Legal History Rule of Law
Khái niệm Rule of Law có dòng lịch sử khá sâu và nó được nhìn một cách
học thuật là có liên quan đến khái niệm công lý và công bằng được thảo
luận bởi Aristote. Trong khi nền văn minh Hy Lạp phát sinh ra khái niệm
phương Tây về dân chủ nhưng về thực tiễn là nền dân chủ thực sự bị hạn chế ở thành bang Athens, và chính đế chế Roma vô dân chủ đã sản sinh ra một truyền thống phương Tây về sự lập pháp rõ ràng cũng như ứng dụng rộng khắp luật pháp:
Thể chế luật pháp cơ bản của phương Tây sát nhập từ 1 môi trường văn hóa
cụ thể đó là đầu tiên Cộng hòa La Mã (Roma.) Luật La Mã phát triển
trong một hệ thống pháp luật
nhiều thủ tục pháp lý được điều hành bởi những nhà luật gia dày dặn từ
đế chế La Mã, đế chế Byzantine, và sau này nền phong kiến châu Âu. Bởi
vì nó chưa bao giờ nằm trong hạn chế của hiến pháp trong hành pháp, nên nó không mang đặc tính Rule of Law theo quan điểm hiện đại.
Một thủ tục pháp lý và điều luật nổi tiếng của Napoleon (1804-1811) là bảo đảm công bằng mọi công dân trước pháp luật và bảo vệ quyền sở hữu tài sản cá nhân, nhưng luật không xâm phạm đặc quyền của hoàng đế, đặc vụ, đặc cảnh và người kiểm duyệt.
Di sản của đế chế một phần là khái niệm về một hệ thống pháp luật
có tính khoa học và thực tiễn rộng khắp để có thể duy trì trật tự và
bền vững cho chế độ. Tuy nhiên, như đã nói, di sản đó đã không mở rộng
ra rằng bản thân chính quyền cũng bị ràng buộc bởi luật pháp. Ý tưởng
này có thể một sự đóng góp lớn nhất của phương Tây về tư duy pháp luật.
Một cách chắc chắn, trong việc phán xét nhiều trường hợp, văn bản phôi
thai về sự cấp thiết của Rule of Law như la một khái niệm pháp luật phương Tây nền tảng là Magna Carta, chính xác nó hiện thân ý tưởng sau:
Từ năm 1215 ở Anh và nhiều thế kỷ sau trong những quốc gia mà Anh có ảnh
hưởng hay không ảnh hưởng có một tiến trình đối với chính quyền về cách
hành xử Rule of Law. Sự tiến triển chính yếu đầu tiên về Rule of Law
của Anh là sự đồng thuận của Vua John trong Magna Carta vào tháng 6 năm
1215. Và bản chỉnh sửa của hiến chương vĩ đại này được xác nhận vào năm
1297 bởi Vua Edward I và đặt ra một văn kiện pháp lý của Anh đầu tiên
hoặc vĩ đại. Một trong những câu nguyên bản dưới đây đã mang những nét
đặc trưng chính của lý thuyết Rule of Law một cách tương đối trang
trọng:
“Không người dân tự do nào bị bắt hay giam cầm, tước bỏ quyền, tài sản, bị đặt ngoài vòng pháp luật,
bị đày biệt xứ, bị tước đoạt địa vị trong bất kỳ cách nào. Và chúng tôi
(Vua) sẽ không dùng quyền lực để làm như vậy đối với người dân trừ khi
xét xử một cách hợp pháp công bằng bởi luật nhà nước.”
Thế kỷ 17 và 18 là thời kỳ phám phá triết lý trí tuệ những hình thái và
nền tảng chính quyền để cải cách nhà nước châu Âu thời bấy giờ. Những
nghiên cứu và hành động trong thời kỳ này là rất quan trọng trong việc
hiểu về Rule of Law.
Đầu tiên, câu hỏi đặt ra là tính pháp lý của nhà nước. Khi mà sự ủng hộ cho những luật của nhà nước phong kiến
không đòi hỏi từ từ tan rã, các học giả đặt ra câu hỏi chính xác quyền
hành nhà nước là gì. John Locke, Jean-Jacques Russeau và Count
Montesquieu đã có những đóng góp quan trọng nhất. Theo John Locke, nhà
nước phải dựa trên sự đồng thuận số đông. Nếu hoạt động nhà nước không
dựa vào số đông tức là không hiệu lực không hợp pháp.
Thứ hai, câu hỏi về cấu trúc nhà nước
rõ ràng cũng được đưa ra. Những tư tưởng của nhà quý tộc Pháp
Montesquieu là ấn tượng hơn cả. Ông đã mở ra một thời đại lập hiến trong
đó hiến pháp như bản tuyên ngôn thể hiện ý chí của người dân.
1748 trong Tinh thấn pháp luật, Montesquieu viết:
Khi lập pháp và hành pháp thống nhất vào một cá nhân, thì không có tự do. Sự lạm quyền sẽ nảy sinh. Vua và nghị sĩ sẽ ban hành luật độc tài và hành pháp theo thái độ độc tài.
Lập lại, nếu như tư pháp không tách biệt khỏi lập pháp và hành pháp, thì không có tự do. Nếu thẩm phán cũng là người lập pháp hay tư pháp sát nhập với lập pháp, thì tự do và cuộc sống sẽ trong mối nguy hiểm của chuyên quyền. Nếu tư pháp sát nhập với hành pháp thì thẩm phán sẽ hành động như người đi đàn áp.
Thứ ba, những ý tưởng nền tảng về quyền cá nhân được sát nhập. Như một
sự đối lập hoàn toàn đối với quyền lực chuyên quyền của phong kiến, giáo
lý và quân sự. Niềm tin này gắn mỗi cá nhân với những điều nhất định mà
không chính quyền nào hay cá nhân khác có thể tước đoạt. Ý tưởng này là
quyền con người. Và trong bản tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ, ý tưởng
này lại được đưa ra “mọi cá nhân đều có quyền sống, tự do và mưu cầu
hạnh phúc.”
Một thế hệ sau những nghiên cứu của Montesquieu, cách mạng chủ nghĩa lập hiến và dân chủ đã diễn ra. Từ 1776-1791, hầu hết những gì xứng đáng để nói lại cơ bản về dân chủ đã được lưu lại.
Bản tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ ngày 4 thán 7 năm 1776 đã mang tư
tưởng của John Locke về tính pháp lý của chính quyền, đấng tạo hóa cho
con người những quyền không thể tước đoạt và nhà nước phải được sự ủy
thác và đồng thuận của mọi người để bảo vệ những quyền đó.
1789, Bang Massachusetts tiếp nhận Hiến pháp, đưa ra điều khoản thể hiện mối liên hệ giữa phân quyền và Rule of Law:
Trong chính quyền này của Hội đồng trị sự, sở lập pháp không bao giờ thực hiện quyền lực hành pháp và tư pháp. Sở tư pháp không bao giờ thực hiện quyền lực hành pháp và lập pháp. Cho đến cuối cùng, đây là chính quyền dựa trên luật chứ không phải chính quyền dựa vào cá nhân nào.
Tuyên ngôn nhân quyền Pháp 1789 và Điều luật về quyền công dân
Mỹ 1791 đều nêu ra một cách chính xác rằng quyền con người phải được
bảo vệ trước nguy hiểm tiềm tàng của sự chuyên chế độc tài bởi những cơ
chế ngăn nhà nước lạm dụng quyền lực. Điểm thú vị là cụm từ “Rule of
Law” chưa bao giờ được sử dụng trong 2 bảng văn bản lịch sử này bao gồm Hiến pháp Mỹ.
Giáo sư George P.Fletcher đã nói. Không giống như những bản hiến pháp châu Âu điển hình, hiến pháp
Mỹ không đề cập đến từ Rule of Law nhưng có ý tương tự: ngăn cấm tước
đoạt cuộc sống, tự do và tài sản mà không có thủ tục pháp lý.
Thực chất thủ tục pháp lý là cái bảo đảm chắc chắn nhất cho các quyền công dân, được xem như gần với khái niệm Rule of Law.
Có những cụm từ khác gần với Rule of Law đến từ ngôn ngữ khác, Đức có
Rechtsstaat, Pháp có Etat de droit. Trong cả 2 trường hợp, ý tưởng đều
lấy từ ý tưởng của Magna Carta mà Vua Anh đã nêu ra: nhà nước phải bị
ràng buộc bởi luật.
Đến đầu thế kỷ 19, Rule of Law là nguyên tắc pháp lý dẫn đường cho sự phát triển dân chủ
ở Mỹ. Tuy nhiên, thực tế chính trị thời điểm đó không phát huy hết ý
nghĩa của từ Rule of Law. Xã hội phương Tây và Mỹ đã tràn đầy những hình
ảnh phi nhân văn đối với một số bộ phận dân cư. Nô lệ và nông nô phủ
khắp nước Mĩ cho đến biên giới châu Âu của Nga. Từ thế kỷ 19, chủ nghĩa
thực dân và người châu Âu nỗ lực ngăn chặn người không phải châu Âu mở
rộng mà là thu hẹp họ lại. Cách mạng công nghiệp giới thiệu những dạng
bóc lột mới cái mà cũng làm phát sinh những phong trào chính trị. Những
tham gia phong trào nhận ra rằng chính quyền dân chủ đương thời thực chất không cung cấp cần thiết về quyền con người và Rule of Law.
Thế kỳ 20 đưa toàn bộ châu Âu vào thời kỳ hoang tàn bất kỷ nhân văn nhân
quyền và luật pháp, khi mà mối đe dọa bạo lực của một quốc gia đối với
tất cả quốc gia còn lại trên toàn lục địa đi cùng với những cuộc tấn
công chưa có trong tiền lệ đối với sự tồn tại của một dân tộc. Xung đột
diễn ra đồng thời giống vậy ở châu Á dẫm nát quyền con người. Cho đến
khi Thế chiến thứ 2 kết thúc, nhu cầu cấp thiết để tạo cơ quan quốc tế
gìn giữ hòa bình và tuyên bố trở lại quyền con người và Rule of Law.
Bản tuyên ngôn về quyền con người 1948: Xét rằng điều cốt yếu là nhân
quyền phải được một chế độ pháp quyền bảo vệ để con người khỏi bị dồn
vào thế cùng, phải nổi dậy chống áp bức và bạo quyền.
Trong vòng 50 năm trở lại, khái niệm Rule of Law trở nên được đào sâu
một cách chắc chắn và định nghĩa rộng khắp. Việc sử dụng cụm từ này
dường như mọi lúc mọi nơi trong việc bàn luận về nhà nước tốt. Và Rule
of Law được đánh giá như điều kiện tiên quyết để đạt 2 thành công mà các
nhà nước phương Tây theo đuổi: sự phát triển dân chủ ở các nước phương Tây và sự cấp thiết rộng khắp của quốc gia có nền kinh tế thị trường.
Nguon
http://www.mansfieldfdn.org/programs...leghistory.pdf
0 comments:
Post a Comment