Trong quá trình nghiên cứu về nhà nước, nhiều học giả đã quan tâm tới
việc tìm kiếm câu trả lời cho các câu hỏi: Nhà nước xuất hiện ở đâu? Từ
khi nào? Nhà nước là do ai lập ra? Vì sao nhà nước xuất hiện? Song việc
lý giải những vấn đề trên rất khác nhau giữa các nhà nghiên cứu nên có
khá nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc nhà nước. Bài viết này sẽ đề
cập một cách khái quát đến một số quan điểm về nguồn gốc nhà nước.
Thứ nhất, quan điểm thần quyền cho rằng nhà nước có nguồn gốc
thần thánh. Các nhà tư tưởng theo quan điểm này lý giải rằng nhà vua -
người đứng đầu nhà nước là do thần thánh sinh ra, là sự hoá thân của
thần thánh trên trần thế và quyền cai trị dân chúng của họ cũng là do
thần thánh ban cho, họ được coi là “Thiên tử”, “Thiên hoàng”, người thay
Trời trị dân. Vì vậy, các nhà vua phải được tôn thờ và được tuyệt đối
phục tùng như thần thánh. Ví dụ: “Trong các tài liệu cổ Ai cập, Chúa
Trời đã từng nói với Hoàng đế Ramgiêsu II rằng: “Ta là cha của con… Ta
trao cho con sứ mệnh của trời đất để con cai quản…””.
Trong Bộ luật Manou của ấn Độ cổ đại đã viết về nhà vua như sau: “Vua
được tạo ra từ những phần của các vị thánh siêu đẳng này… Người là vị
thánh tối cao mang hình người”. Hoặc Đức Vua Hammurabi của Babylone cổ
đại, trong phần mở đầu của bộ luật mang tên ông đã viết: “Ta Hammurabi,
một mục sư được thần Enlin lựa chọn… kẻ nối dõi của các Đế vương do thần
Xin tạo ra. Mácđúc gọi ta lên cai trị nhân dân và mang đến cho đất nước
cuộc đời hạnh phúc… Khi Mácđúc cử ta thống trị muôn dân một cách công
bằng và chính nghĩa truyền khắp đất nước và tạo ra hạnh phúc cho nhân
dân”. Rõ ràng, đây là một quan điểm hoàn toàn duy tâm về nguồn gốc của
nhà nước.
Thứ hai là quan điểm cho rằng nhà nước hình thành trên cơ sở sự
phát triển tự nhiên của các gia đình, là sản phẩm của tự nhiên. Chẳng
hạn, Aristote - đại diện điển hình của quan điểm này - luận giải rằng
con người sẽ không thể tồn tại được nếu không kết hợp lại với nhau giống
như sự kết hợp giữa giống đực và giống cái để duy trì nòi giống trong
các sinh vật khác, điều đó không thông qua một sự lựa chọn mà chỉ do sự
thôi thúc có tính chất bản năng. Do đó xã hội đầu tiên là xã hội giữa
đàn ông với đàn bà trong một gia đình và sau đó là xã hội của nhiều gia
đình được tạo nên do sự thuận lợi lẫn nhau và sự bền vững của chúng,
được gọi là cái làng và cái làng một cách tự nhiên nhất là gồm có tổ
tiên và các con cháu của một gia đình. Sau đó, mỗi gia đình lại trở
thành một cái nhánh của gia đình lớn, được chỉ huy bởi một người già
nhất, vì thế mà các thành bang đầu tiên đã được cai trị bởi các nhà vua.
“Và khi nhiều làng như vậy hoàn toàn hợp nhất với nhau ở mọi khía
cạnh thì tạo thành một xã hội, xã hội ấy chính là một thành bang bao gồm
trong bản thân nó, nếu tôi có thể nói như vậy, mục đích và sự hoàn hảo
của chính quyền: trước tiên có thể đặt nền móng cho cuộc sống của chúng
ta, tiếp đó chúng ta có thể có cuộc sống hạnh phúc. Vì lý do đó, mỗi
thành bang về nguồn gốc phải là sản phẩm của tự nhiên… và con người về
bản chất là một động vật chính trị…”. “… mỗi thành bang được tạo nên bởi các gia đình và mỗi gia đình lại là một bộ phận hợp thành nên nó”.
Aristotle còn luận giải thêm rằng do sự thúc đẩy tự nhiên mà con người
liên kết với nhau một cách tự nguyện tạo thành thành bang vì theo cách
đó mỗi người có thể tìm thấy những lợi ích lớn nhất.
Ông viết: “Như chúng ta đã biết, mỗi thành bang là một xã hội và mỗi
xã hội đều được tạo thành bởi một số lợi ích nhất định, vì điều không
thể chối cãi được là động cơ của tất cả các hoạt động của con người là
vì lợi ích”. Nhờ có khả năng nói mà con người là động vật có tính xã hội, có khả năng giao tiếp cao hơn các động vật khác.
Ngoài ra, con người còn khác với tất cả các động vật khác là họ có khả
năng nhận thức điều tốt và điều xấu, công bằng và bất công và những quan
điểm chung về vấn đề đó đã tham gia vào việc làm hình thành nên gia
đình và thành bang, cho nên điều tồi tệ nhất đối với tất cả mọi người là
không có luật pháp và công lý. Do phải tìm sinh kế mà hình thành nên
việc quản lý gia đình vì nếu không có sự quản lý đó thì không thể sống
và sống tốt được, thành bang cũng tương tự như vậy nên sẽ có người quản
lý và người bị quản lý, người cai trị và người bị cai trị.
Điều đó là tự nhiên, bởi vì: “Cũng là từ tự nhiên đã tạo ra một số
người được ra lệnh và một số khác phải phục tùng, để mỗi người đạt tới
sự an toàn lẫn nhau giữa họ; một người được phú cho khả năng trí tuệ để
suy nghĩ và đắn đo suy tính trước thì phù hợp với tự nhiên phải là người
cao hơn và là người cai trị, trong khi anh ta là người ưu tú thì làm
cho những người khác chỉ đơn thuần là người nô lệ, tiếp sau đó trạng
thái khác nhau giữa ông chủ và nô lệ là thuận lợi như nhau cho cả hai
bên”. Song gia đình khác với nhà nước ở chỗ “Chính quyền trong
gia đình là quân chủ, vì đó là cái chiếm ưu thế trong mỗi gia đình;
nhưng trạng thái chính trị là chính quyền của những người tự do và bình
đẳng”.
Như vậy, theo Aristote, nhà nước ra đời trên cơ sở sự liên kết tự nhiên
và tự nguyện giữa mọi người vì lợi ích của mỗi người và vì lợi ích
chung, Sở dĩ con ngời có thể liên kết với nhau thành các cộng đồng, các
xã hội như gia đình, làng xóm và thành bang là vì họ có khả năng nói nên
họ có khả năng giao tiếp cao hơn các động vật khác và là động vật có
tính xã hội.
Ngoài ra còn vì con người có khả năng nhận thức điều tốt và điều xấu,
công bằng và bất công và có quan điểm chung về những điều đó. Sự xuất
hiện của nhà nước là trực tiếp từ nhu cầu quản lý cộng đồng, quản lý xã
hội, vì nếu không có sự quản lý thì con người không thể sống và sống tốt
được, không có sự an toàn cho mọi người, do đó, sự xuất hiện của nhu
cầu quản lý cũng là tự nhiên, là lẽ đương nhiên. Trong quan hệ quản lý
thì bao giờ cũng phải có người quản lý và người bị quản lý, người ra
lệnh và người phục tùng mệnh lệnh. Trong gia đình thì chủ gia đình là
người quản lý, còn trong thành bang thì những người được phú cho khả
năng trí tuệ ưu tú hơn người phải được đặt cao hơn, là người cai trị và
những người khác sẽ là người bị cai trị, là nô lệ và chính quyền chỉ là
của những người tự do và bình đẳng.
Quan điểm này của Aristote về sau được kế thừa bởi nhiều học giả như
Ciceron, Jean Bodin… Điểm hợp lý của quan điểm này là cho rằng nhà nước
xuất hiện từ nhu cầu quản lý xã hội, bảo vệ an toàn cho mọi người và bảo
vệ lợi ích chung. Song nếu dựa vào quan điểm của Học thuyết Mác – Lênin
thì đây không phải là quan điểm hợp lý về nguồn gốc của nhà nước. Điểm
hạn chế lớn nhất của quan điểm này là nó đã được sử dụng để biện minh
cho sự bất bình đẳng, sự nô dịch và thống trị con người trong xã hội,
coi đó như một điều tự nhiên, tất yếu.
Thứ ba, quan điểm hợp đồng xã hội cho rằng nhà nước ra đời trên
cơ sở một hợp đồng hay thoả thuận xã hội tự nguyện giữa mọi người trong
trạng thái tự nhiên nhằm bảo tồn cuộc sống, tự do và tài sản của họ, do
vậy quyền lực nhà nước là xuất phát từ nhân dân, do nhân dân uỷ quyền
cho nhà nước. Quan điểm này được đề cập đến bởi rất nhiều học giả như
Thomas Hobbe, John Locke, Jean Jacque Rouseau… Song mỗi người lại lý
giải về nguồn gốc nhà nước theo một cách riêng.
Chẳng hạn, Thomas Hobbe (1588 - 1679) cho rằng cái gốc của bản chất con
người là tính ích kỷ, con người sống trong cộng đồng chỉ nhằm lợi ích
của riêng mình. Vì những ham muốn của mình cho nên họ luôn cạnh tranh
với nhau. Do có quyền ngang nhau về tất cả trước mọi vật nên họ thèm
muốn tất cả những vật đó; họ có cùng một khuynh hướng làm hại lẫn nhau
nên giữa họ luôn tiềm ẩn mối nguy hiểm và sợ hãi đối với nhau.
Ông viết: "Sự cạnh tranh trong việc tìm kiếm của cải, danh vọng,
quyền bính hay quyền lực nào đó đã dẫn tới sự tranh giành, thù địch và
chiến tranh bởi vì một kẻ kình địch sẽ đạt được ý muốn của mình bằng con
đường sát nhân, quy phục, xua đuổi hoặc loại trừ kẻ khác." Những ham muốn này đã biến con người thành kẻ thù của nhau nên trong trạng thái tự nhiên "người với người là chó sói". "Tạm
thời con người sống không có chính quyền chung để chống lại sự sợ hãi
của mọi người, họ ở trong trạng thái được gọi là chiến tranh hay chính
là trạng thái chiến tranh của tất cả mọi người chống lại tất cả mọi
người".
Trong thèm muốn và sợ hãi, con người bị tác động bởi sức ép của tự nhiên
lúc ấy là tính ích kỷ theo nguyên tắc nhằm duy trì bản thân và tìm kiếm
lại sự an toàn. Nhưng trong trạng thái tự nhiên, những mệnh lệnh của
quy luật tự nhiên là không bắt buộc. Cho nên, để thoát khỏi "trạng thái
tự nhiên" ấy, con người liên kết lại với nhau bằng một sự thoả hiệp
tương hỗ hình thành một liên minh bảo đảm chống sự hỗn loạn. Sự liên kết
đó là nhà nước. Do đó, chỉ khi con người đã bỏ trạng thái tự nhiên thì
pháp quyền xuất hiện. Chính nhà nước làm nảy sinh cái của tôi và cái của
anh, nó bắt buộc phải tôn trọng sở hữu của người khác. Nhà nước được
lập ra nhằm duy trì hoà bình; con người từ bỏ các quyền mà họ giữ ở
trạng thái tự nhiên để hưởng các quyền khác.
Khi tham gia ký kết hợp đồng thành lập nhà nước, con người phải từ bỏ
tất cả mọi quyền tự nhiên của mình và chuyển giao chúng cho nhà nước.
Nhưng để nhà nước tồn tại, một thoả ước giản đơn giữa những con người là
không đủ mà phải cần một sự liên hợp. Những con người không còn sống
như những cá nhân độc lập và phân cách, mà phải hình thành một ý chí. Do
đó, họ cũng không giữ lại các quyền làm tổn hại đến sự liên kết. Tất cả
các quyền lực được chuyển cho nhà nước bằng cách từ bỏ, một mặt là sự
kháng cự và mặt khác là sự thủ tiêu việc ủy nhiệm đã trao đi. Bởi vậy,
quyền lực của nhà nước, của vua chúa là tuyệt đối và các thần dân không
có bất cứ quyền hành gì đối với nhà nước.
Sống trong trạng thái nhà nước con người bị giữ trong những liên hệ của một khế ước đôi.
Qua khế ước đó một mặt các cá nhân liên hợp với nhau, mặt khác là liên
hợp giữa các cá nhân với người mà họ trao cho quyền lực tối cao (chẳng
hạn nhà vua) và phải cam kết phục tùng quyền uy của người đó một cách
tuyệt đối và không điều kiện. Hậu quả của cái điều ước đôi đó làm cho số
đông thành một sinh vật duy nhất, ông gọi đó là Lêviathan (tức là quái
vật vạn năng trong kinh thánh). Nhà nước thay mặt các cá nhân để thực
hiện một quyền tối thượng tuyệt đối.
Theo ông, nền quân chủ thích hợp với quyền tối thượng tuyệt đối đó. Việc
duy trì hoà bình đòi hỏi vua phải có một quyền uy đầy đủ như: có quyền
lực vô hạn trong việc ban hành các đạo luật, thu thuế, bổ nhiệm quan
chức, tiến hành chiến tranh hay hoà bình, xử án v.v... Vua không phải
phụ thuộc vào một luật pháp nào ngoài bản thân mình.
Như vậy, theo Thomas Hobbe, quyền lực của nhà nước là một thứ quyền lực
nhân tạo và không giới hạn. Ngay cả suy nghĩ của thần dân cũng phải phụ
thuộc vào người cầm quyền, từ đó, nhà nước có quyền cấm đoán các học
thuyết nguy hại đối với nhà nước và buộc cho các thần dân một hình thức
tư duy nào đó. Mọi sự hạn chế và phân chia quyền lực của người cầm quyền
đều nguy hại, bởi lẽ những cái đó sẽ dẫn tới sự diệt vong của nhà nước
và phục hồi "cuộc chiến tranh của tất cả mọi người chống lại nhau".
Theo Hobbe, nhà nước được tạo thành bởi một sự hỗn hợp đầy đủ của những
cá nhân nhằm thực hiện một quyền tối thượng tuyệt đối. Phân biệt chế độ
quân chủ, quý tộc và dân chủ như những hình thức nhà nước khác nhau,
Hobbe ưa thích nền quân chủ chuyên chế bởi vì nó dường như đảm bảo hoà
bình và an ninh cho nhân dân hơn, nó thích hợp với quyền tối thượng
tuyệt đối. Việc duy trì hoà bình đòi hỏi vua phải có một quyền uy đầy
đủ, vua không phải phụ thuộc vào một luật pháp nào ngoài bản thân mình,
dù những luật pháp đó là tự nhiên hay mang tính tôn giáo tối cao. Ông
lên án những mưu toan của nghị viện định hạn chế quyền lực của quốc
vương Anh.
Giống với Hobbe, John Locke (1632 - 1704) cũng cho rằng trước khi có nhà
nước con người sống trong trạng thái tự nhiên. Ở đó mọi người hoàn toàn
tự do, bình đẳng và độc lập với nhau, mỗi người “là chúa tể tuyệt đối của con người và tài sản của chính anh ta, bình đẳng đến mức tối đa và không bị ai thống trị". Trong trạng thái đó, mỗi người có hai quyền lực. Một là,
làm bất cứ cái gì mà anh ta cho là phù hợp với sự tự bảo tồn của anh ta
và những người khác trong phạm vi cho phép của Luật tự nhiên, bởi vì
luật đó là chung cho tất cả mọi người. Hai là, quyền lực để chống lại sự xúc phạm và xâm hại của người khác, xét xử và trừng phạt những sự vi phạm Luật tự nhiên.
Song sự được hưởng những quyền trên và sự sở hữu tài sản của con người
rất không an toàn và không chắc chắn vì chúng luôn luôn bị vi phạm bởi
những người khác và lại thiếu nhiều thứ để bảo đảm cho chúng.
Thứ nhất là ở đó không có một thứ pháp luật được thiết lập ổn định,
được biết rõ, được công nhận và cho phép bởi sự ưng thuận chung, trở
thành chuẩn mực của sự đúng, sai và là tiêu chuẩn chung để giải quyết
tất cả các tranh chấp giữa mọi người.
Thứ hai, trong trạng thái tự nhiên không có những quan toà hiểu
biết và công tâm với thẩm quyền giải quyết tất cả các vụ việc khác nhau
theo luật pháp đã được thiết lập. Vì mỗi người vừa là quan toà, vừa là
người thực hiện Luật tự nhiên nên họ không thể công tâm khi giải quyết
các vụ việc của mình.
Thứ ba, ở đó không có một quyền lực thường xuyên để ủng hộ và giúp
đỡ một sự kết án đúng và sau đó đưa bản án vào thực hiện. Những người bị
làm tổn hại bởi một việc bất công nào đó sẽ hiếm khi quên và khi có khả
năng, họ sẽ dùng vũ lực để thực hiện một sự trừng phạt lại nguy hiểm
gấp nhiều lần sự gây thiệt hại đó, và thường là tiêu diệt những người đã
gây ra sự bất công ấy.
Như vậy, loài người mặc dù được ban cho tất cả những đặc quyền trong
trạng thái tự nhiên, nhưng vì sống trong những điều kiện xấu như trên
nên đã tập hợp lại thành xã hội. Để bổ khuyết những sự thiếu hụt và
những sự không hoàn hảo của con người khi sống đơn độc nên tự nhiên đã
xui khiến họ tìm kiếm sự cộng đồng và tình bằng hữu với những người
khác.
Để thoát khỏi trạng thái tự nhiên, "Cái hoàn cảnh mà tuy được tự do nhưng lại đầy sự sợ hãi và sự nguy hiểm liên miên",
con người đã liên kết với nhau tạo thành xã hội, thành nhà nước, chuyển
giao một phần quyền lực của mình cho nhà nước và đặt mình dưới quyền
thống trị của nó nhằm bảo tồn cuộc sống, tự do và tài sản của mỗi người.
Locke giải thích thêm: "Những sự bất tiện trong việc thực hiện quyền
lực mà mỗi người có để trừng phạt sự vi phạm của người khác rất không
chắc chắn và không theo quy tắc đã làm cho họ đi tìm sự nương náu dưới
những đạo luật đã được thiết lập của chính quyền để mưu cầu sự bảo toàn
cho cuộc sống, tự do và tài sản của họ. Điều đó đã làm cho họ rất vui
lòng chuyển giao quyền lực trừng phạt của mỗi cá nhân mà vẫn được thực
hiện một cách đơn độc cho những người trong số họ được bổ nhiệm để thực
hiện quyền đó theo những nguyên tắc vì xã hội như thế, hoặc những người
được họ uỷ quyền, sẽ phải đồng ý thực hiện quyền lực vì mục đích đó. Và ở
đây chúng ta đã thấy rõ nguồn gốc của cả quyền lực lập pháp lẫn quyền
lực hành pháp cũng như của chính bản thân các chính quyền và các xã hội".
Qua quan điểm của thuyết hợp đồng hay khế ước xã hội về nguồn gốc nhà
nước, có thể thấy, điểm hợp lý của quan điểm này là ở chỗ nó thừa nhận
rằng nhà nước không xuất hiện ngay từ khi xã hội loài người xuất hiện mà
nó chỉ ra đời khi xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định, nhà
nước ra đời do nhu cầu quản lý xã hội, bảo đảm sự an toàn cho mọi người
và sự an ninh cho xã hội; nhà nước có chức năng quản lý xã hội, giữ gìn
trật tự, sự ổn định của xã hội và bảo vệ lợi ích chung của cả cộng
đồng. Song điểm bất hợp lý của quan điểm này là ở chỗ nó không chỉ ra
được rằng nhà nước ra đời không chỉ do nhu cầu tổ chức và quản lý xã hội
mà còn do nhu cầu thống trị giai cấp nên ngoài tính xã hội nó còn có
tính giai cấp.
Thứ tư là quan điểm của Học thuyết Mác, quan điểm được coi là
khoa học và hợp lý nhất về nguồn gốc nhà nước. Với cách nhìn duy vật
biện chứng, khi nghiên cứu về sự xuất hiện nhà nước, các nhà kinh điển
của Học thuyết Mác đã chỉ ra rằng: Nhà nước không phải là hiện tượng
siêu nhiên hay là sản phẩm của tự nhiên, cũng không phải là vĩnh cửu và
bất biến mà là một phạm trù lịch sử, có quá trình phát sinh, phát triển
và tiêu vong. Nhà nước nảy sinh từ xã hội, là sản phẩm có điều kiện của
xã hội loài người. Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội đã phát triển đến
một giai đoạn nhất định, giai đoạn có sự phân chia con người thành giai
cấp và có đấu tranh giai cấp. Nhà nước luôn luôn vận động, phát triển và
chỉ tồn tại trong xã hội có giai cấp, nó sẽ tiêu vong khi những điều
kiện khách quan cho sự tồn tại của nó không còn nữa.
Những luận điểm quan trọng về sự xuất hiện nhà nước đã được Frederich Engels trình bày tập trung trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước", sau này được Lênin bổ sung và phát triển trong tác phẩm "Nhà nước và cách mạng". Theo cách lý giải của các nhà kinh điển, trong lịch sử loài người “không
phải lúc nào cũng đã có nhà nước. Đã từng có những xã hội không cần đến
nhà nước, không có một khái niệm nào về nhà nước và chính quyền nhà
nước cả”. Xã hội không cần đến nhà nước mà Engels nói ở đây chính là
xã hội thị tộc, song tất cả những nguyên nhân và điều kiện dẫn đến sự
hình thành những nhà nước đầu tiên lại nảy sinh ở xã hội này.
Theo Engels, Cộng sản nguyên thuỷ là xã hội có tổ chức đầu tiên của loài
người. Lúc đó, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn hết
sức thấp kém, công cụ sản xuất quá thô sơ, kinh nghiệm sản xuất còn ít,
sự hiểu biết về tự nhiên và xã hội mới ở mức sơ khai nên con người luôn
cảm thấy sợ hãi và bất lực trước thú dữ cũng như trước các tai họa do
thiên nhiên mang lại. Để kiếm sống và tự bảo vệ mình, con người phải dựa
vào nhau cùng chung sống, cùng chống lại thú dữ, cùng lao động và cùng
hưởng thụ những sản phẩm do lao động làm ra.
Lúc đầu con người sống thành từng bầy người nguyên thủy. Trong bầy người
ấy, do bản năng duy trì nòi giống, quan hệ tính giao xảy ra giữa mọi
người đàn ông và đàn bà với nhau, không phân biệt giữa cha mẹ và các
con, giữa ông bà và các cháu hay giữa anh chị em ruột với nhau. Song con
người là thực thể có ý thức và có trí tuệ nên dần dần, do sự phát triển
của nhận thức, họ nhận thấy không thể chấp nhận quan hệ tính giao giữa
những người cùng huyết thống với nhau. Những quy định cấm quan hệ tính
giao giữa những người có cùng huyết thống và họ hàng với nhau đã xuất
hiện và cùng với chúng, nhiều hình thức gia đình đã lần lượt xuất hiện
trong lịch sử. Đó là các hình thức: gia đình huyết tộc, gia đình
punaluan, gia đình đối ngẫu và gia đình một vợ một chồng. Khi hình thức
gia đình punaluan tồn tại, thị tộc đã xuất hiện với tư cách là tế bào và
là đơn vị cơ sở của sự tổ chức xã hội.
Thị tộc là một tập đoàn thân tộc trong một bộ lạc, tức là một nhóm người
cùng huyết tộc về phía nữ và không có quyền lấy nhau, họ có một bà mẹ
tổ chung. Thị tộc được tổ chức theo huyết thống và lúc đầu là thị tộc
mẫu quyền, tức là quan hệ huyết tộc và thừa kế được tính theo mẹ, về sau
là thị tộc phụ quyền. Khi “dân số tăng lên, thì mỗi thị tộc đầu tiên
đó lại chia nhỏ ra thành mấy thị tộc con, và đối với những thị tộc con
này thì thị tộc mẹ là bào tộc; bản thân bộ lạc cũng chia làm nhiều bộ
lạc” và bộ lạc đầu tiên lại trở thành liên minh các bộ lạc cùng thân
tộc. Như vậy, các đơn vị tổ chức trong xã hội này bao gồm thị tộc, bào
tộc, bộ lạc và liên minh các bộ lạc, chúng được hình thành và được duy
trì bởi các quan hệ huyết tộc. “Tổ chức giản đơn đó hoàn toàn phù hợp
với những điều kiện xã hội đã đẻ ra nó… nó có khả năng giải quyết được
tất cả những cuộc xung đột có thể xảy ra”.
Cơ sở kinh tế của xã hội này được đặc trưng bằng chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động, “Cái gì cùng nhau làm ra và dùng chung, thì cái đó là tài sản chung”(3).
Mọi thành viên của thị tộc đều tự do, có địa vị xã hội như nhau, không
có kẻ giàu người nghèo, kẻ thống trị và người bị thống trị. Bình đẳng là
nguyên tắc xử sự cao nhất trong lao động cũng như trong phân phối sản
phẩm. Nền kinh tế của nó là nền kinh tế tự nhiên, tự cấp và tự túc, săn
bắn và hái lượm. “Sự phân công lao động hoàn toàn còn có tính chất tự
nhiên, nó chỉ được thực hiện giữa nam và nữ thôi. Đàn ông thì đánh
giặc, đi săn bắn và đánh cá, tìm nguyên liệu dùng làm thức ăn và kiếm
những công cụ cần thiết cho việc đó. Đàn bà chăm sóc việc nhà, chế biến
thức ăn và chuẩn bị cái mặc: họ làm bếp, dệt, may vá. Mỗi bên đều làm
chủ trong lĩnh vực hoạt động riêng của mình… Mỗi bên đều là chủ sở hữu
những công cụ do mình chế tạo và sử dụng… Kinh tế gia đình là nền kinh
tế cộng sản chung cho nhiều gia đình”.
Tuy cách tổ chức xã hội còn đơn giản như vậy song đã xuất hiện nhu cầu
quản lý, điều hành các hoạt động chung của thị tộc, bộ lạc. Muốn vậy thì
chủ thể điều hành, quản lý phải có quyền lực, tức là phải có khả năng hay sức mạnh để bắt các chủ thể khác trong xã hội phải phục tùng ý chí của mình.
Do vậy, quyền lực và một hệ thống thực hiện quyền lực đã xuất hiện, mặc
dù còn rất đơn giản. Cơ quan quyền lực cao nhất của thị tộc là Hội đồng
thị tộc, bao gồm tất cả các thành viên đã trưởng thành của thị tộc, nam
cũng như nữ. Hội đồng này bàn bạc dân chủ và quyết định tập thể về tất
cả các vấn đề quan trọng của thị tộc: tổ chức lao động sản xuất, quyết
định vấn đề chiến tranh hoặc hoà bình, quyết định việc nộp lễ vật xin xá
tội, việc báo thù cho những người trong thị tộc bị giết hại...
Trong Hội đồng mọi người đều có quyền phát biểu và biểu quyết như nhau
nên các quyết định của Hội đồng thể hiện ý chí chung của các thành viên
và có tính chất bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện đối với mọi
người. Họ thực hiện chúng một cách tự nguyện, song cũng có những biện
pháp cưỡng chế nhất định của cộng đồng đối với những người vi phạm các
quyết định đó. Hội đồng bầu ra tù trưởng và thủ lĩnh quân sự để thay mặt
Hội đồng quản lý thị tộc trong thời bình và thời chiến. Những người này
có quyền lực rất lớn nhưng quyền lực của họ không phải dựa vào một bộ
máy cưỡng chế nào mà dựa vào tập thể cộng đồng trên cơ sở uy tín cá
nhân, sự tín nhiệm và sự ủng hộ của các thành viên trong thị tộc. Tù
trưởng và thủ lĩnh quân sự cùng sống, cùng lao động và hưởng thụ như
những người khác, không có đặc quyền, đặc lợi, họ chịu sự kiểm tra của
Hội đồng thị tộc và có thể bị Hội đồng bãi miễn.
Như vậy, trong xã hội cộng sản nguyên thủy đã có quyền lực và quyền lực
này có hiệu lực thực tế rất cao, có tính cưỡng chế mạnh. Song đó chỉ là
quyền lực xã hội, nó có các đặc điểm là: Không tách rời khỏi cộng đồng
mà thuộc về cả cộng đồng, hòa nhập với dân cư, do toàn thể cộng đồng tổ
chức ra; phục vụ lợi ích của cả cộng đồng; không có bộ máy riêng để thực
hiện. Cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực ở bào tộc, bộ lạc và
liên minh các bộ lạc cũng tương tự như ở thị tộc, song đã thể hiện sự
tập trung quyền lực cao hơn vì tham gia vào hội đồng của các tổ chức này
chỉ gồm tù trưởng và thủ lĩnh quân sự của các thị tộc.
Tóm lại, xã hội cộng sản nguyên thủy là xã hội "không có nhà nước,
lúc đó các quan hệ xã hội và ngay cả xã hội nữa, kỷ luật, tổ chức lao
động đều duy trì được là nhờ có sức mạnh của phong tục, tập quán, nhờ có
uy tín và sự kính trọng đối với những bô lão của thị tộc, hoặc đối với
phụ nữ - địa vị của phụ nữ hồi đó không chỉ ngang với nam giới mà còn
cao hơn nữa, và lúc đó không có một hạng người riêng biệt, hạng người
chuyên môn để bóc lột".
Trong chế độ thị tộc, lực lượng sản xuất tuy phát triển rất chậm chạp
song vẫn phát triển không ngừng. Nhờ sự cải tiến công cụ lao động mà số
thú rừng săn bắn được ngày càng nhiều hơn. Một số bộ lạc tiên tiến nhất
lúc đầu lấy việc thuần dưỡng gia súc và về sau thì lấy việc chăn nuôi và
coi giữ gia súc làm ngành lao động chủ yếu của mình.
Những bộ lạc du mục tách rời khỏi những bộ lạc khác: đó là sự phân công lao động xã hội lớn đầu tiên. Nó đã dẫn đến những hệ quả sau:
+ Sự trao đổi sản phẩm giữa các bộ lạc ngày càng phát triển hơn, súc vật
trở thành hàng hoá dùng để đánh giá tất cả các hàng hoá khác và có chức
năng tiền tệ.
+ Việc mở mang đồng cỏ và trồng trọt ngũ cốc đã xuất hiện để cung cấp thức ăn cho gia súc và sau đó là cho người.
+ Trong lĩnh vực công nghiệp xuất hiện hai thành tựu mới quan trọng là
việc sản xuất ra khung cửi, nấu quặng và chế tạo đồ kim loại.
+ Sản xuất tăng lên trong tất cả các ngành: chăn nuôi súc vật, trồng
trọt, thủ công nghiệp gia đình làm cho nhu cầu sức lao động tăng lên và
tù binh trong chiến tranh bị biến thành nô lệ. “Từ sự phân công lao
động xã hội lớn lần đầu tiên đã nảy sinh ra sự phân chia lớn đầu tiên
trong xã hội thành hai giai cấp: chủ nô và nô lệ, kẻ bóc lột và người bị
bóc lột”.
+ Súc vật được chuyển từ sở hữu công cộng của bộ lạc hoặc của thị tộc
sang sở hữu của những người chủ gia đình cá thể, súc vật cũng như hàng
hoá và nô lệ mà người ta dùng súc vật để đổi lấy là thuộc về người đàn
ông; quyền thống trị thực tế của người đàn ông trong gia đình được xác
lập và duy trì bằng cách lật đổ chế độ mẫu quyền và xác lập chế độ phụ
quyền.
Ở giai đoạn tiếp theo, sắt đã xuất hiện để phục vụ loài người. “Của
cải tăng lên nhanh chóng, nhưng vẫn là của cải của cá nhân; nghề dệt,
nghề chế tạo đồ kim loại và những nghề thủ công khác ngày càng tách khỏi
nhau, làm cho sản phẩm ngày càng có nhiều loại và nghệ thuật sản xuất
ngày càng thêm hoàn hảo… Một sự hoạt động nhiều mặt như thế không thể
chỉ do độc một cá nhân tiến hành được nữa, sự phân công lao động lớn lần thứ hai đã diễn ra: thủ công nghiệp đã tách khỏi nông nghiệp”. Sự phân công lao động lần này lại tiếp tục dẫn đến những biến đổi lớn trong xã hội.
+ Sản xuất phát triển không ngừng, năng suất lao động và giá trị sức lao
động được nâng cao làm cho nô lệ trở thành bộ phận cấu thành chủ yếu
của xã hội.
+ Nền sản xuất bị tách ra thành hai ngành chính nên nền sản xuất trực
tiếp nhằm trao đổi đã ra đời, đó là nền sản xuất hàng hoá và cùng với nó
thì thương nghiệp cũng xuất hiện.
+ Những đất đai có thể trồng trọt được đều đem cấp phát cho các gia đình
sử dụng. Gia đình riêng rẽ bắt đầu trở thành đơn vị kinh tế của xã hội.
Trong xã hội ngoài sự phân biệt giữa người tự do với nô lệ đã xuất hiện
sự phân biệt giữa kẻ giàu và người nghèo.
+ Sự liên minh và hợp nhất của những bộ lạc cùng thân tộc và do đó sự
hợp nhất những lãnh thổ riêng của các bộ lạc thành lãnh thổ chung của bộ
tộc trở thành một điều cần thiết.
+ Thủ lĩnh quân sự của bộ tộc trở thành một viên chức cần thiết, thường trực, đại hội nhân dân được thành lập. “Thủ
lĩnh quân sự, hội đồng, đại hội nhân dân, đó là những cơ quan của cái
xã hội thị tộc đã phát triển thành một xã hội theo chế độ dân chủ quân
sự”.
Bởi vì, chiến tranh và tổ chức chiến tranh đã trở thành chức năng thường
xuyên trong sinh hoạt của nhân dân, chiến tranh và cướp bóc đã trở
thành một nghề thường xuyên. Điều đó đã làm tăng thêm quyền lực của thủ
lĩnh quân sự và tập quán lựa chọn những người kế thừa các thủ lĩnh quân
sự trong cùng một gia đình hình thành, quyền lực của thủ lĩnh quân sự
dần dần trở thành một quyền lực thế tập, đó là cơ sở của vương quyền thế
tập và quý tộc thế tập.
Như vậy, “… toàn bộ chế độ thị tộc chuyển hoá thành cái đối lập với
nó: từ một tổ chức của các bộ lạc nhằm giải quyết một cách tự do những
công việc của mình, nó đã trở thành một tổ chức để cướp bóc và áp bức
láng giềng… các cơ quan của nó, lúc đầu là công cụ của ý chí nhân dân,
thì nay đã trở thành những cơ quan độc lập của sự thống trị và áp bức,
nhằm chống lại chính ngay nhân dân”. Sự chuyển hoá này là do lòng
khao khát của cải đã làm cho các thành viên thị tộc chia thành kẻ giàu
người nghèo và sự chênh lệch về tài sản trong nội bộ thị tộc đã biến “sự thống nhất về quyền lợi thành sự đối kháng giữa các thành viên của thị tộc”.
Sau những lần phân công lao động xã hội lớn, xã hội đã có những biến động cơ bản sau:
+ Nền kinh tế xã hội được chuyển từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh
tế sản xuất và trao đổi. Chế độ sở hữu chung của thị tộc được thay thế
bằng chế độ sở hữu tư nhân của từng gia đình.
+ Tình trạng những người trong cùng thị tộc, bộ lạc thống nhất với nhau
về quyền lợi và chung sống trên cùng một lãnh thổ mà chỉ có mình họ cư
trú không còn nữa mà trên vùng lãnh thổ ấy đã có người của các thị tộc,
bộ lạc khác nhau cùng chung sống; những người đó được phân chia thành
người tự do và nô lệ, thành những người giàu có đi bóc lột và những
người nghèo khó bị bóc lột, những người có nhu cầu, lợi ích xung đột với
nhau.
Đến giai đoạn phát triển tiếp theo, trong xã hội đã diễn sự phân công lao động lần thứ ba, : “ … sự
phân công này đẻ ra một giai cấp không tham gia vào sản xuất nữa, mà
chỉ làm công việc trao đổi sản phẩm, đó là giai cấp thương nhân”, giai cấp này “tuy
không tham gia sản xuất một tí nào, nhưng lại chiếm toàn quyền lãnh đạo
sản xuất và bắt những người sản xuất phụ thuộc mình về mặt kinh tế; nó
trở thành kẻ trung gian không thể thiếu được giữa hai người sản xuất và
bóc lột cả đôi bên”.
Cùng với sự xuất hiện của giai cấp này thì đồng tiền rồi nạn cho vay
nặng lãi ra đời, thêm vào đó, quyền sở hữu tự do và hoàn toàn về ruộng
đất xuất hiện đã kéo theo sự nảy sinh của nạn cầm cố ruộng đất. “Như
vậy, cùng với sự mở rộng thương mại, cùng với tiền và nạn cho vay nặng
lãi, với quyền sở hữu ruộng đất và chế độ cầm cố thì sự tích tụ và tập
trung của cải vào trong tay giai cấp một số ít người cũng đã diễn ra một
cách nhanh chóng…, sự bần cùng hoá của quần chúng và đám đông dân nghèo
cũng tăng lên”, nô lệ cũng tăng lên rất đông.
Trước thực trạng trên, chế độ thị tộc tỏ ra bất lực vì nó vốn “sinh ra từ một xã hội không biết đến một mâu thuẫn nội tại nào cả và chỉ thích ứng với xã hội ấy”.
Nhưng bây giờ, một xã hội mới đã ra đời, một xã hội mà do toàn bộ những
điều kiện kinh tế của sự tồn tại của nó mà phải phân chia thành các
giai cấp đối lập nhau và mâu thuẫn với nhau ngày càng gay gắt. “Nhưng
muốn cho những mặt đối lập đó, những giai cấp có quyền lợi kinh tế mâu
thuẫn nhau đó, không đi đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả
xã hội trong một cuộc đấu tranh vô ích, thì cần phải có một lực lượng
cần thiết, một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội, có nhiệm vụ làm
dịu sự xung đột và giữ cho xung đột đó nằm trong vòng “trật tự”. Và lực
lượng đó, nảy sinh từ xã hội, nhưng lại đứng trên xã hội và ngày càng xa
rời xã hội, chính là Nhà nước”.
Như vậy, theo cách lập luận của Engels thì nhà nước đã ra đời để thay
thế cho chế độ thị tộc, nó nảy sinh từ nhu cầu quản lý, thống trị xã hội
có giai cấp để thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội ấy, nó “tựa hồ
như đứng trên các giai cấp đang đấu tranh với nhau, đã dập tắt cuộc xung
đột công khai giữa họ và cùng lắm là để cho cuộc đấu tranh giai cấp
diễn ra trong lĩnh vực kinh tế, dưới một hình thức được mệnh danh là hợp
pháp”.
Trên đây là một số quan điểm khác nhau về nguồn gốc của nhà nước, xin giới thiệu để bạn đọc cùng tham khảo.



11:17 PM
Hoàng Phong Nhã
Posted in:
0 comments:
Post a Comment