Nguồn: Tamnhin.net, đăng ngày 14/10/2011, truy cập tại đây
Hoàng Sa và Trường Sa là hai quần đảo ở ngoài khơi Việt Nam: quần đảo
Hoàng Sa chỗ gần nhất cách đảo Ré, một đảo ven bờ của Việt Nam, khoảng
120 hải lý; cách Đà Nẵng khoảng 120 hải lý về phía Đông; quần đảo Trường
Sa chỗ gần nhất cách Vịnh Cam Ranh khoảng 250 hải lý về phía Đông.
Nhận thức của các nhà hàng hải thời xưa về Hoàng Sa và Trường Sa lúc đầu
mơ hồ; họ chỉ biết có một khu vực rộng lớn rất nguy hiểm cho tàu thuyền
vì có những bãi đá ngầm. Ngày xưa người Việt Nam gọi là Bãi Cát Vàng,
Hoàng Sa, Vạn lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn lý Trường Sa như các
sách và bản đồ cổ của Việt Nam đã chứng tỏ. Hầu như tất cả các bản đồ
của các nhà hàng hải phương Tây từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII đều vẽ
chung quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa làm một dưới cái tên
Pracel, Parcel hay Paracels.1
Về sau, với những tiến bộ của khoa học và hàng hải, người ta đã phân
biệt có hai quần đảo: quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Mãi cho
đến năm 1787 - 1788, cách đây hai trăm năm, đoàn khảo sát
Kergariou-Locmaria mới xác định được rõ ràng và chính xác vị trí của
quần đảo Hoàng Sa (Paracel) như hiện nay, từ đó phân biệt quần đảo này
với quần đảo Trường Sa ở phía Nam.
Các bản đồ trên nói chung đều xác định vị trí khu vực Pracel (tức là cả
Hoàng Sa và Trường Sa) là ở giữa Biển Đông, phía đông Việt Nam, bên
ngoài những đảo ven bờ của Việt Nam. Hai quần đảo mà các bản đồ hàng hải
quốc tế ngày nay ghi là Paracels và Spratley hoặc Spratly chính là quần
đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Bản đồ hàng hải của người Bồ Đào Nha thế kỷ XVI
Chủ quyền lịch sử của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Từ lâu nhân dân Việt Nam đã phát hiện quần đảo Hoàng Sa và quần đảo
Trường Sa, Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu và thực hiện chủ quyền của
mình đối với hai quần đảo đó một cách thật sự, liên tục và hoà bình.
Nhiều sách địa lý và bản đồ cổ của Việt Nam ghi chép rõ Bãi Cát Vàng,
Hoàng Sa, Vạn lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn lý Trường Sa từ lâu đã
là lãnh thổ Việt Nam.
Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư, tập bản đồ Việt Nam do Đỗ Bá, tên
chữ là Công Đạo, soạn vẽ vào thế kỷ XVII, ghi rõ trong lời chú giải bản
đồ vùng Phủ Quảng Ngãi, xứ Quảng Nam: "giữa biển có một bãi cát dài, gọi
là Bãi Cát Vàng", "Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa Đông đưa mười
tám chiếc thuyền đến lấy hoá vật, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ,
súng đạn".
Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư
Trong Giáp Ngọ bình nam đồ, bản đồ xứ Đàng Trong do Đoán quận công Bùi
Thế Đạt vẽ năm 1774, Bãi Cát Vàng cũng được vẽ là một bộ phận của lãnh
thổ Việt Nam.
Phủ biên tạp lục, cuốn sách của nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784) biên
soạn năm 1776, viết về lịch sử, địa lý, hành chính xứ Đàng Trong dưới
thời chúa Nguyễn (1558-1775) khi ông được triều đình bổ nhiệm phục vụ
tại miền Nam, chép rõ đảo Đại Trường Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa)
thuộc phủ Quảng Ngãi.
"Xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, Phủ
Quảng Nghĩa, ở ngoài cửa biển có núi gọi là Cù lao Ré, rộng hơn 30 dặm,6
có phường Tứ Chính, dân cư trồng đậu, ra biển bốn canh thì đến, phía
ngoài nữa lại có đảo Đại Trường Sa. Trước kia có nhiều hải vật và hoá
vật của tầu, lập đội Hoàng Sa để lấy, đi ba ngày đêm mới đến, là chỗ gần
xứ Bắc Hải".
“... Phủ Quảng Ngãi, huyện Bình Sơn có xã An Vĩnh, ở gần biển, ngoài
biển về phía Đông Bắc có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn,
cách nhau bằng biển, từ hòn này sang hòn kia hoặc đi một ngày hoặc vài
canh thì đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát
vàng, dài ước hơn 30 dặm, bằng phẳng rộng lớn, nước trong suốt đáy. Trên
đảo có vô số yến sào; các thứ chim có hàng nghìn, hàng vạn, thấy người
thì đậu vòng quanh không tránh.
Trên bãi vật lạ rất nhiều. Ốc vân thì có ốc tai voi to như chiếc chiếu,
bụng có hạt to bằng đầu ngón tay, sắc đục, không như ngọc trai, cái vỏ
có thể đẽo làm tấm bài được, lại có thể nung vôi xây nhà; có ốc xà cừ,
để khảm đồ dùng; lại có ốc hương. Các thứ ốc đều có thể muối và nấu ăn
được. Đồi mồi thì rất lớn. Có con hải ba, tục gọi là Trắng bông, giống
đồi mồi, nhưng nhỏ hơn, vỏ mỏng có thể khảm đồ dùng, trứng bằng đầu ngón
tay cái, muối ăn được. Có hải sâm tục gọi là con đột đột, bơi lội ở bến
bãi, lấy về dùng vôi sát qua, bỏ ruột phơi khô, lúc ăn thì ngâm nước
cua đồng, cạo sạch đi, nấu với tôm và thịt lợn càng tốt.
Các thuyền ngoại phiên bị bão thường đậu ở đảo này. Trước họ Nguyễn đặt
đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm
cứ tháng ba nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng 5
chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ
bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hoá vật của tầu, như là gươm ngựa, hoa
bạc, tiền bạc, vòng sứ, đồ chiên, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải
ba, hải sâm, hột ốc vân rất nhiều.
Đến kỳ tháng tám thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp, cân và
định hạng xong mới cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm,
rồi lĩnh bằng trở về. Lượm được nhiều ít không nhất định, cũng có khi về
người không. Tôi đã xem số của cai đội cũ là Thuyên Đức Hầu biên rằng:
năm Nhâm Ngọ lượm được 30 hốt bạc; năm Giáp Thân được 5.100 cân thiếc;
năm Ất Dậu được 126 hốt bạc; từ năm Kỷ Sửu đến năm Quý Tỵ năm năm ấy mỗi
năm chỉ được mấy tấm đồi mồi, hải ba. Cũng có năm được thiếc khối, bát
sứ và hai khẩu súng đồng mà thôi.
Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người
thôn Thứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi
thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi
thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên,
tìm lượm vật của tầu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng
sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn
vàng bạc của quý ít khi lấy được”.
Trong số tư liệu còn tìm thấy ngày nay, có thể kể tờ sai sau đây đề năm 1786 của quan Thượng tướng công:
"Sai cai Hội Đức Hầu đội Hoàng Sa dẫn bốn chiếc thuyền câu vượt biển đến
thẳng Hoàng Sa và các cù lao trên biển thu lượm đồ vàng bạc, đồ đồng và
đại bác, tiểu bác,7 đồi mồi, hải ba cùng cá quý mang về kinh đô dâng
nộp theo
lệ".
Giám mục J.L.Taberd, trong bài "Ghi chép về địa lý nước Cochinchine"
xuất bản năm 1837, cũng mô tả "Pracel hay Paracels" là phần lãnh thổ
nước Cochinchine và nói rõ người Cochinchine gọi Pracel hay
Paracels là "Cát Vàng". Trong An Nam đại quốc hoạ đồ xuất bản năm 1838,
ông đã vẽ một phần của Paracel và ghi "Paracel hay Cát Vàng" (Paracel
seu Cát Vàng) ở ngoài các đảo ven bờ miền Trung Việt Nam, vào khu vực
quần đảo Hoàng Sa hiện nay.
An Nam đại quốc hoạ đồ
Đại Nam nhất thống toàn đồ, bản đồ nước Việt Nam đời Nguyễn vẽ vào
khoảng năm 1838, ghi "Hoàng Sa" (số 1) - "Vạn lý Trường Sa" (số 2) thuộc
lãnh thổ Việt Nam, phía ngoài các đảo ven bờ miền Trung Việt Nam thuộc
lãnh thổ Việt Nam.
Đại Nam nhất thống toàn đồ
Đại Nam nhất thống chí, bộ sách địa lý
Việt Nam do Quốc Sử quán nhà Nguyễn (1802-1845) soạn xong năm 1882 ghi
Hoàng Sa là bộ phận lãnh thổ Việt Nam thuộc tỉnh Quảng Ngãi.


Đại Nam nhất thống chí
Đoạn nói về hình thể tỉnh Quảng Ngãi, cuốn sách viết:
“Phía Đông tỉnh Quảng Ngãi, có đảo cát (tức đảo Hoàng Sa liền cát với
biển làm hào; phía tây nam miền sơn man, có luỹ dài vững vàng, phía nam
liền với tỉnh Bình Định, có đèo Bến Đá chắn ngang, phía Bắc giáp tỉnh
Quảng Nam, có ghềnh Sa Thổ làm giới hạn...”
“... Đầu đời vua Gia Long phỏng theo lệ cũ đặt đội Hoàng Sa, sau lại bỏ;
đầu đời Minh Mệnh, thường sai người đi thuyền công đến đấy thăm dò
đường biển, thấy một nơi có cồn cát trắng chu vi 1.070 trượng, cây cối
xanh tốt, giữa cồn cát có giếng, phía Tây Nam còn có ngôi miếu cổ, không
rõ dựng từ thời nào, có bia khắc 4 chữ “Vạn lý Ba Bình” (muôn dặm sóng
yên). Cồn cát này xưa gọi là Phật Tự Sơn, phía đông và phía tây đảo đều
có đá san hô nổi lên một cồn chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 2 thước
ngang với cồn cát, gọi là Bàn Than Thạch. Năm Minh Mệnh thứ 16 sai
thuyền công chở gạch đá đến đấy xây đền, dựng bia đá ở phía tả đền để
ghi dấu và tra hột các thứ cây ở ba mặt tả hữu và sau. Binh phu đắp nền
miếu đào được đồng lá và gang sắt có đến hơn 2.000 cân”.
Nhiều nhà hàng hải, giáo sĩ Phương Tây trong những thế kỷ trước đều xác
nhận Hoàng Sa (Pracel hay Paracel) thuộc lãnh thổ Việt Nam.
Một giáo sĩ Phương Tây đi trên tàu Amphitrite từ Pháp sang Trung Quốc
năm 1701 viết trong một lá thư rằng: "Paracel là một quần đảo thuộc
vương quốc An Nam.
J.B. Chaigneau, cố vấn của vua Gia Long, năm 1820 đã viết trong phần chú bổ sung vào cuốn Hồi ký về nước Cochinchine:
“Nước Cochinchine mà nhà vua bấy giờ đã lên ngôi Hoàng đế gồm xứ
Cochinchine và xứ Đông Kinh… một vài đảo có dân cư không xa bờ biển và
quần đảo Paracel do những đảo nhỏ, ghềnh và đá không có dân cư hợp
thành…".
Trong bài Địa lý vương quốc Cochinchina của Gutzlaff, xuất bản năm 1849
có đoạn nói rõ Paracels thuộc lãnh thổ Việt Nam và chú thích cả tên
Việt Nam là "Cát Vàng".
Với tư cách là người làm chủ, trong nhiều thế kỷ nhà nước phong kiến
Việt Nam đã nhiều lần tiến hành điều tra khảo sát địa hành và tài nguyên
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Các sách địa lý và lịch sử của Việt
Nam từ thế kỷ XVII đã ghi lại kết quả các cuộc khảo sát đó.
Trong Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (thế kỷ XVII):
“Giữa biển có một bãi cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng, dài độ 400 dặm, rộng
20 dặm, đứng dựng giữa biển, từ cửa Đại Chiêm đến cửa Sa Vinh mỗi lần
có gió Tây Nam thì thương thuyền các nước đi ở phía trong trôi dạt ở
đấy, ... có gió Đông Bắc thì thương thuyền đi ở phía ngoài cũng trôi dạt
ở đấy, đều cùng chết đói hết cả, hàng hoá thì đều để lại ở nơi đó”.
"Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa đông đưa 18 chiếc thuyền đến (Bãi
Cát Vàng) lấy hoá vật, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn".
Đại Nam thực lục tiền biên, bộ sử về chúa Nguyễn do Quốc sứ quán nhà Nguyễn soạn xong năm 1844, có đoạn viết:
“Xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, Phủ Quảng Ngãi, ở ngoài biển, có hơn 130
bãi cát, cách nhau hoặc một ngày đường hoặc vài trống canh, kéo dài
không biết mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn lý Hoàng Sa. Trên bãi có giếng
nước ngọt. Sản vật có hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, vích v.v…”.
"Hồi đầu dựng nước, đặt đội Hoàng Sa gồm 70 người, lấy dân xã An Vĩnh
sung vào, hàng năm đến tháng 3 đi thuyền ra đảo, độ ba ngày đêm thì đến,
thu lượm hoá vật, đến tháng 8 trở về nộp. Lại có đội Bắc Hải mộ dân ở
phường Tứ Chính ở Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương sung vào, được lệnh đi
thuyền ra các vùng Bắc Hải, Côn Lôn thu lượm hoá vật. Đội này cũng do
đội Hoàng Sa kiêm quản".
Theo Đại Nam thực lục chính biên, là bộ sử ký do Quốc sử quán triều đình
nhà Nguyễn soạn, viết về các đời vua nhà Nguyễn. Phần viết về các đời
vua Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị được soạn xong năm 1848, ghi sự kiện
Gia Long chiếm hữu các đảo Hoàng Sa năm 1816, sự kiện Minh Mệnh cho xây
miếu, dựng bia trồng cây, đo đạc, vẽ bản đồ các đảo này .
Quyển 52:
“Năm Bính Tý, niên hiệu Gia Long thứ 15 (1816)...
Vua phái Thuỷ quân và đội Hoàng Sa cưỡi thuyền ra Hoàng Sa để thăm dò đường thuỷ”.
Quyển 104:
“Tháng tám mùa thu năm Quý Tỵ, Minh Mệnh thứ 14 (1833)...
Vua bảo Bộ Công rằng: Trong hải phận Quảng Ngãi, có một dải Hoàng Sa, xa
trông trời nước một mầu, không phân biệt được nông hay sâu. Gần đây,
thuyền buôn thường (mắc cạn) bị hại. Nay nên dự bị thuyền mảnh, đến sang
năm sẽ phái người tới đó dựng miếu, lập bia và trồng nhiều cây cối.
Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người dễ nhận biết ngõ hầu tránh khỏi
được nạn mắc cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời”.
Quyển 154:
“Tháng sáu mùa hạ năm Ất Mùi, Minh Mệnh thứ 16 (1835)... dựng đền thờ
thần (ở đảo) Hoàng Sa thuộc Quảng Ngãi, Hoàng Sa ở hải phận Quảng Ngãi,
có một chỗ nổi cồn cát trắng, cây cối xanh um, giữa cồn cát có giếng,
phía Tây Nam có miếu cổ, có tấm bài khắc 4 chữ “Vạn Lý Ba Bình”20. Cồn
Bạch Sa chu vi 1.070 trượng, tên cũ là Phật Tự Sơn, bờ đông, tây, nam
đều đá san hô thoai thoải uốn quanh mặt nước. Phía bắc, giáp với một cồn
toàn đá san hô, sừng sững nổi lên, chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 3
thước, ngang với cồn cát, gọi là Bàn Than Thạch. Năm ngoái vua toan dụng
miếu, lập bia ở chỗ ấy, nhưng vì sóng gió không làm được. Đến đây mới
sai cai đội thuỷ quân Phạm Văn Nguyên đem lính và Giám thành cùng phu
thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, chuyên chở vật liệu đến dựng miếu
(cách toà miếu cổ 7 trượng). Bên tả miếu dựng bia đá; phía trước miếu
xây bình phong. Mười ngày làm xong rồi về”.
Quyển 165:
“Năm Bính Thân, niên hiệu Minh Mệnh thứ 17 (1836), mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1...
Bộ Công tâu: Cương giới mặt biển nước ta có xứ Hoàng Sa rất là hiểm yếu.
Trước kia, đã phái vẽ bản đồ mà hình thể nó xa rộng, mới chỉ được một
nơi, cũng chưa rõ ràng. Hàng năm, nên phái người đi dò xét cho khắp để
thuộc đường biển. Từ năm nay trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng
giêng, xin phái thuỷ quân và vệ Giám thành đáp một chiếc thuyền ô, nhằm
thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi, bắt hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình
Định thuê 4 chiếc thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng xứ Hoàng Sa, không
cứ là đảo nào, hòn nào, bãi cát nào; khi thuyền đi đến, cũng xét xem xứ
ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi, và nước biển
xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thể hiểm
trở, binh dị thế nào, phải tường tất đo đạc, vẽ thành bản đồ. Lại xét
ngày khởi hành, từ cửa biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến xứ
ấy, căn cứ vào đường đi, tính ước được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy,
trông vào bờ biển, đối thẳng vào là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, đối
chênh chếch là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, cách bờ biển chừng bao
nhiêu dặm. Nhất nhất nói rõ, đem về dâng trình”.
“Vua y lời tâu, phái Suất đội Thuỷ quân Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền
đi, chuẩn cho mang theo 10 cái bài gỗ, đến nơi đó dựng làm dấu ghi (mỗi
bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt bài khắc những chữ “Minh
Mệnh thứ 17, năm Bính Thân, thuỷ quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu
Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi
nhớ”).
Đại Nam thực lục chính biên
Cũng trong Đại Nam thực lục chính biên có ghi, năm 1847 Bộ Công đệ trình
lên vua Thiệu Trị tờ Tâu, trong đó có viết: Xứ Hoàng Sa thuộc vùng biển
nước ta. Theo lệ hàng năm có phái binh thuyền ra xem xét thông thuộc
đường biển. Năm nay bận nhiều công việc xin hoãn đến năm sau. Vua Thiệu
Trị đã
phê: "Đình".
Tờ tâu của Bộ Công đệ trình lên vua Thiệu Trị năm 1847
Trong Đại Nam nhất thống chí (1882):
“Đảo Hoàng Sa: ở phía Đông cù lao Ré huyện Bình Sơn. Từ bờ biển Sa Kỳ ra
khơi thuận gió, ba bốn ngày đêm có thể đến. Ở đó có đến hơn một trăm ba
mươi đảo nhỏ, cách nhau hoặc một ngày đường hoặc vài trống canh. Trong
đảo có bãi cát vàng, liên tiếp kéo dài không biết mấy ngàn dặm tục gọi
là Vạn lý Trường Sa. Trên bãi có giếng nước ngọt, chim biển tụ tập không
biết cơ man nào. Sản xuất nhiều hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, vích… Hoá vật
của các tầu thuyền bị nạn bão trôi giạt ở đấy".
Các sách khác thời Nguyễn như Lịch triều hiến chương loại chí (1821),
Hoàng Việt địa dư chí (1833), Việt sử cương giám khảo lược (1876) cũng
mô tả Hoàng Sa một cách tương tự.
Do đặc điểm của Hoàng Sa và Trường Sa là có nhiều hải sản quý lại có
nhiều hoá vật của tàu bị đắm như trên đã nói, Nhà nước phong kiến Việt
Nam từ lâu đã tổ chức việc khai thác hai quần đảo đó với tư cách một
quốc gia làm chủ. Nhiều sách lịch sử và địa lý cổ của Việt Nam đã nói rõ
tổ chức, phương thức hoạt động của các đội Hoàng Sa có nhiệm vụ làm
việc khai thác đó.
Kế tiếp các chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn phải liên tiếp đối phó với sự xâm
lược của nhà Thanh và của Xiêm, tuy vậy vẫn luôn luôn quan tâm đến việc
duy trì và sử dụng các đội Hoàng Sa.
Nghĩa là thời Tây Sơn, Nhà nước vẫn tiếp tục tổ chức việc thai thác
Hoàng Sa với ý thức thực hiện chủ quyền của mình đối với Hoàng Sa.
Từ khi nắm chính quyền năm 1802 đến khi ký với Pháp Hiệp ước 1884, các
vua nhà Nguyễn ra sức củng cố chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Đội Hoàng Sa, sau được tăng cường thêm đội Bắc Hải, được duy trì và hoạt
động liên tục từ thời các chúa Nguyễn (1558-1783) đến nhà Tây Sơn
(1786- 1802) và nhà Nguyễn (1802-1945).
Như vậy qua các sách lịch sử, địa lý cổ của Việt Nam cũng như chứng cứ
của nhiều nhà hàng hải, giáo sĩ Phương Tây nói trên từ lâu và liên tục
trong hàng mấy trăm năm, từ triều đại này đến triều đại khác Nhà nước
Việt Nam đã làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sự có mặt đều
đặn của các đội Hoàng Sa do Nhà nước thành lập trên hai quần đảo đó mỗi
năm từ 5 đến 6 tháng để hoàn thành một nhiệm vụ do Nhà nước giao tự nó
đã là một bằng chứng đanh thép về việc Nhà nước Việt Nam thực hiện chủ
quyền của mình đối với hai quần đảo đó. Việc chiếm hữu và khai thác đó
của Nhà nước Việt Nam không bao giờ gặp phải sự phản đối của một quốc
gia nào khác; điều đó càng chứng tỏ từ lâu quần đảo Hoàng Sa và quần đảo
Trường Sa đã là lãnh thổ Việt Nam.
Việc bảo vệ và thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với các quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay
Khi trở lại Đông Dương sau chiến tranh thế giới thứ hai, đầu năm 1947
Pháp đã yêu cầu quân Trung hoa Dân Quốc rút khỏi các đảo của hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà họ đã chiếm đóng trái phép cuối năm 1946 và
Pháp đã cho quân đến thay thế quân đội Trung Quốc, xây dựng lại trạm
khí tượng và đài vô tuyến điện.
Trạm khí tượng Itu Aba ở đảo Ba Bình, quần đảo Trường Sa (Văn kiện của tổ chức khí tượng thế giới (OMM) năm 1949
Ngày 7-9-1951, trưởng đoàn đại biểu của Chính phủ Bảo Đại Trần Văn Hữu
tuyên bố tại Hội nghị San Francisco về việc ký hoà ước với Nhật Bản rằng
từ lâu quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là bộ phận của lãnh thổ
Việt Nam: “… và cũng vì cần phải dứt khoát lợi dụng tất cả mọi cơ hội để
dập tắt những mầm mống các tranh chấp sau này, chúng tôi khẳng định chủ
quyền đã có từ lâu đời của chúng tôi đối với các quần đảo Trường Sa và
Hoàng Sa”.
Lời tuyên bố của Đoàn đại biểu Việt Nam tại Hội nghị San Francisco (1951).
(Đăng trong tạp chí France-A’e số 66-67 Novembre-Décembre, 1951)
Tuyên bố đó không gặp sự chống đối hoặc bảo lưu nào của đại diện 51 quốc gia tham dự Hội nghị.
Năm 1953, tàu Ingénieur en chef Girod của Pháp khảo sát ở quần đảo Hoàng Sa về hải dương, địa chất, địa lý, môi sinh.
Chính phủ Sài Gòn, sau đó là cả Chính phủ Sài Gòn và Chính phủ Cách mạng
lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, cũng đều thực hiện chủ quyền của
Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Dưới đây là một vài bằng chứng:
Năm 1956, lực lượng hải quân của Chính quyền Sài Gòn tiếp quản các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi Pháp rút quân về nước.
Năm 1956, Sở Hầm mỏ, kỹ nghệ và tiểu công nghiệp miền Nam tổ chức một
cuộc khảo sát với sự giúp đỡ của hải quân của Chính quyền Sài Gòn trên 4
đảo: Hoàng Sa (Pattle), Quang Ảnh (Money), Hữu Nhật (Robert), Duy Mộng
(Drumond).
Ngày 22-10-1956, Chính quyền Sài Gòn đặt quần đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Phước Tuy.
Ngày 13-7-1961, Chính quyền Sài Gòn đặt quần đảo Hoàng Sa, trước kia
thuộc tỉnh Thừa Thiên, vào tỉnh Quảng Nam và thành lập tại quần đảo này
một xã lấy tên là xã Định Hải, trực thuộc quận Hoà Vang và đặt dưới
quyền một phái viên hành chính.

Sắc lệnh số 174-NV ngày 13/7/1961 của
Tổng thống Việt Nam Cộng hoà Ngô Đình Diệm
Từ 1961 đến 1963, chính quyền Sài Gòn lần lượt cho xây bia chủ quyền ở
các đảo chính của quần đảo Trường Sa như: Trường Sa, An Bang, Song Tử
Tây, v v...
Bia chủ quyền Việt Nam dựng trên đảo Trường Sa, quần đảo Trường Sa
(1961)
Hải quân Việt Nam trên đảo Song Tử Tây
(thuộc quần đảo Trường Sa)
Ngày 21-10-1969, Chính quyền Sài Gòn sáp nhập xã Định Hải vào xã Hoà Long cũng thuộc quận Hoà Vang, tỉnh Quảng Nam.
Tháng 7-1973, Viện Khảo cứu nông nghiệp thuộc Bộ Phát triển nông nghiệp
và điền địa Sài Gòn tiến hành khảo sát đảo Nam Ai (Nam Yết) thuộc quần
đảo Trường Sa.
Tháng 8-1973, với sự hợp tác của Công ty Nhật Maruben Corporation, Bộ Kế
hoạch và phát triển quốc gia Sài Gòn tiến hành khảo sát phốt phát ở
quần đảo Hoàng Sa.
Ngày 6-9-1973, Chính quyền Sài Gòn sáp nhập các đảo Trường Sa, An Bang,
Itu Aba, Song Tử Đông, Song Tử Tây, Loại Ta, Thị Tứ, Nam Ai, Sinh Tồn và
các đảo phụ cận vào xã Phước Hải, Quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy.

Nghị định số 420-BNV/HCĐP/26 ngày 6 tháng 9 năm 1973 của Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hoà
Có ý thức về chủ quyền từ lâu đời của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa
và quần đảo Trường Sa, các chính quyền miền Nam Việt Nam đều bảo vệ chủ
quyền đó mỗi khi có nước ngoài biểu thị ý đồ tranh giành hay xâm chiếm
đảo nào đó trong hai quần đảo.
Ngày 16-6-1956, Bộ Ngoại giao chính quyền Sài Gòn tuyên bố một lần nữa
khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa. Đồng thời
cũng trong năm này, Chính quyền Sài Gòn đã kịch liệt phản đối việc Cộng
hoà nhân dân Trung Hoa chiếm nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa của
Việt Nam.
Ngày 22-2-1959, Chính quyền Sài Gòn bắt giữ trong một thời gian 82 “ngư
dân” Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đổ bộ lên các đảo Hữu Nhật, Duy Mộng và
Quang Hoa trong quần đảo Hoàng Sa.
Ngày 20-4-1971, Chính quyền Sài Gòn khẳng định một lần nữa quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam.
Ngày 13-7-1971 Ngoại trưởng chính quyền Sài Gòn khẳng định một lần nữa
chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo đó trong cuộc họp báo ngày
10-7-1971.
Ngày 19/1/1974, lực lượng quân sự của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa chiếm
đóng nhóm Tây Nam của quần đảo Hoàng Sa và cũng trong ngày này chính
quyền Sài Gòn tuyên bố lên án Cộng hoà nhân dân Trung Hoa xâm phạm toàn
vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Ngày 26-1-1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời
Cộng hoà miền Nam Việt Nam tuyên bố lập trường 3 điểm về việc giải quyết
các vấn đề tranh chấp lãnh thổ; ngày 14-2-1974 tuyên bố khẳng định quần
đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một bộ phận của lãnh thổ Việt
Nam.
Ngày 5 và 6-5-1975, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt
Nam thông báo việc giải phóng các đảo ở quần đảo Trường Sa do Chính
quyền Sài Gòn đóng giữ. Ngày 28-6-1974, tuyên bố tại khoá họp thứ nhất
Hội nghị Luật Biển lần thứ 3 ở Caracas rằng quần đảo Hoàng Sa và quần
đảo Trường Sa là của Việt Nam.
Tháng 9-1975, Đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền
Nam Việt Nam tại Hội nghị khí tượng ở Colombo tuyên bố quần đảo Hoàng Sa
là của Việt Nam và yêu cầu Tổ chức khí tượng thế giới tiếp tục ghi tên
trạm khí tượng Hoàng Sa của Việt Nam trong danh mục trạm khí tượng của
Tổ chức khí tượng thế giới (trước đây đã được đăng ký trong hệ thống các
trạm của OMM dưới biểu số 48.860).
Trạm khí tượng Hoàng Sa của Việt Nam
(Văn kiện của tổ chức khí tượng thế giới (OMM) năm 1973
Nhà nước CHXHCN Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng
về biển và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như: Tuyên bố của Chính
phủ nước CHXHCN Việt Nam về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam năm 1977; Tuyên bố của Chính phủ
nước CHXHCN Việt Nam về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải
Việt Nam năm 1982; Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992; Nghị quyết
của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 5 năm 1994 về việc
phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982; Luật Biên
giới quốc gia năm 2003.
Về quản lý hành chính, năm 1982, Chính phủ Việt Nam đã quyết định thành
lập huyện đảo Trường Sa thuộc tỉnh Đồng Nai và huyện đảo Hoàng Sa thuộc
tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, hiện
nay, huyện Hoàng Sa thuộc thành phố Đà Nẵng và huyện Trường Sa thuộc
tỉnh Khánh Hoà.
Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ Nghĩa Việt Nam đã nhiều lần khẳng định chủ
quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hoặc trong
các công hàm gửi các bên có liên quan, hoặc trong các tuyên bố của Bộ
Ngoại giao, hoặc trong các Hội nghị của Tổ chức Khí tượng thế giới ở
Genève, (tháng 6-1980), của Đại hội Địa chất thế giới ở Paris (tháng 7
năm 1980) v.v…
Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần công bố “Sách trắng” (năm 1979, 1981,
1988) về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường
Sa, khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là một bộ phận không thể
tách rời của lãnh thổ Việt Nam, Việt Nam có đầy đủ chủ quyền đối với
hai quần đảo này, phù hợp với các quy định của luật pháp và thực tiễn
quốc tế.
Ngày 14-3-1988, Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam ra Tuyên bố lên án
Trung Quốc gây xung đột vũ trang và chiếm đoạt một số bãi đá ngầm tại
Trường Sa.
Tháng 4-2007, Chính phủ Việt Nam quyết định thành lập thị trấn Trường Sa, xã Song Tử Tây và xã Sinh Tồn thuộc huyện Trường Sa.
Kết luận
Từ những tư liệu lịch sử rõ ràng, và căn cứ vào những nguyên tắc của
luật pháp và tập quán quốc tế, có thể rút ra kết luận sau đây:
1. Từ lâu, Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu thật sự quần đảo Hoàng Sa và
quần đảo Trường Sa khi mà các quần đảo đó chưa thuộc chủ quyền của bất
cứ quốc gia nào.
2. Từ thế kỷ XVII đến nay, suốt trong mấy thế kỷ, Nhà nước Việt Nam đã
thực hiện một cách thật sự, liên tục và hoà bình chủ quyền của Việt Nam
đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
3. Nhà nước Việt Nam luôn luôn bảo vệ tích cực các quyền và danh nghĩa
của mình trước mọi mưu đồ và hành động xâm phạm tới chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ và quyền lợi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.
Một số tư liệu - điều ước quốc tế
liên quan đến chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam
1. Tuyên bố Cai-rô ngày 27-11-1943, khi cuộc chiến tranh thế
giới lần thứ hai bước vào giai đoạn khốc liệt nhất, hội nghị tam cường
Anh - Mỹ - Trung (Cộng hòa Trung Hoa, đại diện lúc đó là Tưởng Giới
Thạch) đã họp và ra một bản Tuyên bố tại Cai-rô (thủ đô Ai-Cập). Tuyên
bố có đoạn viết: “ …Nhật Bản phải bị loại ra khỏi tất cả các đảo ở Thái
Bình Dương mà Nhật đã cướp hoặc chiếm đóng từ khi bắt đầu cuộc chiến
tranh thế giới thứ nhất năm 1914 và tất cả những lãnh thổ Nhật đã chiếm
của Trung Quốc như Mãn Châu Lý, Đài Loan và Bành Hồ sẽ được trả lại cho
Cộng hòa Trung Hoa”26. Như vậy là về phần lãnh thổ của Trung Quốc, Tuyên
bố Cai-rô khẳng định ý chí của các cường quốc buộc Nhật Bản phải trao
trả lại cho Cộng hòa Trung Hoa các lãnh thổ mà Nhật Bản đã chiếm của
Trung Quốc gồm “Mãn Châu Lý, Đài Loan và Bành Hồ”, không có gì liên quan
đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
2. Hội nghị Postdam ngày 26-7-1945, những người đứng đầu 3
nước Mỹ, Anh, Trung (Cộng hòa Trung Hoa) đã lại ra Tuyên ngôn khẳng định
“Các điều khoản của Tuyên bố Cai-rô sẽ được thi hành”. Sau khi tuyên
chiến với Nhật Bản ở Viễn Đông, Liên Xô cũng tham gia Tuyên ngôn này.
Theo quyết định của Hội nghị Postdam là Trung Quốc chịu
trách nhiệm giải giáp quân đội Nhật ở khu vực Bắc vĩ tuyến 16. Từ cuối
năm 1946, quân đội của Tưởng Giới Thạch đến một số đảo của quần đảo
Hoàng Sa và các tỉnh phía bắc Việt Nam để thực hiện việc giải giáp quân
đội Nhật Bản ở đây, hoạt động này hoàn toàn không có ý nghĩa xác định
hoặc thu hồi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
3. Hội nghị San Francisco từ ngày 4 đến 8-9-1951, có đại
diện 51 nước tham dự để bàn về việc ký Hòa ước với Nhật Bản. Điều 2,
Chương II của Dự thảo Hòa ước được đưa ra để Hội nghị thảo luận có ghi
Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và các đòi hỏi của mình đối với các
lãnh thổ được nêu rõ trong các khoản của điều này:
26 Hội nghị Cai-rô và Teheran 1943 trang 448. Văn kiện Bộ Ngoại giao Mỹ , 1961-Washington.
a) Triều Tiên;
b) Đài Loan, Bành Hồ;
c) Kurile, phần phía Nam đảo Sakhalin;
d) Các đảo ở Thái Bình Dương;
e) Châu Nam Cực;
f) Các đảo thuộc các quần đảo Spratly (Trường Sa) và Paracel (Hoàng Sa).
- Tại phiên họp toàn thể ngày 5-9-1951, Hội nghị đã tán
thành quyết định của chủ tịch không chấp thuận đề nghị bổ sung đòi “Nhật
Bản công nhận chủ quyền hoàn toàn của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đối
với Manchuria (Mãn Châu), đảo Đài Loan (Formosa) với tất cả các đảo kế
cận nó, quần đảo Penlinletao (Pescadores tức Bành Hồ), quần đảo
Tunshatsuntao (quần đảo Pratas), cũng như đối với 2 quần đảo
Sishatuntao và Chunshatsuntao (quần đảo Hoàng Sa, nhóm đảo Amphitrites,
bãi cát ngầm Maxfield) và quần đảo Nanshatsuntao, kể cả quần đảo Trường
Sa, và Nhật từ bỏ tất cả các quyền, danh nghĩa và đòi hỏi đối với các
vùng lãnh thổ nêu trong điểm này”.
Quyết định này của Hội nghị đã được thông qua với 46 phiếu
thuận, 3 phiếu chống, 1 phiếu trắng. Trong các nước bỏ phiếu thuận có:
Ác-hen-ti-na, Ô- xtrây-li-a, Bỉ, Bô-li-vi-a, Bra-xin, Cam-pu-chia,
Ca-na-đa, Xri-Lan-ca, Chi-lê, Cô-lôm-bi-a, Cô-xta Ri-ca, Cu-Ba,
Đô-mi-ni-ca, Ê-cu-a-đo, Ai-cập, En Xan-va- do, E-ti-ô-pi, Pháp, Hy Lạp,
Goa-tê-ma-la, Ha-i-ti, Hôn-đu-rát, In-đô-nê-xi-a, I- ran, I-rắc, Lào,
Li-Băng, Li-bê-ri-a, Lúc-xăm-bua, Mê-hi-cô, Hà Lan, Tân Tây Lan,
Ni-ca-ra-goa, Na-uy, Pa-ki-xtan, Pa-na-ma, Pa-ra-goay, Pe-ru,
Phi-lip-pin, A-rập Xê-út, Xi-ri, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh và Bắc Ai-Len, Mỹ, Việt
Nam, Nhật Bản.
Cuối cùng, Điều 2 Chương II của Hòa ước vẫn được giữ nguyên như Dự thảo và gồm 6 khoản sau đây:
“a) Nhật Bản, trong khi công nhận nền độc lập của Triều
Tiên, từ bỏ tất cả các quyền, danh nghĩa và đòi hỏi đối với Triều Tiên,
kể cả các quần đảo Quelpart Port Hamilton và Dagelet.
b) Nhật Bản từ bỏ tất cả các quyền, danh nghĩa và đòi hỏi đối với vùng Formosa (Đài Loan) và Pescadores (Bành Hồ).
c) Nhật Bản từ bỏ tất cả các quyền, danh nghĩa và đòi hỏi
đối với quần đảo Kurile, đảo Sakhalin và quần đảo nằm sát nước Nhật Bản
mà ở đó Nhật Bản đã giành được chủ quyền theo Hiệp ước Portsmouth ngày
5-9-1905.
d) Nhật Bản từ bỏ tất cả các quyền, danh nghĩa và đòi hỏi
liên quan tới chế độ uỷ trị của Hội quốc liên, và chấp nhận quyết định
quyết định ngày 2-4-1947 của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc gia hạn chế
độ uỷ trị đối với các đảo Thái Bình Dương trước đây dưới quyền uỷ trị
của Nhật Bản.
e) Nhật Bản từ bỏ tất cả các đòi hỏi muốn có bất kỳ quyền,
hoặc danh nghĩa, hoặc lợi ích nào liên quan tới bất cứ phần nào của vùng
Nam Cực, dù đó là các hoạt động của các công dân Nhật Bản hoặc các hình
thức khác.
f) Nhật Bản từ bỏ tất cả các quyền, danh nghĩa và đòi hỏi
đối với quần đảo Trường Sa (Spratly) và Hoàng Sa (Paracel)”.
- Như vậy, các vùng lãnh thổ mà Tuyên bố Cai-rô xác nhận và
Hòa ước SanFrancisco khẳng định lại là của Trung Quốc chỉ bao gồm Đài
Loan, Bành Hồ. Việc Hòa ước SanFrancisco tách riêng Đài Loan, Bành Hồ và
Hoàng Sa, Trường Sa thành hai khoản riêng biệt (b, f) tự nó đã bao hàm ý
nghĩa không công nhận Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về Trung Quốc.
Cũng tại Hội nghị San Francisco, ngày 7-9-1951, Trưởng đoàn
đại biểu chính quyền Bảo Đại là Trần Văn Hữu đã tuyên bố rằng từ lâu hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là bộ phận của lãnh thổ Việt Nam và
“cũng vì cần phải dứt khoát lợi dụng tất cả mọi cơ hội để dập tắt những
mầm mống các tranh chấp sau này, chúng tôi khẳng định chủ quyền của
chúng tôi đối với các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, những quần đảo
luôn luôn thuộc về Việt Nam”.
Không có bất cứ một đại diện nào của 51 quốc gia tham dự Hội
nghị có ý kiến phản đối hoặc bảo lưu đối với tuyên bố trên của đại diện
Việt Nam tại Hội nghị.
Những tư liệu và chứng cứ kể trên cho thấy một cách rõ ràng
là những văn kiện pháp lý quốc tế, từ Tuyên bố Cai-rô ngày 27-11-1943
(và Tuyên ngôn của Hội nghị Postdam ngày 26-7-1945 khẳng định lại nội
dung Tuyên bố Cai-rô) đến Hòa ước San Francisco ký ngày 8-9-1951 đã
không xác nhận chủ quyền của bất cứ quốc gia nào khác đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Đồng thời, việc không một quốc
gia nào tại Hội nghị SanFrancisco năm 1951, phản đối hoặc bảo lưu về
tuyên bố của Trưởng đoàn đại biểu Việt Nam lúc đó về chủ quyền của Việt
Nam đối với hai quần đảo chứng tỏ cộng đồng quốc tế đã mặc nhiên công
nhận chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
0 comments:
Post a Comment