử dụng trực tiếp giới thiệu để cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân là một quá trình nhận thức và kiểm nghiệm. Quá trình đó đòi hỏi chúng ta thường xuyên tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, kịp thời làm sáng tỏ những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Trên cơ sở đó, đẩy nhanh cải cách, hoàn thiện hệ thống thể chế, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, cán bộ nòng cốt, phương thức hoạt động... để chính quyền của dân, do dân và vì dân ngày càng phát huy tính ưu việt, phục vụ đắc lực mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh”.
Nguồn bài này Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân
TS. Hoàng Đình Cúc
ở đây Trung tâm học liệu Đại học Cần Thơ http://www.lrc.ctu.edu.vn/pdoc/33/hoanthiennnpq.pdf
0 comments:
Post a Comment